Tạo hình hậu môn – hồi tràng có kỹ thuật J-Pouch trong bệnh Hirschsprung vô hạch toàn bộ đại tràng
Biến chứng tắc ruột non đã được báo cáo
nhiều ở các tác giả khác do tình trạng bụng
không sạch lúc mổ thường gây dính ruột.
Nhưng với 29 trường hợp chúng tôi không có
trường hợp nào tắc ruột phải mổ lại.
Hội chứng viêm ruột cấp tính do đoạn ruột
túi chứa bị viêm cũng được nhiều tác giả đề cập
đến trong các trường hợp cắt bỏ toàn bộ đại
tràng trong bệnh viêm loét đại tràng cấp. Với
bệnh lý vô hạch toàn bộ đại tràng, các tác giả đều
đồng ý ít gặp hơn, chúng tôi cũng không gặp
trường hợp nào viêm ruột cấp tính nhưng để
phòng ngừa biến chứng này trong tất cả các
trường hợp chúng tôi đều dùng Metronidazole
trong những ngày đầu sau mổ.
Chức năng kiểm soát đi cầu của trẻ, hầu hết
các tác giả nhận xét đều đồng ý là cải thiện tốt
hơn là nối thẳng hồi tràng xuống ống hậu môn.
Trong nghiên cứu này chúng tôi theo dõi trên 1
năm thì tình trạng kiểm soát phân của trẻ rất tốt,
chỉ còn đi cầu trung bình 3 lần trong ngày (từ 2
đến 5 lần). Trong 6 tháng đầu sau mổ tình trạng
đi cầu còn nhiều lần (từ 7 đến 10 lần trong ngày).
Ban đêm phải mặc tã, nhưng tình trạng làm rẫy
bẩn phân không nhiều, nhiều tác giả đề nghị làm
trống ruột (thụt tháo) trước khi đi ngủ, nhưng
chúng toi không có điều kiện để làm kỹ thuật
này tại nhà cho trẻ.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 300 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạo hình hậu môn – hồi tràng có kỹ thuật J-Pouch trong bệnh Hirschsprung vô hạch toàn bộ đại tràng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 1
TẠO HÌNH HẬU MÔN – HỒI TRÀNG CÓ KỸ THUẬT J-POUCH
TRONG BỆNH HIRSCHSPRUNG VÔ HẠCH TOÀN BỘ ĐẠI TRÀNG
Vũ Tuấn Ngọc*, Trương Nguyễn Uy Linh*, Đào Trung Hiếu*
Mục đích: Chọn một phương pháp nối hồi tràng vào ống hậu mon được cải biên trong trường hợp cắt
toàn bộ đại tràng vẫn còn được bàn cãi, mặc dầu ở người lớn tạo túi chứa phân trong hạ hồi tràng xuống
ống hậu môn đã được chấp nhận. Đối với trẻ nhỏ nhiều phẫu thuật viên vẫn muốn nối thẳng hồi tràng vào
ống hậu môn. Nghiên cứu này cho ra kết quả chức năng lâu dài ở trẻ, được cắt toàn bộ đại tràng và dưa hồi
tràng nối với ông hậu môn có tạo chứa túi phân kiểu chữ J.
Phương pháp: Có tất cả 42 trường hợp trẻ được cắt bỏ đại tràng, trong đó có 29 trường hợp nối hồi tràng
xuống ống hậu môn có tạo túi chứa phân kiểu chữ J (J-pouch) từ tháng 01/2003 đến tháng 06/2005. cho thấy
những biến chứng sớm và muộn như són phân thường xuyên, kiểm soát chức năng đi cầu ngày và đêm và tiêm
túi chứa. Trong 29 trường hợp tạo túi chứa phân (tuổi trung bình là 1 tuổi, từ 5 tháng đến 9 tuổi).
Kết quả: Không có trường hợp tử vong, biến chứng sớm (vết mổ nhiễm trùng, tắc ruột sớm, sốt kéo
dài) không có túi chứa nào bị cắt bỏ, có 3 bệnh nhân nhiễm trùng vết mổ (10%), 2 bệnh nhân bị xì miệng nối
ở túi chứa (7%), không có trường hợp nào tắc ruột sau mổ, cung như viêm ruột cấp. Tình trạng đi cầu trong
24 giờ trung bình là 3 lần (từ 2 đến 5 lần).
Kết luận: Nối hồi tràng vào ống hậu môn với túi chứa phân kiểu chữ J là phương pháp hoàn hảo trong
các trường hợp cắt toàn bộ đại tràng ở trẻ em. Mặc dù vẫn còn vài biến chứng sau mổ, nhưng với kết quả
kiểm soát việc đi cầu thường xuyên của trẻ rất tuyệt vời, làm cải thiện cuộc sống của trẻ tốt hơn nhiều.
ABSTRACT
J-POUCH ILEO-ANAL ANASTOMOSIS OF HIRSCHSPRUNG DISEASE WITH TOTAL COLONIC
AGANGLIONOSIS
Vu Tuan Ngoc, Truong Nguyen Uy Linh, Dao Trung Hieu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 141 - 144
Purpose: The choice of ileo-anal reconstruction method in chidren undergoing proctocolectomy remains
controversial. Although ileo-anal pouch reconstruction has gained overall acceptance, many peadiatric
surgeons still advocate straight ileo-anal pull-through. The aim of this study was to assess the outcome and
long-tem functional results in children who have underone proctocolectomy and ileo-anal anastomosic (IAA)
with a J-pouch.
Methods: Medical records of 42 consecutive children who had proctocolectomy and 29 case J-pouch IAA
between 2003 and 2005 were reviewed for early and late complication, fecal frequency, day – and night time
continence and pouchitis. J- pouch IAA in 29 (median age at operation, 1 year, range, 5 month to 9 years).
Results: There were no fatalities – early complication (wound infection, early bowel obstruction,
prolonged fever). None of the pouches had to be removed. Three (10%) of the patients had wound infection.
And two (7%) of pentients had pouch fistula. None of pentients had early bowel obstruction and
enterocolitis. The median bowel frequency for 24 hour was 3 (range, 2 to 5).
Conclusion: J-pouch IAA is a feasible method of reconstruction in children requiring proctocolectomy.
Despite hight incidence of complication, long-term functional results in terms of continence and bowel
frequency are exceilent and ensure good quality of lige in the great majority of patients.
* Phân môn Ngoại Nhi – Bộ môn Ngoại Đại học Y Dược TP. HCM
** BV Nhi Đồng 1 TP. HCM.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vô hạch tòan bộ đại tràng trong bệnh lý
Hirschsprung chỉ chiếm khoảng 2% trong tổng
số bệnh Hirschsprung. Trước đây, điều trị bệnh
lý này, các tác giả thường cắt toàn bộ đại tràng
và đưa hồi tràng nối vào ống hậu môn. Với kỹ
thuật này, thường làm trẻ em són phân nhiều lần
trong ngày, gây tình trạng hâm lở quanh lỗ hậu
môn. Từ cuối năm 1970 và đầu năm 1980 nhiều
tác giả sau khi đã cắt toàn bộ đại tràng và trước
khi hạ hồi tràng xuống hậu môn, họ tạo một túi
chứa phân kiểu chữ J rồi mới nối hồi tràng
xuống ống hậu môn. Kỹ thuật J-pouch trước đây
được dùng cho những trẻ được cắt toàn bộ đại
tràng trong các bệnh lý viêm loét toàn bộ đại
tràng (Ulcerative colitis) hay bệnh đa polype gia
đình (familial adenomatous polyposis) ở người
lớn. Áp dụng kỹ thuật J-pouch trong bệnh lý vô
hạch toàn bộ đại tràng hiện nay cũng còn nhiều
bàn cãi giữa các phẫu thuật viên nhi. Dù rằng kỹ
thuật J-pouch được coi như là một kỹ thuật hoàn
hảo (gold standard) đối với các bệnh lý viêm loét
đại tràng hay đa polyp gia đình mà phải cắt bỏ
toàn bộ đại tràng.
Theo các tác giả đã thực hiện kỹ thuật J-
pouch trong bệnh lý vô hạch toàn bộ đại tràng
đều thống nhất là tốt hơn rất nhiều trong việc
kiểm soát đi cầu của trẻ so với phẫu thuật nối
thẳng hoi tràng xuống ống hậu môn. Số lần đi
cầu giảm hẵn, ít gây hâm lở quanh lỗ hậu môn,
thường không cần làm sạch đại tràng trước khi
đi ngủ, hay không cần dùng túi che ngoài hậu
môn vào ban đêm. Trong bài nghiên cứu này,
chúng tôi tổng kết lại các trường hợp đã dùng kỹ
thuật J-pouch trong bệnh lý vô hạch toàn bộ đại
tràng từ tháng 1/2003 đến tháng 6/2005. Xem các
biến chứng gần cũng như lâu dài và chức năng
kiểm soát đi cầu của trẻ.
DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đây là phương pháp hồi cứu mô tả từ tháng
1/2003 đến tháng 6/2005 chúng tôi có 42 trường
hợp phải cắt bỏ toàn bộ đại tràng trong bệnh lý vô
hạch toàn bộ đại tràng. Trong đó có 29 trường hợp
chung tôi sử dụng kỹ thuật J-pouch (70%).
Trong 29 trường hợp làm kỹ thuật J-pouch
có 19 nam và 10 nữ, số tuổi trung bình được mổ
là 12 tháng, tuổi nhỏ nhất là 5 tháng và lớn nhất
là 9 tuổi. Thời gian mổ trung bình là 3 giơ 30’,
nhanh nhất là 3 giờ và lâu nhất là 4 giờ 30’.
Phương pháp
- Bệnh nhân được gây mê kết hợp với gây tê
ngoài màng cứng.
- Tư thế nằm sản khoa (để lộ ống hậu môn)
được chia ra làm 2 thì:
+ Thì bụng: mổ bụng đường ngang dưới rốn,
chiếm gần 2/3 chiều ngang ổ bụng. Vào khoang
phúc mạc tiến hành triệt mạch toàn bộ đại tràng,
nhiều trường hợp phải gỡ trứng ruột non (di
chứng của cuộc mổ lần trước: làm Ileostomy lúc
mới sinh). Triet mạch từ đầu dưới hồi tràng
(Ileostomy) tới đoạn đại trực tràng vùng hốc
chậu cắt bỏ toàn bộ đoạn ruột này (chú ý 2 niệu
quản và tá tràng khi bóc tách khung đại tràng).
Đầu trên hồi tràng, bóc tách cuốn mạch máu
mạc treo tràng trên thật di động và đủ dài để kéo
hồi tràng xuống dưới hậu môn, phải ước lượng
chiều dài hồi tràng đủ làm kỹ thuật J-pouch để
đưa xuống hậu môn, mà mạch máu không bị
căng. Gập đôi đoạn hồi tràng lên trên từ 5 đến 10
cm theo kiểu chữ J, cắt nối thành bên bên hồi
tràng để tạo thành túi chứa phân.
+ Thì hậu môn: Banh rộng hậu môn bằng
dụng cụ low star. Tiến hành bóc tách niêm
mạc trực tràng trên đường lược 0,5cm boc tách
tới nếp phúc mạc đáy chậu. Tiến hành cắt bỏ
phúc mạc đáy chậu (thường đầu ở vị trí 3 giờ)
kéo đoạn đại tràng còn lại ra ngoài bỏ. Kéo
đoạn hồi tràng đã tạo túi chứa kiểu J qua lỗ
hậu môn. Tiến hành đính hồi tràng (có túi
chứa) vào rìa hậu môn.
Đặt sond hậu môn để làm sạch vết mổ.
KẾT QUẢ
- Không có bệnh nhân nào tử vong trong 29
trường hợp làm kỹ thuật J-pouch ở bệnh lý vô
hạch toàn bộ đại tràng. Không có trường hợp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 3
nào phải cắt bỏ J-pouch để kéo thẳng trực tiếp
hồi tràng nối vào ống hậu môn.
Biến chứng sớm
+ Có 2 trường hợp xì miệng nối hồi tràng ở vị
trí làm J (7%), 2 trường hợp này phải đưa hồi
tràng ra da lần 2. Không cần phải cắt bỏ túi chứa
phân. Khống chế bằng kháng sinh, và 2 tháng
sau thì đóng hồi tràng (trong 2 trường hợp có 1
trường hợp phải đưa hõng nên 1 tháng sau phải
đóng lại).
+ Nhiễm trùng vết mổ: ở hậu môn thường
miệng nối ở đây rất dễ nhiễm trùng, có 3 trường
hợp (#10%), nhưng đều khống chế được bởi
kháng sinh, cho đến khi lành hẵn vết mổ, được
tiếp tục nong hậu môn để tránh chít hẹp.
+ Không có trường hợp nào chảy máu hậu
phẫu, cung như không có trường hợp nào viêm
ruột cấp tính sau mổ.
Biến chứng xa
+ Không có bệnh nhi nào tắc ruột sau mổ
+ Trong đa số trường hợp có đi cầu lắc nhắt
nhiều lần trong ngày (từ 7 đến 10 lần). Tình
trạng này kéo dài trong 6 tháng sau mổ, sau đó
số lần đi cầu sẽ giảm từ 2 đến 5 lần.
Chức năng đi cầu:
Việc kiểm soát đi cầu của trẻ rất tốt, từ 1 năm
trở lên trẻ có thể kiểm soát số lần đi cầu trung
bình là 3 lần trong ngày. Vấn đề són phân giảm
dần và hết hẵn sau 1 năm theo dõi.
BÀN LUẬN
Trước đây, trong bệnh lý vô hạch toàn bộ đại
tràng phẫu thuật được chọn là nối bên bên của
đoạn ruột có hạch và vô hạch theo Lester-
Martin, mục đích là cố gắng giữ nước trong lòng
đại tràng. Nhưng với các điều trì thường gây
nên tình trạng viêm ruột sau mổ rất nặng. Ngày
nay nhiều nhà phẫu thuật nhi đề nghị nên cắt bỏ
toàn bộ đại tràng và nối thẳng hồi tràng vào ống
hậu môn. Đây được xem là một phương pháp
điều trị căn bản của bệnh lý Hirschsprung với vô
hạch toàn bộ đại tràng. Vấn đề còn tồn tại hiện
nay là chức năng kiểm soát đi cầu của trẻ có cải
thiện hay không, nếu được thực hiện thêm các
kỹ thuật tạo túi chứa phân (chữ J, chữ S hay chữ
W). Những báo cáo gần đây cho thấy tạo túi
chứa phân theo kiểu chữ J (J-pouch) rất thích
hợp với trẻ nhỏ trong các bệnh lý cần cắt bỏ toàn
bộ đại tràng. Tổng kết từ năm tháng 1/2003 đến
tháng 6/2005 chúng tôi có 42 trường hợp cắt toàn
bộ đại tràng trong bệnh lý vô hạch toàn bộ đại
tràng, trong đó có 13 trường hợp chúng tôi
không thể làm J-pouch do ruột còn lại quá ngắn
(do ruột dính do mổ lần trước), mạch máu mạc
treo tràng trên không đủ dài. Nếu cố gắng làm J-
pouch làm căng đoạn ruột, thiếu máu nuôi ruột
đi đến bị xì miệng nối. Chúng tôi có 2 trường
hợp 7% bị xì miệng nối ở tui chứa phân, cũng
nằm trong tình trạng này. Nhưng chúng tôi
không phải cắt bỏ túi J như các tác giả trước đây
đã báo cáo. Chúng tôi chỉ cần rửa sạch ổ bụng
đưa hồi tràng đoạn trên ra ngoài dẫn lưu ổ bụng
và khống che nhiễm trùng bằng kháng sinh. Một
hay 2 tháng sau chúng tôi đóng hồi tràng và
nong hậu môn trong 4 tuần. Hai trường hợp này
tốt trở lại.
Biến chứng tắc ruột non đã được báo cáo
nhiều ở các tác giả khác do tình trạng bụng
không sạch lúc mổ thường gây dính ruột.
Nhưng với 29 trường hợp chúng tôi không có
trường hợp nào tắc ruột phải mổ lại.
Hội chứng viêm ruột cấp tính do đoạn ruột
túi chứa bị viêm cũng được nhiều tác giả đề cập
đến trong các trường hợp cắt bỏ toàn bộ đại
tràng trong bệnh viêm loét đại tràng cấp. Với
bệnh lý vô hạch toàn bộ đại tràng, các tác giả đều
đồng ý ít gặp hơn, chúng tôi cũng không gặp
trường hợp nào viêm ruột cấp tính nhưng để
phòng ngừa biến chứng này trong tất cả các
trường hợp chúng tôi đều dùng Metronidazole
trong những ngày đầu sau mổ.
Chức năng kiểm soát đi cầu của trẻ, hầu hết
các tác giả nhận xét đều đồng ý là cải thiện tốt
hơn là nối thẳng hồi tràng xuống ống hậu môn.
Trong nghiên cứu này chúng tôi theo dõi trên 1
năm thì tình trạng kiểm soát phân của trẻ rất tốt,
chỉ còn đi cầu trung bình 3 lần trong ngày (từ 2
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 4
đến 5 lần). Trong 6 tháng đầu sau mổ tình trạng
đi cầu còn nhiều lần (từ 7 đến 10 lần trong ngày).
Ban đêm phải mặc tã, nhưng tình trạng làm rẫy
bẩn phân không nhiều, nhiều tác giả đề nghị làm
trống ruột (thụt tháo) trước khi đi ngủ, nhưng
chúng toi không có điều kiện để làm kỹ thuật
này tại nhà cho trẻ.
KẾT LUẬN
Trong bệnh lý Hirschsprung vô hạch toàn bộ
đại tràng, phương pháp điều trị cắt bỏ toàn bộ đại
tràng và đưa hồi tràng nối xuống ống hậu môn là
một phương pháp phẫu thuật hoàn hảo. Vấn đề
còn lại là làm thêm kỹ thuật túi chứa phân hay
không vẫn còn bàn cãi. Nhưng hầu hết các phẫu
thuật viên nhi đều đồng ý là chức năng kiểm soát
đi cầu của trẻ được cải thiện rat nhiều nếu làm
thêm kỹ thuật tạo túi chứa phân này, và túi chứa
phân kiểu chữ J hầu hết các tác giả đều đồng ý là
rất thích hợp với trẻ nhỏ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hochner JC, EinSH, Shandling B, et al: Long-term morbidity in
total colonic aganglionosis. J pediatr surg 33, 961-965. 1998.
2. Lal DR., Nichol PF., Harms BA.. et al: Ileo-Anal S-pouch
reconstruction in patients with total colonic aganglionosis after
failed pull-through procedure. J pediatr surg. P 87-89. 2004.
3. Rintala R.J and LindahL H.G: Proctoco lectomy and J.Pouch
Ileo-Anal Anastomosis in children. J pediatr surg. P 66-70. 2000.
4. Tsuji H, spitz L.Kiety F.M, et al: Manegement and long-
term follow-up imfants with total colonic aganglionosis. J
pediatr surg 34: 158-161. 1999.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 5
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 6
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tao_hinh_hau_mon_hoi_trang_co_ky_thuat_j_pouch_trong_benh_hi.pdf