Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2008 đã gây ảnh hưởng
bất lợi đến đổi mới và NC&PT doanh nghiệp tại tất cả các quốc gia, và cho đến
nay vẫn chưa thấy có dấu hiệu tái phân bổ các nguồn lực hướng đến các doanh
nghiệp đổi mới hơn. Tác động của cuộc khủng hoảng khác biệt đáng kể giữa các
nước, các ngành, các doanh nghiệp và các loại hình đổi mới. Các nước châu Á
mới nổi, bao gồm cả Hàn Quốc và Trung Quốc cho thấy vai trò năng động của
mình trong hệ thống đổi mới quốc tế. Họ tiếp tục thực hiện tốt hơn các nước phát
triển và có khả năng tiếp tục làm được điều đó trong tương lai. Cuộc khủng hoảng
thậm chí còn mang lại cơ hội cho các doanh nghiệp công nghệ cao đổi mới, đối
với số này các thị trường sẽ tiếp tục mạnh lên.
Các xu thế đổi mới toàn cầu trong tương lai vẫn còn không chắc chắn. Các yếu
tố quan trọng bao gồm các điều kiện kinh tế vĩ mô, các chính sách hỗ trợ đổi mới
công, và khả năng duy trì đổi mới vẫn là một ưu tiên. Việc tránh các tác động lâu
dài của cuộc khủng hoảng đối với đổi mới sẽ là một vấn đề ưu tiên cao; điều này
đặt ra yêu cầu hạn chế thất nghiệp lao động có kỹ năng về dài hạn và cần có sự hỗ
trợ mạnh mẽ của nhà nước cho đổi mới.
Cuối cùng, nhiều nước đã thực hiện các chính sách đổi mới phản ứng trước
cuộc khủng hoảng. Các phản ứng liên quan đến đổi mới chủ yếu chú trọng vào
đầu tư cơ sở hạ tầng cho đổi mới và cung cấp các nguồn lực tài chính cho các
doanh nghiệp. Tuy nhiên, các áp lực ngân sách tại nhiều nước đã dẫn đến một
cuộc khủng hoảng nợ công và có khả năng sẽ gây áp lực đối với sự hỗ trợ công
cho đổi mới.
56 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Những xu hướng chính về khoa học và công nghệ toàn cầu trong năm 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hối các PRI và tạo ra khối lượng tới hạn
thông qua các vụ sát nhập và tái cơ cấu. Tăng cường các mối liên kết bên trong hệ
thống đổi mới quốc gia, bao gồm cả các mối liên kết giữa khoa học và ngành công
nghiệp và các mối quan hệ giữa các PRI và các trường đại học vẫn tiếp tục là trọng
tâm của cải cách nghiên cứu tại nhiều nước.
4. Thương mại hóa nghiên cứu công
Chuyển giao, khai thác và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu công là một lĩnh
vực quan trọng của chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới. Các nỗ lực để khai
thác nghiên cứu công trong một bối cảnh thắt chặt ngân khố tại nhiều quốc gia OECD,
cũng như trước sự cạnh tranh của các đối thủ mới tại châu Á, điều này đã làm tăng áp
lực lên các trường đại học, các tổ chức nghiên cứu công (PRI) và chính phủ nhằm làm
tăng kết quả đầu ra kinh tế cũng như những tác động từ đầu tư nghiên cứu công.
Trong khi tri thức và nghiên cứu được tạo ra bởi hệ thống nghiên cứu công được
truyền bá thông qua nhiều kênh khác nhau, như sự luân chuyển nhân lực nghiên cứu,
các xuất bản phẩm khoa học, các hội thảo, hợp đồng nghiên cứu với ngành công
nghiệp và cấp giấy phép bản quyền các sáng chế của trường đại học, phần lớn sự chú
trọng chính sách của các nước OECD đặt trọng tâm vào việc thúc đẩy chuyển giao tri
thức thông qua một mô hình thương mại hóa kép nhưng có phần tuyến tính. Mô hình
được đặc trưng bằng các lực do cung đẩy (supply-push), ở đó các trường đại học và
37
các PRI chuyển giao các phát minh thông qua việc bán, chuyển giao hay cấp giấy phép
bản quyền, thường dựa trên một cơ sở độc quyền (exclusive) cho các công ty hiện
hành hay cho các liên doanh mạo hiểm mới (ví dụ như các công ty phái sinh hàn lâm).
Sự đảo ngược mô hình cung đẩy là mô hình cầu kéo (demand-pull) dựa trên cơ sở
nghiên cứu theo hợp đồng hoặc nghiên cứu và phát triển hợp tác, qua đó các trường
đại học và các PRI liên kết với các đối tác công nghiệp để tìm ra các giải pháp cho sản
xuất và giải quyết các vấn đề đổi mới.
Hai mô hình hay hai con đường thương mại hóa riêng biệt này đang ngày càng trở
nên hợp nhất, với nghiên cứu và doanh nghiệp đang trông cậy vào sự "mở cửa" và hợp
tác lớn hơn, theo cả hai hướng ngược dòng (upstream) về phần nghiên cứu, và theo
hướng xuôi dòng (downstream) trên con đường thương mại hóa. Sự mở cửa trong
khoa học (open science) đang làm tăng các kênh để chuyển giao và phổ biến các kết
quả nghiên cứu trong khi đó đổi mới mở (open innovation) trong các công ty kinh
doanh lại tạo nên một bộ phận lao động ở nơi cung cấp các ý tưởng và khai thác
chúng. Điều này dẫn đến sự mọc lên của các hình thức trung gian môi giới các hoạt
động thương mại hóa, đáng chú ý có các dịch vụ sở hữu trí tuệ.
Các khía cạnh chủ yếu
Việc xây dựng các năng lực thể chế cần thiết tại các trường đại học và các PRI là
yếu tố trọng tâm trong các nỗ lực nhằm thương mại hóa nghiên cứu công. Tiếp theo sự
ra đời của luật Bayh-Dole tại Mỹ, đạo luật tạo nên các biện pháp khuyến khích các tổ
chức nghiên cứu công đăng ký sáng chế và cấp giấy phép bản quyền, nhiều quốc gia
đã phát triển các văn phòng cấp giấy phép và chuyển giao công nghệ (TTO/TLO) tại
các trường đại học và các PRI. Tuy nhiên, chỉ có một vài nước và một số tổ chức đạt
được thành tích kỷ lục trong thương mại hóa các kết quả nghiên cứu công thông qua
các TTO/TLO. Bên cạnh đó, nhiều quốc gia, trường đại học và các PRI vẫn tiếp tục
đặt năng suất của các TTO dựa vào các biện pháp chuyển giao công nghệ truyền thống
như đăng ký sáng chế và cấp giấy phép. Ngay cả khi hoạt động này gia tăng tại các
nước OECD (hình 23), chúng vẫn đại diện cho một phần rất nhỏ tri thức được chuyển
giao từ các trường đại học và các PRI.
Nhiều quốc gia thuộc OECD như Canađa, Hà Lan, và Thụy Điển đã kết hợp sự hỗ
trợ thể chế và luật pháp đối với việc chuyển giao và thương mại hóa công nghệ với sự
hỗ trợ của các kênh đẩy mạnh tinh thần khởi nghiệp để thương mại hóa tri thức, như:
khởi sự doanh nghiệp từ trường đại học, các vườn ươm tạo và xúc tác, cố vấn và đào
tạo cho các nhà khởi nghiệp hàn lâm, và các chính sách thúc đẩy vốn mạo hiểm và
thiên sứ, các quỹ gieo mầm của chính phủ hay các kênh liên kết các nhà đầu tư thiên
sứ và các SME.
Tuy nhiên, mỗi một giai đoạn trong quá trình thương mại hóa có những đặc tính
riêng và cần có các nỗ lực để nhằm mục tiêu vào các công cụ hỗ trợ, với sự chú trọng
đặc biệt vào các giai đoạn đầu của quá trình, giai đoạn khó khăn nhất mà các SME và
38
doanh nghiệp mới khởi sự phải vượt qua. Ví dụ như Nauy đã xúc tiến chương trình
FORNY2020 tiến hành các biện pháp cho thương mại hóa nghiên cứu tại các viện và
tổ chức nghiên cứu do nhà nước tài trợ, ngoài ra còn cung cấp nguồn kinh phí cho giai
đoạn chứng minh khái niệm (proof-of-concept).
Các xu thế chính sách gần đây
Trong những năm gần đây, nhiều nước đã tìm cách mở rộng các kênh thương mại
hóa nghiên cứu công bằng cách thúc đẩy các lưu lượng hai chiều giữa ngành công
nghiệp và khoa học, ví dụ như thông qua hợp tác công-tư, các xúc tiến/trung tâm
nghiên cứu chung, cấp giấy phép của các trường đại học và các PRI, và các biện pháp
khuyến khích huy động tinh thần khởi nghiệp trong số các nhà nghiên cứu. Các nước
cũng tìm cách thúc đẩy nhanh tốc độ chuyển giao tri thức theo nhiều cách khác nhau.
Thứ nhất, các hệ thống sáng chế quốc gia được củng cố nhằm làm giảm các rủi ro và
những ứ đọng và thúc đẩy các doanh nghiệp mới khởi sự và các SME đăng ký sáng
chế. Ví dụ như Luật sáng chế Mỹ, hệ thống tìm kiếm nhanh của Anh đối với các "ứng
dụng sáng chế xanh", việc thúc đẩy nhanh tiến độ xét đơn đăng ký sáng chế tại Nhật
Bản và Canađa, Luật sáng chế mới của Niu Zilân đang cân nhắc các biện pháp phát
huy các nỗ lực thúc đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ.
Ngoài ra còn có sự hỗ trợ mục tiêu cho hoạt động quản lý SHTT tại các PRI thông
qua tài trợ, hướng dẫn và đào tạo kỹ năng. Chính phủ Anh đang thành lập Văn phòng
Quản lý SHTT quốc gia để hỗ trợ xây dựng năng lực về chuyển giao công nghệ và
thương mại hóa SHTT, bao gồm cả việc hợp tác với các văn phòng chuyển giao công
nghệ của Anh. Chương trình Commercialisation Ôxtrâylia cung cấp một phạm vi các
dịch vụ hỗ trợ thương mại hóa với trị giá lên đến 180 triệu USD đến năm 2014. Hàn
Quốc đã công bố thành lập quỹ SHTT có trị giá 60 triệu USD (50 tỷ KRW) để phục vụ
chuyển giao và thương mại hóa công nghệ tại các PRI. Để nâng cao nhận thức và
chuyên môn, Nauy đã tổ chức một kế hoạch tài trợ để hỗ trợ cho sự phát triển các
chương trình giáo dục mới về SHTT tại các tổ chức giáo dục bậc cao. Tương tự, Anh
cũng đã thành lập quỹ SHTT (IP Fund) để cung cấp các hỗ trợ tài chính cho các tổ
chức trong việc duy trì và bảo hộ quyền SHTT.
Các cơ quan tài trợ quốc gia (ví dụ như các Viện Y học quốc gia (NIH) của Mỹ, các
hợp đồng mẫu về hợp tác NC&PT tại Đan Mạch) và các tổ chức cá nhân cũng thực
hiện nhiều nỗ lực nhằm phát triển các hợp đồng cấp giấy phép chuẩn đối với các sáng
chế hàn lâm và để sử dụng các cơ chế SHTT hợp tác như thành lập kho sáng chế, ngân
hàng patăng, và các hiệp định chia sẻ quyền SHTT để tạo nên các cơ hội thương mại
mới.
Khảo sát tại các nước cho thấy xu hướng nhiều TTO đã mở rộng vai trò và dịch vụ
của mình từ chỗ quản lý chuyển giao công nghệ đến một phạm vi rộng hơn các hoạt
động quản lý SHTT và gia tăng chất lượng nguồn nhân lực về chuyển giao công nghệ
thông qua đào tạo và các chính sách việc làm cạnh tranh.
39
Một số nước và các cơ quan tài trợ như NIH của Mỹ và Hội đồng nghiên cứu kỹ thuật và
khoa học tự nhiên của Canađa đã thực hiện các nỗ lực (thông qua chính sách SHTT mới của
mình) để nhằm phát triển các chính sách thực hành tốt liên quan đến đăng ký sáng chế và
cấp giấy phép SHTT từ nghiên cứu công với quan điểm khuyến khích truyền bá rộng các
kết quả nghiên cứu công, thúc đẩy các hiệu ứng lan tỏa tri thức và tạo ra các cơ hội bổ sung
cho thương mại hóa.
Một xu thế khác liên quan đến các cố gắng điều chỉnh và phối hợp một phạm vi các công
cụ nhà nước để hỗ trợ năng lực của các SME về thương mại hóa tri thức. Các chương trình
thương mại hóa thường có xu hướng phi tập trung và hỗ trợ mục tiêu nhằm vào một phạm
vi rộng các thành phần tham gia vào quá trình thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa
học. Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến việc mất đi hiệu quả kinh tế nhờ quy mô hay các
hiệu ứng hiệp lực. Các nỗ lực đa dạng hóa sự hỗ trợ trong khi cung cấp các chương trình hỗ
trợ tuân theo một cấu trúc thống nhất đang được khuyến khích (ví dụ như chương trình
SATT của Pháp về thành lập các công ty để thúc đẩy nhanh chuyển giao công nghệ hay
Mạng đổi mới của Nhật Bản).
Cuối cùng các chính sách thương mại hóa thường có xu hướng chú trọng vào các kênh
thương mại hóa quốc gia, trong khi các thị trường về SHTT và công nghệ đang ngày càng
trở nên mở rộng quốc tế. Các rào cản đối với thương mại hóa quốc tế có thể bao gồm cả
những khác biệt giữa các quốc gia về quy định luật pháp, các tiêu chuẩn công nghệ hay các
quy định về SHTT. Điều này tương phản với hệ thống hợp tác nghiên cứu quốc tế đã phát
triển hoàn thiện bên trong và ngoài các quốc gia thuộc OECD.
Hình 23: Số đăng ký patăng của các tổ chức nghiên cứu công, 2000-02 và 2007-09
(% tổng đơn đăng ký patăng theo PCT).
Nguồn: OECD Patent Database, 2/2012.
40
5. Hoạt động đổi mới trong khu vực công
Đổi mới sáng tạo trong khu vực công liên quan đến nghiên cứu cải tiến quan trọng
trong công tác điều hành và/hay các dịch vụ công. Hoạt động đổi mới trong khu vực
công có thể được định nghĩa là việc thực hiện bởi một tổ chức nhà nước các giao dịch
hay các sản phẩm mới hoặc đã được cải tiến đáng kể.
Hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với hoạt động khu vực hành chính công ngày càng tinh
xảo và nhiều thách thức mới do những áp lực về ngân khố đang đòi hỏi khu vực công
có các cách tiếp cận mới. Tuy nhiên sự hiểu biết về đổi mới khu vực công, các kết quả
của nó cũng như các chi phí và môi trường thuận tiện vẫn còn tản mạn. Đối mới khu
vực công ít khi được thể chế hóa trong ngân sách chính phủ, cũng như trong vai trò và
quy trình, và ở đây sự hiểu biết và nhận thức vẫn còn rất hạn chế về quy mô đầy đủ các
công cụ sẵn có để các nhà hoạch định chính sách thúc đẩy đổi mới.
Đổi mới sáng tạo trong khu vực công liên quan đến những cải tiến quan trọng trong
các dịch vụ mà chính phủ có trách nhiệm cung cấp, bao gồm cả các dịch vụ do bên thứ
ba cung cấp. Hoạt động này liên quan đến cả nội dung của dịch vụ và các công cụ
được sử dụng để thực hiện. Nhiều nước thành viên OECD tuân theo các cách tiếp cận
sáng tạo các dịch vụ chú trọng hơn đến người dùng, được định hình rõ hơn và phù hợp
với nhu cầu hơn. Đổi mới có thể thay đổi cả việc cung cấp các dịch vụ, thông qua việc
cải tiến các đặc điểm của chúng và nhu cầu đối với dịch vụ, áp dụng các phương thức
mới để nhận biết và đáp ứng nhu cầu.
Các xu thế chính sách gần đây
Các nước đã thông qua các cách tiếp cận khác nhau ở cấp quốc gia nhằm thúc đẩy
đổi mới sáng tạo khu vực công. Phạm vi bao gồm từ việc xây dựng các chiến lược đổi
mới sáng tạo quốc gia trong đó coi vai trò của khu vực công như một nhà đổi mới (như
Pháp) đến việc thành lập các cơ cấu hỗ trợ cho các tổ chức cá thể trong quá trình đổi
mới sáng tạo của họ (như Đan Mạch). Ở đây cũng có những chiến lược và các kế
hoạch hành động trọng tâm riêng nhằm vào hoạt động đổi mới sáng tạo trong các dịch
vụ công, như Phòng thí nghiệm Centrelink concept lab của Ôxtrâylia cho phép thử
nghiệm và đánh giá những cải tiến tiềm năng trong cung cấp dịch vụ ngay trong các
điều kiện làm việc thực Các chiến lược đổi mới cũng có thể được thông qua tại các tổ
chức riêng biệt thuộc khu vực công, nhưng thường có xu hướng theo chi phối bởi các
cá nhân với tầm nhìn đầy đủ và sự quyết tâm để thúc đẩy quá trình đổi mới (Koch and
Hauknes, 2005).
Một số cách tiếp cận đổi mới trong cung cấp dịch vụ công đã được khảo sát của
OECD năm 2012 tổng kết như sau:
Kỹ thuật số (web 2.0): Các công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) tạo khả năng
cho các chính phủ có thể đáp ứng các yêu cầu mới về các dịch vụ online, cung cấp
dịch vụ theo kiểu may đo cho phù hợp với các nhu cầu cá nhân thông qua sự cá nhân
41
hóa dịch vụ, và để làm giảm các chi phí giao dịch. Các chính phủ sử dụng ICT để làm
thay đổi việc cung cấp dịch vụ và lôi kéo người dùng tham gia vào việc lập kế hoạch
hay cung cấp dịch vụ bằng cách sử dụng các công cụ web 2.0. Cơ quan quản lý khẩn
cấp Liên bang Hoa Kỳ sử dụng trang web Twitter để chia sẻ thông tin với các công
dân trong thời kỳ khủng hoảng. Mêhico đã coi ICT như một bộ phận then chốt trong
chiến lược hiện đại hóa cung cấp dịch vụ công của mình.
Hợp tác với công dân và xã hội dân sự: Sự tham gia của các công dân và các tổ
chức xã hội dân sự như là những đối tác trong cung cấp các dịch vụ công (còn được
gọi là hợp tác sản xuất) có thể dẫn đến sự thỏa mãn cao hơn cho người dùng và có thể
giảm bớt chi phí. Sự hợp tác trong đó mang lại cho người dùng sự kiểm soát và sở hữu
lớn hơn có thể làm chuyển biến mối quan hệ giữa người sử dụng và các chuyên gia
dịch vụ. Những thực tiễn như vậy đã được xúc tiến ở giai đoạn thử nghiệm tại Mỹ và
Anh, và đã cho thấy nhiều kết quả có triển vọng về khía cạnh gia tăng sự thỏa mãn và
tăng giá trị của đồng tiền, ví dụ như trong lĩnh vực y tế và bảo hiểm xã hội (OECD,
2011).
Hợp tác với khu vực tư nhân: Ủy thác hay hợp tác với khu vực tư nhân có thể làm
giảm được các chi phí cung cấp dịch vụ đối với chính phủ và mang lại các cách tiếp
cận đổi mới sáng tạo. Hợp tác công-tư (PPP) đang ngày càng hay được áp dụng đối
với các dịch vụ mà theo truyền thống thường được thực hiện thông qua mua sắm công.
Chúng có thể mang lại các cách thức đổi mới để quản lý rủi ro và nâng cao hiệu quả
trong việc thiết kế và mua sắm các dịch vụ công. Ôxtrâylia, Pháp, Đức, Hàn Quốc và
Anh đang ngày càng dựa vào hình thức hợp tác PPP để cung cấp vốn cho xây dựng,
bảo dưỡng và cung cấp các dự án cơ sở hạ tầng (như các bệnh viện).
Các giải pháp cải tiến điều kiện tiếp cận: Một số cách tiếp cận đổi mới sáng tạo
trong cung cấp dịch vụ chú trọng đến việc đưa dịch vụ lại gần hơn với người dùng
bằng cách cải tiến các điều kiện tiếp cận. Ví dụ như những thay đổi về vị trí thực chất
của dịch vụ, như các trung tâm đa dịch vụ cung cấp dịch vụ mua hàng một cửa cho
người dùng và hợp nhất các kênh cung cấp dịch vụ khác nhau để mang lại sự lựa chọn
lớn hơn và phù hợp với yêu cầu cá nhân hơn. Ví dụ như sứ mệnh của Shared Service
của Canađa đó là củng cố cơ sở hạ tầng ICT, bao gồm cả email, các trung tâm và hệ
thống dữ liệu, kết nối 43 bộ và cơ quan.
Sự lựa chọn giải pháp phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài cũng như bên trong, như
hệ thống cung cấp dịch vụ của đất nước (quy định và luật pháp, các cơ cấu tổ chức tài
chính, các thiết chế tổ chức) và vào phạm vi tham gia của các thành phần bên ngoài
trong qúa trình cung cấp. Cũng có thể kết hợp các cách tiếp cận khác nhau, như sử
dụng ICT trong các cách tiếp cận cùng sản xuất với người sử dụng dịch vụ.
6. Chính sách thúc đẩy NC&PT và đổi mới doanh nghiệp
Các chính sách và công cụ kèm theo có thể được đặc trưng hóa theo nhiều cách:
theo các nhóm mục tiêu, các kết quả mong muốn đạt được, và cơ chế tài trợ được sử
42
dụng. Nhiều trong số các đặc tính hóa về bản chất mang tính nhị nguyên, ví dụ như các
công cụ trọng cung (supply-side) so với công cụ trọng cầu (demand-side), nhưng
không nên diễn giải chúng như là những công cụ thay thế mà là bổ sung. Một thách
thức then chốt đó là đạt được một sự cân bằng thích hợp, cân nhắc đến hiện trạng hệ
thống đổi mới hiện tại và triển vọng tương lai. Tổng quan khoa học, công nghệ và
công nghiệp của OECD năm 2012 đã tiến hành khảo sát về hỗn hợp chính sách thúc
đẩy NC&PT doanh nghiệp và đổi mới, và đã chỉ ra những xu hướng sau:
Các công cụ chính sách nhằm vào dân chúng đối lập với các công cụ chính sách
chung: nhiều quốc gia đã dịch chuyển theo hướng các công cụ chính sách nhằm mục
tiêu vào dân cư trong thập kỷ qua và sự phát triển này sẽ tiếp diễn trong vòng 5 năm
nữa. Những công cụ như vậy nhằm mục tiêu vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME)
và các công ty non trẻ, cũng như các lĩnh vực cụ thể.
Các công cụ chính sách nhằm vào công nghệ so với các công cụ chung: qua khảo
sát cho thấy các nước khác nhau đáng kể trong việc cân đối giữa các công cụ chính
sách định hướng công nghệ và phi định hướng công nghệ. Trong khi những thay đổi
tổng hợp là không lớn, nhưng có những biến đổi đáng kể ở từng nước cá thể; khảo sát
cho thấy có đến 80% số câu trả lời chỉ ra những thay đổi tương lai theo hướng sử dụng
hỗn hợp công cụ chính sách, với nhiều nước đang hướng tới các công cụ chính sách
mang định hướng công nghệ hơn (như Braxin, Hy Lạp, Slovenia và Anh), các nước
hướng đến các công cụ chính sách chung có Trung Quốc, Phần Lan, Đức và Thụy Sĩ.
Các công cụ tài chính so với phi tài chính. Đa số các nước vẫn sử dụng các công cụ
tài chính để hỗ trợ cho NC&PT và đổi mới doanh nghiệp. Trong khi có một số thay
đổi theo hướng sử dụng các công cụ phi tài chính tại khoảng một nửa số quốc gia tham
gia khảo sát, vẫn có khoảng 3/4 các quốc gia duy trì công cụ tài chính
Các công cụ cung cấp tài chính trực tiếp so với gián tiếp: các công cụ cấp tài chính
trực tiếp, bao gồm cho vay và bảo lãnh tín dụng, tiền ứng trước có khả năng thanh
toán, các khoản tài trợ cạnh tranh, dịch vụ tư vấn công nghệ và các chương trình mở
rộng, chứng chỉ đổi mới, tài trợ bằng vốn cổ phần (equity financing) và đầu tư mạo
hiểm, ... Các công cụ cung cấp tài chính gián tiếp bao gồm khuyến khích bằng thuế đối
với NC&PT và đổi mới, có thể dưới hình thức dựa trên chi tiêu (tín dụng thuế
NC&PT, miễn thuế NC&PT và tín dụng thuế khấu lưu từ lương NC&PT) hay dựa vào
thu nhập (thuế ưu đãi đối với thu nhập từ bản quyền và thu nhập khác từ vốn tri thức).
Xu thế chung giữa các nước đó là gia tăng tính khả dụng và mức độ hào phóng của các
biện pháp khuyến khích thuế NC&PT, làm cho hỗn hợp công cụ chính sách gián tiếp
có hiệu quả hơn cùng với thời gian.
Cạnh tranh so với phi cạnh tranh: Sử dụng các công cụ cạnh tranh ngày càng trở
nên phổ biến, có nghĩa là những chính sách sử dụng hiệu suất thay cho các chuẩn mực
xác định trong các quy trình lựa chọn. Có khoảng 40% các nước được khảo sát chỉ ra
một sự chuyển biến hướng tới các công cụ mang tính cạnh tranh hơn.
43
Trọng cung thay thế cho trọng cầu: Sự chú trọng truyền thống vào các công cụ
trọng cung, nhưng sự nổi lên gần đây của chính sách trọng cầu nhằm kích thích và
khớp nối nhu cầu công cộng với các giải pháp đổi mới và các sản phẩm từ các công ty.
Nhiều nước chỉ ra rằng trong vòng 5 năm tới sẽ được chứng kiến sự chú trọng gia tăng
đến các công cụ trọng cầu, mặc dù đa số hy vọng rằng các công cụ trọng cung vẫn
chiếm vị trí nổi trội.
7. Cung cấp tài chính cho NC&PT và đổi mới doanh nghiệp
Việc cung cấp tài chính đặc biệt quan trọng đối với đổi mới và tăng trưởng, đặc biệt
là ở các giai đoạn ban đầu phát triển doanh nghiệp. Khả năng tiếp cận đến nguồn tài
chính là vấn đề trọng tâm đối với cả các nhà doanh nghiệp đổi mới và các nhà hoạch
định chính sách. Các doanh nghiệp mới khởi sự và các SME thường phải đối mặt với
trở ngại về tài chính chủ yếu là do khả năng rủi ro cao và sự yếu kém cố hữu của họ.
Bằng chứng cho thấy rằng các SME đổi mới trong khu vực đồng Euro coi cơ hội tiếp
cận đến nguồn lực tài chính là một trong những vấn đề gây áp lực lớn nhất.
Mặc dù tầm quan trọng ngày càng tăng của các hoạt động khởi nghiệp trong việc
thành lập các dự án kinh doanh mạo hiểm mới và thực hiện các hoạt động nghiên cứu
mũi nhọn, các SME đổi mới phải đối mặt với nhiều trở ngại trong việc tiếp cận nguồn
lực tài chính, như thông tin không tương xứng và hố ngăn cách về tài chính giữa nhà
đầu tư và nhà khởi nghiệp. Chất lượng của kế hoạch kinh doanh, dưới khía cạnh thẩm
định đánh giá có thể là một yếu tố ảnh hưởng trong các quyết định tài trợ.
Những yếu tố thị trường không hoàn thiện tiềm năng này biện minh cho sự can
thiệp của nhà nước vào việc cung cấp tài chính cho doanh nghiệp. Ngoài ra để thiết lập
các điều kiện cơ cấu nhằm thúc đẩy đầu tư vào NC&PT và đổi mới, các chính phủ sử
dụng một loạt các công cụ khác nhau như các khoản vay trợ cấp, khuyến khích bằng
thuế và hỗ trợ công cho vốn mạo hiểm. Tài trợ và trợ cấp được cho là đặc biệt có hiệu
quả trong việc giảm nhẹ những trở ngại về tài chính cho các SME dựa vào công nghệ
và có cường độ sử dụng NC&PT cao, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập và ở
vào giai đoạn phát triển ban đầu. Nguồn vốn gieo mầm có thể giúp các nhà khởi
nghiệp không chỉ có cơ hội tiếp cận đến nguồn tài chính mà còn giúp họ vượt qua giai
đoạn "thung lũng chết", do họ gặp khó khăn rất lớn khi giành được dự án hay được tài
trợ bằng vay nợ (debt finance) hay vốn mạo hiểm cho các dự án rủi ro cao.
Các khía cạnh chủ yếu
Đầu tư NC&PT tại các nền kinh tế OECD qua các thập kỷ trước đã tăng lên một
cách vững vàng mặc dù có những dao động trong chu kỳ kinh doanh (OECD, 2011a).
Điều này chỉ ra rằng NC&PT công, thường có xu hướng ngược chu kỳ (counter-
cyclical), đóng vai trò như phần đệm bổ sung cho những khoảng trống về kinh phí do
suy giảm ở đầu tư tư nhân cho NC&PT trong những giai đoạn kinh tế đi xuống. Chi
tiêu NC&PT toàn cầu đã tăng từ 1.252 tỷ USD năm 2010 lên 1.333 tỷ USD năm 2011,
và được cho là đạt con số 1.403 tỷ USD năm 2012, tốc độ tăng trưởng mạnh tiếp diễn
44
ở các nền kinh tế mới nổi và tăng trưởng ổn định ở các nền kinh tế phát triển (Battelle,
2011). NC&PT doanh nghiệp toàn cầu đã tăng 4% vào năm 2010, một sự đảo chiều
mạnh sau khi đã giảm 1,9% vào năm 2009 trước cuộc khủng hoảng tài chính.
Đầu tư vốn mạo hiểm hiện đang trở thành một nguồn tài chính quan trọng đối với
các dự án kinh doanh mạo hiểm dựa vào công nghệ đang có xu hướng tăng lên, ngoại
trừ trường hợp giảm nhẹ tại Mỹ và EU năm 2009 sau cuộc khủng hoảng tài chính năm
2008. Đầu tư của các nhóm thiên sứ kinh doanh tại Mỹ đã giảm mạnh trong năm 2009,
chủ yếu do cuộc khủng hoảng tài chính 2008, nhưng tại EU loại đầu tư này lại tăng lên
đều dặn. Như kinh nghiệm cho thấy, các nhà đầu tư giàu có và không chính thức, các
thiên sứ kinh doanh thường có xu hướng đầu tư vào các giai đoạn đầu có rủi ro cao và
đóng một vai trò có tính quyết định trong việc lấp những khoảng trống về tài chính
giữa giai đoạn ban đầu và giai đoạn tăng trưởng sau này.
Bảng 1: Các công cụ tài chính chủ yếu thúc đẩy đổi mới doanh nghiệp
Công cụ tài
chính
Các đặc điểm chủ yếu trong cung cấp tài
chính
Ghi chú
Vay ngân
hàng
Được sử dụng như một trong những công cụ
phổ biến nhất để tiếp cận nguồn tài chính, cần
có thế chấp hay bảo lãnh để được cho vay.
Có nghĩa vụ phải trả
như một khoản nợ
Tài trợ, trợ
cấp
Được sử dụng như nguồn tài trợ gieo mầm đối
với các doanh nghiệp mới khởi sự và các SME
ở giai đoạn ban đầu: chính sách nghiên cứu đổi
mới doanh nghiệp nhỏ tại Mỹ, Anh và Hà Lan;
khuyến khích giá điện năng lượng tái tạo (feed-
in-tariffs) tại Đan Mạch và Đức, tài trợ OSEO
tại Pháp; Quỹ đầu tư đổi mới tại Anh.
Bổ sung cho bất lực
thị trường, cung cấp
tài chính ở giai đoạn
gieo mầm và ban
đầu.
Thiên sứ
doanh
nghiệp
Nguồn cung cấp tài chính ở giai đoạn rủi ro ban
đầu, cung cấp kinh phí, tư vấn và cố vấn kinh
nghiệm về quản lý doanh nghiệp. Thường có
xu hướng đầu tư dưới hình thức theo nhóm và
mạng lưới, ví dụ như Tech Coast Angels và
Common Angels ở Mỹ, Seraphim Fund tại
Anh.
Cung cấp tài chính ở
giai đoạn khởi sự và
ban đầu.
Vốn mạo
hiểm
Ngày càng có xu hướng đầu tư ở giai đoạn tăng
trưởng sau này, ít rủi ro hơn. Được coi là nguồn
vốn đầu tư lâu dài (10-12 năm) vào giai đoạn
trưởng thành, và có thể đứng vững, ví dụ như
Cung cấp tài chính ở
giai đoạn phát triển
sau này.
45
Quỹ tiền gieo giống (Pre-seed Fund) và Quỹ
Đầu tư đổi mới ở Ôxtrâylia, Quỹ Yozma ở
Israel, Seed Fund Vere ở Phần Lan, Scottish
co-investment Fund ở Anh.
Đầu tư mạo
hiểm doanh
nghiệp
Được sử dụng bởi các công ty lớn để đầu tư
vào các doanh nghiệp đổi mới khởi sự với ý
định cải thiện năng lực cạnh tranh doanh
nghiệp dựa vào các mục tiêu chiến lược và tài
chính.
Động cơ chiến lược.
Tài trợ đám
đông
Hình thức quyên góp tài trợ tập thể thông qua
Internet, có tác dụng tạo điều kiện dễ dàng hơn
cho các doanh nghiệp nhỏ có thể tăng vốn ở
các giai đoạn gieo giống ban đầu.
Có nguy cơ gian lận.
Khuyến
khích thuế
Một phạm vi rộng các khuyến khích thuế
NC&PT và đầu tư khởi nghiệp đang được áp
dụng tại hầu hết các nước, ví dụ như Kế hoạch
đầu tư doanh nghiệp tại Anh, Quy chế miễn
thuế tài sản (ISF) ở Pháp, Kế hoạch phát triển
doanh nghiệp tại Ailen.
Gián tiếp, không
phân biệt.
Nguồn: OECD (2011), Financing High-Growth Firms; NIST (2008), Corporate
Venture Capital.
Các xu thế chính sách gần đây
Việc thúc đẩy đầu tư vào đổi mới thông qua các cơ hội tiếp cận lớn hơn đến các
nguồn tài chính vẫn là một vấn đề quan tâm đối với các nước OECD. Khó khăn là làm
thế nào để gia tăng và mở rộng các nguồn tài chính công và tư cho đổi mới, do các nhà
đầu tư ngày càng chú trọng vào các khoản đầu tư ngắn hạn đứng trước những khủng
hoảng tài chính và nợ chủ quyền gần đây. Những cải cách diễn ra đối với hệ thống
ngân hàng và tài chính tiếp theo cuộc khủng hoảng tài chính, nhưng yêu cầu gia tăng
vốn của các ngân hàng có thể làm giảm sự sẵn sàng chấp nhận rủi ro của các nhà đầu
tư truyền thống. Vì thế các chính phủ đang tìm kiếm các cách thức mới để khuyến
khích các cơ hội tiếp cận nguồn tài chính cho NC&PT và đổi mới, bao gồm cả sự hợp
tác công tư.
Sự hình thành các tổ chức đầu tư mới và các quỹ tài sản chủ quyền có thể mang lại
các nguồn tài chính đổi mới. Internet cũng tạo nên các kênh mới cung cấp tài chính
cho các dự án mạo hiểm nhỏ. Tại Mỹ đạo luật mới về tài trợ đám đông (Crowd
funding) đã thu hút được nhiều sự chú ý trong nước cũng như từ các nền kinh tế khác.
Đầu tư mạo hiểm doanh nghiệp (Corporate venturing), trong đó các công ty lớn đầu tư
46
vào các công ty đổi mới và nhỏ hơn là một nguồn tài chính tiềm năng khác cho
NC&PT. Ở cấp tổ chức, Anh đã thông qua một dự luật mới đối với đầu tư thiên sứ, Bồ
Đào Nha cũng thông qua một đạo luật thuế lợi tức, luật thuế thiên sứ mới ở Israel,
cũng như quy chế miễn thuế tài sản (ISF) ở Pháp.
Khuyến khích thuế đối với NC&PT hiện đang được áp dụng rộng rãi ở 26 trong số
34 quốc gia OECD và ở một số nền kinh tế ngoài OECD (OECD, 2011). Hình thức
cung cấp tài chính gián tiếp này ngày càng được sử dụng để bổ sung cho tài trợ trực
tiếp của chính phủ thông qua các hình thức hợp đồng NC&PT, tài trợ hay trợ cấp trọn
gói. Tại Canađa, Hàn Quốc và Bồ Đào Nha đây là kênh hỗ trợ tài chính chủ yếu của
chính phủ cho NC&PT doanh nghiệp. Các ước tính gần đây, mặc dù vẫn còn thử
nghiệm, cho thấy rằng quy mô phối hợp giữa hỗ trợ gián tiếp và trực tiếp của chính
phủ cho NC&PT doanh nghiệp đã tăng mạnh tại hầu hết các nước kể từ năm 2005
(hình 24). Trong khi Pháp và Bồ Đào Nha mở rộng hệ thống thuế NC&PT của mình,
vừa là phản ứng lâu dài và tạm thời trước cuộc khủng hoảng, thì Liên bang Nga và Mỹ
lại tăng đáng kể nguồn tài trợ trực tiếp. Slovenia và Áo được ghi nhận gia tăng mạnh
nguồn hỗ trợ của chính phủ. Những cải cách này đã dẫn đến những chuyển hướng
quan trọng trong tổ hợp chính sách NC&PT quốc gia tại một số nước.
Hình 24: Tài trợ trực tiếp của chính phủ cho NC&PT doanh nghiệp và khuyến
khích thuế NC&PT, 2010 (% GDP). (Nguồn: MSTI database, OECD 2012; OECD
Science, technology and industry scoreboard 2011)
47
8. Khuyến khích thuế đối với NC&PT và đổi mới doanh nghiệp
Khuyến khích thuế NC&PT thường được coi có những lợi thế nhất định so với hỗ
trợ trực tiếp cho NC&PT, như mua sắm công NC&PT và trợ cấp. Là một công cụ dựa
trên thị trường nhằm mục tiêu vào việc làm giảm các chi phí biên cho các hoạt động
NC&PT, khuyến khích thuế cho phép các công ty tự quyết định tài trợ cho các dự án
NC&PT. Chúng được hy vọng sẽ dẫn đến một sự gia tăng ở đầu tư tư nhân cho
NC&PT và dẫn đến một sự gia tăng ở các kết quả đổi mới và cuối cùng là sự tăng
trưởng dài hạn cao hơn. Chúng cũng có thể thúc đẩy các quyết định khởi sự doanh
nghiệp NC&PT. Khả năng bất lợi bao gồm: 1) Mức lương nhân lực nghiên cứu cao
hơn do gia tăng yêu cầu kỹ năng NC&PT của họ; và 2) có khả năng dẫn đến các hoạt
động chuyển dời cơ sở tiến hành hoạt động NC&PT (cạnh tranh thuế giữa các nước
hay giữa các khu vực).
Các hệ thống thuế NC&PT hiện thời khác biệt khá lớn về các khía cạnh mức độ hào
phóng, thiết kế và chuẩn mực doanh nghiệp hay lĩnh vực NC&PT mục tiêu (bảng 2).
Hệ thống thuế NC&PT bao gồm các khuyến khích thuế dựa trên chi tiêu - quan
trọng nhất có các hình thức tín dụng thuế NC&PT, miễn giảm thuế NC&PT và tín
dụng thuế khấu trừ tiền lương NC&PT, và bên cạnh đó còn có hình thức khuyến khích
thuế dựa trên thu nhập, quan trọng nhất có thuế ưu đãi đối với thu nhập từ bản quyền
và các nguồn thu khác từ vốn tri thức.
Hầu hết các nước OECD và các nền kinh tế mới nổi cung cấp tín dụng thuế NC&PT
dựa trên khối lượng chi tiêu NC&PT đã thực hiện (như Braxin, Canađa, Trung Quốc,
Pháp, Ấn Độ, Nhật Bản, Nauy và Anh). Một số nước khác cung cấp tín dụng thuế
NC&PT đối với chi tiêu NC&PT vượt trội một khối lượng chuẩn đã quy định.
Bảng 2: Khác biệt về hệ thống thuế NC&PT tại một số nước OECD lựa chọn,
2009
Thiết kế hệ
thống khuyến
khích thuế
NC&PT
Tín dụng thuế NC&PT dựa trên
giá trị
Tín dụng thuế NC&PT gia tăng
Tín dụng thuế lai ghép dựa vào
giá trị và gia tăng
Miễn thuế NC&PT
Ôxtrâylia, Braxin, Canađa, Ấn
Độ, Nauy.
Mỹ
Nhật Bản, Hàn Quốc, Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha.
Áo, CH Séc, Đan Mạch,
Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh.
Tín dụng thuế khấu trừ tiền lương NC&PT Bỉ, Hungary, Hà Lan, Tây Ban
Nha, Thổ Nhĩ Kỳ
Khuyến khích thuế NC&PT hào phóng hơn đối
với các SME
Ôxtrâylia, Canađa, Pháp,
Hungary, Nhật Bản, Hàn Quốc,
48
Nauy, Anh
Khuyến
khích thuế
nhằm mục
tiêu
Năng lượng
Hợp tác
Doanh nghiệp mới được hưởng
Doanh nghiệp trẻ và mới khởi sự
Mỹ
Hungary, Italia, Nhật Bản, Nauy,
Thổ Nhĩ Kỳ
Pháp
Pháp, Hàn Quốc, Hà Lan
Quy định mức trần được hưởng miễn giảm thuế
NC&PT
Ôxtrâylia, Italia, Nhật Bản, Hà
Lan, Nauy, Mỹ
Khuyến khích thuế NC&PT dựa trên thu nhập Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha
Không áp dụng khuyến khích thuế NC&PT Estonia, Phần Lan, Đức,
Luxembourg, Mêhicô, Niu Zilân,
Thụy Điển, Thụy Sĩ
Nguồn: OECD Science, Technology and Industry Outlook 2012.
Miễn thuế NC&PT được áp dụng tại các nước Ôxtrâylia, CH Séc, Đan Mạch,
Hungary, và Anh. Tín dụng thuế khấu trừ tiền lương NC&PT (giảm thuế lương và
những đóng góp xã hội) đang được áp dụng tại Bỉ, Hungary, Hà Lan, Tây Ban
Nha và Thổ Nhĩ Kỳ.
Ngoài ra, khuyến khích thuế NC&PT có thể tạo nên chế độ đối xử đặc biệt đối
với một số loại hình doanh nghiệp hay NC&PT đặc biệt. Một số nước cho phép
chuyển tới (carry-forward) hay chuyển lùi (carry-back) đối với các công ty có
biên lai thuế thấp hơn khoản tín dụng thuế NC&PT được miễn. Trong một số
trường hợp các doanh nghiệp còn được hoàn thuế, như các doanh nghiệp mới khởi
sự thường không có lợi nhuận.
Các xu thế chính sách gần đây
Một xu thế chung phổ biến đó là tiến đến gia tăng tính khả dụng, dễ áp dụng và
sự hào phóng của các khuyến khích thuế NC&PT. Pháp (năm 2008) và Ôxtrâylia
(năm 2010) đã thay thế hệ thống thuế phức tạp lai ghép giữa dựa trên giá trị với
gia tăng bằng các biểu thuế đơn giản và hào phóng hơn dựa vào giá trị chi tiêu.
Bỉ, Ailen, Hàn Quốc, Nauy, Bồ Đào Nha và Anh đã nâng tỷ lệ tín dụng thuế của
mình hay nâng mức trần đối với NC&PT được khuyến khích trong những năm gần
đây. Trung Quốc đã mở rộng áp dụng tín dụng thuế NC&PT đến tất cả các công ty
đang hoạt động trong các lĩnh vực công nghệ then chốt (công nghệ sinh học, ICT,
và các lĩnh vực công nghệ cao khác), thậm chí còn áp dụng với cả các công ty
không nằm trong các "khu công nghệ mới" được thiết kế đặc biệt.
Trái lại, Mêhicô và Niu Zilân gần đây đã bãi bỏ các khuyến khích thuế NC&PT
49
của mình. Mêhicô đã chuyển khuyến khích thuế NC&PT sang hình thức trợ giúp
trực tiếp vào năm 2009. Niu Zilân áp dụng tín dụng thuế NC&PT vào năm 2008
nhưng đã bãi bỏ do ảnh hưởng của năm tài khóa 2009-10. Canađa cũng đã quyết
định hợp lý hóa tín dụng thuế NC&PT và thay đổi tập hợp chính sách của mình
theo hướng thiên về hỗ trợ trực tiếp hơn.
Gần đây, các biện pháp khuyến khích thuế NC&PT còn được sử dụng để giúp
các doanh nghiệp đương đầu với cuộc khủng hoảng tài chính, thông thường trên
cơ sở tạm thời. Ví dụ như Nhật Bản và Hà Lan đã tạm thời nâng mức trần đối với
NC&PT được khuyến khích. Nhận thấy nhiều công ty có thể sẽ không đạt được
yêu cầu để được hưởng tín dụng thuế NC&PT do kinh doanh không có lãi do suy
thoái kinh tế, Nhật Bản còn cho phép kéo dài hơn thời hạn chuyển tiếp tín dụng
NC&PT chưa sử dụng. Năm 2009, Pháp đã cho phép hoàn trả thuế đã thanh toán
từ những năm trước. Trước năm 2009, các doanh nghiệp phải đợi đến ba năm mới
được hoàn trả tín dụng mà họ chưa sử dụng. Biện pháp này được cho là làm tăng
tổng thu nhập miễn thuế lên 5,5 tỷ USD (0,26% GDP) trong năm 2009.
9. Đổi mới dịch vụ và đổi mới phi công nghệ
Trước tình trạng năng suất và tăng trưởng việc làm chậm lại, nhiều chính phủ
thuộc các nước OECD đang tìm kiếm các nguồn lực tăng trưởng mới và đã nhận
thức được tầm quan trọng của dịch vụ trong vấn đề này. Dịch vụ đang chiếm đến
khoảng 70% GDP tại các nước OECD. Phát triển dịch vụ hiện đang được thúc đẩy
chủ yếu bởi toàn cầu hóa và sử dụng rộng rãi các công nghệ thông tin và truyền
thông (ICT) nhằm cung cấp các dịch vụ chuẩn hóa (y tế, giáo dục, dịch vụ công).
Các cơ hội thị trường mới đối với dịch vụ cũng được tạo nên thông qua giải điều
tiết và tư nhân hóa khu vực nhà nước (tài chính, viễn thông và dịch vụ năng
lượng) cũng như bằng cách thuê gia công bên ngoài đối với các hoạt động chế tạo.
Mặc dù có sự tăng trưởng, nhưng năng suất trong ngành dịch vụ vẫn tăng chậm
tại nhiều nước OECD. Vì thế, các nhà hoạch định chính sách đã dành sự chú t rọng
lớn hơn đến việc thúc đẩy đổi mới trong lĩnh vực dịch vụ thông qua việc thiết kế
các điều kiện cơ cấu thích hợp, như luật pháp, chính sách cạnh tranh và các chính
sách đổi mới nhằm mục tiêu hơn.
Đổi mới sáng tạo trong các hoạt động dịch vụ đã phát triển rộng vượt ra ngoài
chính bản thân ngành dịch vụ, bởi nó cũng có thể thực hiện bởi các công ty chế
tạo. Các ví dụ bao gồm các kênh tương tác khách hàng mới, các mô hình kinh
doanh mới và các ứng dụng dịch vụ mới bao hàm trong các sản phẩm chế tạo (ví
dụ như các hợp đồng dịch vụ và bảo dưỡng, các ứng dụng trên điện thoại thông
minh). Đổi mới dịch vụ thường mang khía cạnh công nghệ (chủ yếu là công nghệ
thông tin) và cả đặc tính phi công nghệ và không nhất thiết phải dựa vào NC&PT.
Đổi mới dịch vụ còn được đặc trưng bằng sự cận kề với người dùng và khách
hàng, những người thường tham gia vào sự phát triển chung (hay đồng sáng tạo)
50
ra các dịch vụ như vậy.
Chính sách đổi mới sáng tạo tại các nước OECD ngày càng trở nên chú trọng
hơn đến đổi mới dịch vụ (Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Ailen, Hàn Quốc, Thụy
Điển, và Anh) và nhiều nước đã thông qua các công cụ hỗ trợ mục tiêu (Ôxtrâylia,
Áo, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Nhật Bản, và Thụy Điển). Đổi mới dịch vụ
đang trở thành xu thế chủ đạo trong các chương trình chính sách STI rộng lớn
hơn, ví dụ như để giải quyết các thách thức xã hội (Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Thụy Điển và Anh) và để nhằm đem lại sức sống mới cho các dịch vụ công.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quốc gia phát triển các chính sách đổi mới chủ yếu
dựa trên các triển vọng NC&PT hay chế tạo công nghiệp. Chúng có thể không phù
hợp với những đặc trưng riêng của dịch vụ (ví dụ như liên quan trực tiếp hơn đến
người sử dụng) và với các bất lực thị trường hay hệ thống gây ngăn cản đổi mới
dịch vụ (ví dụ như tính không thể nắm bắt của dịch vụ gây hạn chế sự cá biệt hóa
và thị trường phân đoạn làm hạn chế tính minh bạch). Ngoài ra, sự căn chỉnh
chính sách đổi mới thường được dựa trên các chỉ số thiên về đo lường chế tạo và
đổi mới dựa trên NC&PT, trong khi đổi mới ở dịch vụ lại có thể dựa nhiều hơn
vào các thành phần phi công nghệ. Việc cải thiện các công cụ đánh giá đổi mới
dịch vụ vẫn là một thách thức then chốt.
Các xu thế chính sách gần đây
Trước bản chất phức tạp của đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực dịch vụ và do tính
không đồng nhất của các công ty dịch vụ, sự chú trọng chính sách tại nhiều nước
OECD đã tiến hóa từ triển vọng ngành (ví dụ như dịch vụ ICT, dịch vụ y tế)
hướng đến xu thế chủ đạo hay bao hàm đổi mới dịch vụ vào trong tập hợp chính
sách đổi mới tổng thể. Điều này phản ánh sự phát hiện ra những đòn bẩy chính
sách phổ biến trong các hoạt động dịch vụ có phạm vi từ phát triển phần mềm,
đến tư vấn quản lý, đến truyền thông, du lịch và các dịch vụ bán lẻ. Cùng lúc, ở
đây có những khác biệt then chốt trong ngành dịch vụ, liên quan đến việc sử dụng
ICT để tạo điều kiện cho cung cấp dịch vụ và khác biệt ở mức độ đổi mới diễn ra
trong các lĩnh vực khác nhau (ví dụ như các dịch vụ phần mềm và kinh doanh
mang tính đổi mới và có cường độ NC&PT cao trong khi du lịch và bán lẻ tương
đối thấp hơn).
Nhiều nước thuộc OECD hoặc là đã thực hiện các công cụ chính sách cụ thể
nhằm thúc đẩy đổi mới dịch vụ hoặc hiện đang xem xét lại các công cụ chính sách
đổi mới hiện thời để có thể hỗ trợ tốt hơn cho đổi mới dịch vụ (Bảng 3). Các
phương án thực hiện khả dĩ bao gồm: i) bao hàm đổi mới dịch vụ vào trong các
chính sách đổi mới chung như tín dụng thuế hay trợ cấp NC&PT (tại Hà Lan, tín
dụng thuế NC&PT được áp dụng mở rộng bao hàm cả sự phát triển phần mềm
trên cơ sở dịch vụ); ii) điều chỉnh các chính sách và công cụ đổi mới trọng cầu
như mua sắm công (Phần Lan, Đan Mạch, Đức, Anh); iii) đưa đổi mới dịch vụ
51
vào trong các chính sách đổi mới và NC&PT nhằm giải quyết các thách thức xã
hội như lĩnh vực dịch vụ đáp ứng dân số già hóa (Hàn Quốc) và các thành phố
phát triển bền vững (Cảng biển Royal Stockholm); và iv) tích hợp đổi mới dịch vụ
vào trong các chính sách nhằm liên kết tốt hơn nghiên cứu công với ngành công
nghiệp (các chính sách thương mại hóa).
Bảng 3: Các phương án chính sách chủ yếu nhằm đẩy mạnh chính sách đổi mới
dịch vụ tại các nước OECD chọn lọc
Phương án
chính sách
Công cụ Ví dụ
Khởi xướng
một công cụ
riêng nhằm
thúc đẩy đổi
mới dịch vụ
Các chương trình nghiên
cứu đổi mới dịch vụ
Cụm dịch vụ
Chứng thực đổi mới
Phòng thí nghiệm dịch vụ
Áo, Phần Lan (Serve), Đức (Đổi mới
bằng dịch vụ) và Nhật Bản (các chương
trình nghiên cứu giải pháp khoa học
trong lĩnh vực dịch vụ) đã thiết kế riêng
các chương trình nghiên cứu và đổi mới
nhằm giải quyết các vấn đề như thu hút
người sử dụng/người làm công vào phát
triển các mô hình kinh doanh mới và
"dịch vụ hóa" ngành công nghiệp.
Đan Mạch áp dụng chính sách thành
lập cụm dịch vụ (Service Cluster
Denmark) nhằm hỗ trợ các doanh
nghiệp và nhà nghiên cứu đồng sáng
tạo dựa trên cơ sở NC&PT đối với dịch
vụ.
Pháp áp dụng chứng thực đổi mới dịch
vụ xanh đối với các SME trong ngành
xây dựng. Ailen cấp chứng thực cho
các SME nhằm hỗ trợ các mô hình kinh
doanh mới, giao diện khách hàng hoặc
cung cấp một dịch vụ mới.
Anh áp dụng phòng thí nghiệm đổi mới
dịch vụ công để thử nghiệm các giải
pháp đổi mới và đưa vào áp dụng ở quy
mô rộng trên toàn bộ lĩnh vực dịch vụ
công của cả nước.
52
Điều chỉnh
phạm vi các
công cụ chính
sách theo
chiều ngang
Mua sắm các dịch vụ đổi
mới
Tín dụng thuế NC&PT
Thụy Điển áp dụng một chương trình
mua sắm đổi mới nhằm thúc đẩy mua
sắm đổi mới trong khu vực nhà nước.
Hà Lan đã mở rộng phạm vi tín dụng
thuế NC&PT để áp dụng đối với phát
triển phần mềm dựa trên dịch vụ.
Điều chỉnh cơ
cấu điều hành
đối với đổi
mới
Hợp tác nguồn (Fountain
collaboration), nghĩa là
phạm vi hợp tác liên khu
vực do người dùng xác
định
Thụy Điển đã đưa đổi mới dịch vụ vào
trong cách tiếp cận đổi mới chi phối bởi
thách thức của mình, chú trọng đến
đồng sáng tạo với khách hàng/người sử
dụng và hợp tác liên liên ngành, chú
trọng đến phát triển các thành phố bền
vững, y tế và chăm sóc sức khỏe tương
lai.
Nguồn: OECD, STI Outlook 2012.
Một thách thức quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách đó là nhận dạng
và thông qua các thực tiễn tốt nhất về thúc đẩy đổi mới dịch vụ. Ở đây còn có ít bằng
chứng về việc thiết kế và thi hành các công cụ chính sách đối với đổi mới dịch vụ,
nhiều trong số đó vẫn còn mới và đánh giá tác động của chúng vẫn còn hiếm. Việc tiếp
tục học hỏi chính sách là cần thiết để hướng dẫn cho các nhà hoạch định chính sách
của OECD và đáp ứng các nhu cầu đặc biệt của đất nước bằng cách xác định các vấn
đề ưu tiên chính sách, thu hút tất cả các thành phần tham gia và thiết kế một tập hợp
chính sách thích hợp.
Bảng 4: Dự báo thay đổi ở mức chi tiêu công cho NC&PT trong những năm tới
Chi tiêu sẽ gia tăng
Achentina Ngân sách của Bộ Khoa học, công nghệ và đổi mới sản xuất đã
tăng từ năm 2010 (510 triệu USD) đến năm 2012 (732 triệu
USD).
Áo Đã lên kế hoạch gia tăng
Chilê Mục tiêu được đặt ra là tăng chi tiêu cho NC&PT từ 0,4% lên
0,8% GDP, ngân sách công cho khoa học, công nghệ và đổi mới
đạt 500 triệu USD.
Trung Quốc Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 về phát triển KH&CN đã đặt mục tiêu
gia tăng ngân sách KH&CN của chính phủ trong vòng 5 năm tới.
53
Colombia Kỳ vọng gia tăng GBAORD từ 622 triệu USD năm 2012 lên 917
triệu USD vào năm 2014 dựa trên các mục tiêu của chính phủ đã
được đề ra trong chính sách quốc gia về STI, Kế hoạch phát triển
quốc gia 2010-2014 và chương trình phát triển chiến lược "tầm
nhìn 2019".
Đan Mạch Đã lên kế hoạch gia tăng.
Estonia Có kế hoạch nâng mức chi tiêu NC&PT lên 2% GDP vào năm
2015.
Đức Đã lên kế hoạch tăng chi tiêu công cho NC&PT. Từ 2010 đến
2013 chính sách liên bang đầu tư thêm 14,8 tỷ USD (12 tỷ euro)
vào các lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu then chốt.
Luxembourg Đặt mục tiêu đạt 2,3%-2,6% GDP vào năm 2020.
Ba Lan Có khả năng gia tăng.
LB Nga Ngân sách 2012 đề ra mức chi tiêu khoa học dân sự cho năm
2013 tăng thêm 10% so với năm trước đó, sự phục hồi lực lượng
vũ trang quân đội Nga có nghĩa là sẽ gia tăng NC&PT định
hướng quốc phòng.
Nam Phi Có kế hoạch gia tăng
Thụy Điển Có kế hoạch gia tăng
Thổ Nhĩ Kỳ Đặt mục tiêu gia tăng cường độ NC&PT lên 3% vào năm 2023.
Mức chi tiêu sẽ vẫn duy trì ở mức hiện tại và gia tăng ở một số lĩnh vực
Bỉ Chương trình chính phủ liên bang đã quyết định tín dụng thuế
không nằm trong mục tiêu cắt giảm ngân sách trong những năm
tới; Ngân sách vùng Flanders dành cho NC&PT sẽ tăng từ 69
triệu USD năm 2012 lên 80,5 triệu USD năm 2013 cũng như năm
2014; Vùng đô thị Brussels có kế hoạch gia tăng 9% đối với năm
2013.
Israel Gia tăng ngân sách để cải cách hệ thống giáo dục bậc cao, các
hạng mục ngân sách khác không thay đổi.
Niu Zilân Bổ sung ngân sách để phát triển các thể chế hỗ trợ đổi mới doanh
nghiệp và giải quyết các thách thức khoa học, các lĩnh vực chi
tiêu khác không thay đổi.
54
Mức chi tiêu sẽ vẫn duy trì ở mức hiện tại
Pháp Khuyến khích đổi mới vẫn là vấn đề ưu tiên cao đối với chính
phủ.
Anh Ngân sách nghiên cứu khoa học vẫn duy trì và không thay đổi
cho đến năm 2014.
Mỹ Luật ngân sách quốc gia (Luật kiểm soát ngân sách 2011) yêu cầu
không thay đổi trong thập kỷ tới đối với tổng ngân sách hầu hết
các hạng mục; tổng đầu tư NC&PT liên bang suy giảm nhẹ từ
147 tỷ USD (2010) xuống 140,8 tỷ USD (2013) (với chi tiêu
quốc phòng giảm), nhưng hỗ trợ của chính phủ liên bang cho
nghiên cứu cơ bản và ứng dụng có khả năng tăng từ 59 tỷ USD
(2008) lên 65 tỷ USD (2013).
Mức chi tiêu có khả năng giảm
Hy Lạp Thực hiện các nỗ lực sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực, tài trợ
cấu trúc của EU là nguồn gia tăng khả dĩ duy nhất trong chi tiêu
chính phủ dành cho nghiên cứu.
Ailen Đầu tư cho nghiên cứu có khả năng vẫn giữ nguyên do những áp
lực thắt chặt ngân sách trong những năm tới, chú trọng đầu tư
vào các lĩnh vực có cơ hội hoàn vốn cao hơn về trung hạn.
CH Slovak Tác động bất lợi đến hỗ trợ cho đổi mới công do các biện pháp
củng cố ngân khố.
Slovenia Cắt giảm ngân sách trong năm 2012 và những năm tới sẽ làm
giảm GBAORD từ 343,2 triệu USD năm 2011 xuống 326,6 triệu
USD năm 2012.
Tây Ban Nha Áp dụng các biện pháp kiềm chế thâm hụt công, trong đó có việc
cắt giảm 845,1 triệu USD dành cho NC&PT năm 2011 và có khả
năng cả năm 2012.
Tiến triển chi tiêu không chắc chắn
Ôxtrâylia Áp dụng khuyến khích thuế NC&PT phụ thuộc vào cầu và tổng
đầu tư doanh nghiệp cho NC&PT khó dự báo. Chương trình nghị
sự đổi mới của chính phủ "Powering ideas" 2009-20 nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của các chương trình nghiên cứu công. Các
xu thế gần đây cho thấy sự hỗ trợ cho các chương trình nghiên
cứu công đã gia tăng trong khi có phần suy giảm ở các chương
trình hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp.
55
Canađa Khoa học, công nghệ và đổi mới là đặc điểm nổi bật trong ngân
sách liên bang năm 2012, với các cam kết ngân sách tương ứng.
Chính phủ cũng sẽ cải tiến và hợp lý hóa chương trình khuyến
khích thuế nghiên cứu khoa học và phát triển thử nghiệm, tiền tiết
kiệm được định hướng trực tiếp cho các chương trình NC&PT.
Các hạng mục ngân sách STI khác được hy vọng vẫn giữ nguyên
mặc dù có thể bị tác động bởi nỗ lực cân đối ngân sách của chính
phủ.
Nguồn: OECD, STI Outlook 2012.
Kết luận
Khoa học và công nghệ đang trở thành các đặc trưng phổ biến của nhiều nước
đang phát triển, khi hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Xét theo nhóm, các nước
đang phát triển có vẻ như ít chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái và khủng hoảng
tài chính thế giới hơn so với Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, và nếu có thì cũng phục
hồi nhanh hơn. Chính phủ các nước này vẫn vững vàng trong việc lồng ghép
KH&CN vào trong các chính sách phát triển của đất nước, để phát triển các nền
kinh tế nước mình theo hướng thâm dụng tri thức và công nghệ cao nhằm đảm
bảo năng lực cạnh tranh quốc gia. Các chính sách phát triển đó bao gồm đầu tư
lâu dài cho giáo dục bậc cao để phát triển nhân lực kỹ năng cao, phát triển cơ sở
hạ tầng, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và các
công ty đa quốc gia công nghệ tiên tiến, và cuối cùng phát triển năng lực công
nghệ cao trong nước.
Các hướng phát triển này mở đường cho hợp tác quốc tế rộng lớn về nghiên
cứu khoa học và kỹ thuật. Xu hướng này được phản ánh bằng sự gia tăng số lượng
các bài báo nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí hàng đầu thế giới với các tác giả
từ nhiều quốc gia. Các nhà nghiên cứu ngày càng có cơ hội tham khảo công trình
nghiên cứu chất lượng cao được thực hiện bên ngoài các khu vực KH&CN truyền
thống và các mối liên kết quốc tế càng trở nên sâu sắc hơn nhờ vào sự luân
chuyển toàn cầu của các chuyên gia.
Các yếu tố cạnh tranh như tìm kiếm tài năng quốc tế, cũng đóng một vai trò.
Vốn trước đây chủ yếu chỉ giới hạn ở các nước phương Tây lớn, việc tìm kiếm tài
năng quốc tế hiện nay đang được nhiều nước theo đuổi và hiện tượng “chảy máu
chất xám” đã phát triển thành các dòng chảy xuyên quốc gia của các chuyên gia
trình độ cao. Chính phủ các nước mong muốn phát triển các nền kinh tế hiện đại
hơn để làm tăng thêm sự phồn vinh cho nhân dân mình. Họ nỗ lực phát triển môi
trường sinh thái đặc biệt và năng lực bản địa đẳng cấp thế giới để trở nên có khả
năng cạnh tranh trong đầu tư, phát triển và thương mại quốc tế.
56
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2008 đã gây ảnh hưởng
bất lợi đến đổi mới và NC&PT doanh nghiệp tại tất cả các quốc gia, và cho đến
nay vẫn chưa thấy có dấu hiệu tái phân bổ các nguồn lực hướng đến các doanh
nghiệp đổi mới hơn. Tác động của cuộc khủng hoảng khác biệt đáng kể giữa các
nước, các ngành, các doanh nghiệp và các loại hình đổi mới. Các nước châu Á
mới nổi, bao gồm cả Hàn Quốc và Trung Quốc cho thấy vai trò năng động của
mình trong hệ thống đổi mới quốc tế. Họ tiếp tục thực hiện tốt hơn các nước phát
triển và có khả năng tiếp tục làm được điều đó trong tương lai. Cuộc khủng hoảng
thậm chí còn mang lại cơ hội cho các doanh nghiệp công nghệ cao đổi mới, đối
với số này các thị trường sẽ tiếp tục mạnh lên.
Các xu thế đổi mới toàn cầu trong tương lai vẫn còn không chắc chắn. Các yếu
tố quan trọng bao gồm các điều kiện kinh tế vĩ mô, các chính sách hỗ trợ đổi mới
công, và khả năng duy trì đổi mới vẫn là một ưu tiên. Việc tránh các tác động lâu
dài của cuộc khủng hoảng đối với đổi mới sẽ là một vấn đề ưu tiên cao; điều này
đặt ra yêu cầu hạn chế thất nghiệp lao động có kỹ năng về dài hạn và cần có sự hỗ
trợ mạnh mẽ của nhà nước cho đổi mới.
Cuối cùng, nhiều nước đã thực hiện các chính sách đổi mới phản ứng trước
cuộc khủng hoảng. Các phản ứng liên quan đến đổi mới chủ yếu chú trọng vào
đầu tư cơ sở hạ tầng cho đổi mới và cung cấp các nguồn lực tài chính cho các
doanh nghiệp. Tuy nhiên, các áp lực ngân sách tại nhiều nước đã dẫn đến một
cuộc khủng hoảng nợ công và có khả năng sẽ gây áp lực đối với sự hỗ trợ công
cho đổi mới.
Biên soạn: Đặng Bảo Hà
Nguyễn Phương Dung
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. OECD, Directorate for Science, Technology and Industry: OECD Science,
Technology and Industry Outlook. 10/2012.
2. The U.S. National Science Foundation: Science and Engineering Indicators
2012. NSB 12-01. Arlington, 1/2012.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_nhung_xu_huong_chinh_ve_khoa_hoc_va_cong_nghe_toan.pdf