Năm là, phát huy hiệu quả của các
mô hình sản xuất mới, tiên tiến (như tích
tụ ruộng đất ở Thái Bình, Ninh Bình,
Quảng Nam, Quảng Ngãi., giải quyết
việc làm cho nông dân bị mất đất sản
xuất ở Hải Dương, Đà Nẵng, Tiền
Giang., mỗi làng mỗi nghề ở Hà Nội,
Nam Định, Đà Lạt., phát triển du lịch
sinh thái ở Vùng đồng bằng sông Cửu
Long, nông nghiệp công nghệ cao ở Đà
Lạt, Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh., phổ biến
kiến thức ở Vĩnh Phúc.). Nhà nước cần
tạo điều kiện thuận lợi để hộ nông dân
trở thành hộ sản xuất có nghề chuyên
nghiệp với quá trình dồn điền, đổi thửa,
cho thuê đất, tích tụ đất phù hợp. Cần
hình thành các vùng chuyên canh hàng
hoá, các vùng nguyên liệu phục vụ chế
biến và xuất khẩu. Đẩy mạnh kết nối sản
phẩm của nông hộ với doanh nghiệp và
thị trường bằng các hiệp hội ngành hàng.
Các mô hình phát triển các làng nghề, tiểu
thủ công nghiệp và doanh nghiệp vừa và
nhỏ, trang trại, xuất khẩu lao động. cần
được phân tích, nhân rộng và gắn với quá
trình đô thị hoá và với chương trình công
nghiệp hóa nông thôn, vừa đảm bảo cung
cấp nhân lực và đầu vào cho quá trình
công nghiệp hoá đồng thời góp phần phát
triển bền vững nông thôn.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 286 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thách thức trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp - nông thôn ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
4
THÁCH THỨC TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP- NÔNG THÔN
Ở NƯỚC TA
PGS.TS. Nguyễn Bá Ngọc
Viện Khoa học Lao động và Xã hội
● Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động nông nghiệp- nông thôn ở nước ta
trong giai đoạn vừa qua đã mang lại một
số kết quả tích cực, đó là:
- Cơ cấu lao động nông nghiệp, nông
thôn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích
cực, bảo đảm an ninh lương thực và góp
phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động nông
nghiệp, nông thôn được thực hiện dưới
nhiều hình thức đa dạng theo xu hướng
tiến bộ (nông nghiệp truyền thống năng
suất thấp sang nông nghiệp công nghệ
cao, nông nghiệp-phi nông nghiệp, nông
thôn-thành thị, xuất khẩu lao động), tiến bộ
kỹ thuật được áp dụng rộng rãi, ngành
nghề nông thôn phát triển đã góp phần làm
tăng năng suất lao động và tăng thu nhập.
- Các hình thức tổ chức sản xuất tiếp
tục được đổi mới, nâng cao hiệu quả sản
xuất nông thôn và thu hút thêm nhiều lao
động, góp phần giảm nghèo nhanh chóng.
- Các chính sách phát triển nông
nghiệp, nông thôn đầu tư xây dựng thời
hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội làm
thay đổi bộ mặt nông thôn, góp phần tích
cực cho chuyển dịch cơ cấu lao động và
hỗ trợ kịp thời cho nông dân trong quá
trình chuyển dịch sang những ngành nghề
có năng suất lao động cao hơn.
● Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch
cơ cấu lao động nông nghiệp- nông thôn
vẫn còn những hạn chế cơ bản.
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế nói
chung và tăng trưởng khu vực nông
nghiệp, nông thôn không thúc đẩy tăng
trưởng tương ứng việc làm ở nông thôn;
lao đông tiếp tục bị dồn nén trong nông
nghiệp năng suất thấp (năng suất lao
động nông nghiệp chỉ bằng khoảng 1/3
so với công nghiệp và dịch vụ), hệ số co
giãn việc làm trong nền kinh tế nói
chung và khu vực nông thôn còn thấp
(thời kỳ 2000-2009 là 0,28% với cả nước
nói chung và khoảng 0,35% với khu vực
nông thôn) chưa đảm bảo thu hút hết lao
động dư thừa trong nông nghiệp để tạo ra
”điểm cất cánh” phát triển sản xuất hàng
hoá và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm
nông nghiệp, nông thôn; mức độ thiếu
việc làm còn cao (6,51% người thiếu việc
làm và khoảng 25% thời gian lao động ở
nông thôn chưa được sử dụng), thu nhập
lao động nông thôn rất thấp (năm 2008 là
762 nghìn đồng/người/tháng).
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chưa thúc đẩy và tạo điều kiện để có kết
quả chuyển dịch cơ cấu lao động nông
nghiệp, nông thôn tương ứng (công
nghiệp và dịch vụ đã tạo ra 79 % GDP cả
nước nhưng mới thu hút 49 % lao động
xã hội), chuyển dịch không đồng đều giữa
các vùng (các vùng Đông Nam bộ, Đồng
bằng sông Hồng chuyển dịch nhanh, các
vùng Tây Bắc, Tây Nguyên chuyển dịch
chậm rất chậm) và chưa tạo được sự liên
kết di chuyển lao động phục vụ cho sự
nghiệp CNH,HĐH chung trong cả nước
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
5
(chưa phát huy được thế mạnh của từng
vùng về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên
nhiên và đặc điểm sinh thái; các vùng
kinh tế trọng điểm chưa được quy hoạch
phát triển đồng bộ để tạo động lực tác
động lan toả mạnh đến những vùng khó
khăn khác; thị trường lao động vẫn mất
cân đối nghiêm trọng về cung- cầu lao
động; quy hoạch các khu công nghiệp
không hợp lý dẫn đến thừa- thiếu lao
động hầu hết mang tính cục bộ và làm
lãng phí nguồn nhân lực của đất nước).
Thứ ba, quá trình chuyển dịch chưa
bền vững cả về việc làm, thu nhập, vị
thế, điều kiện làm việc và an sinh xã hội;
hầu hết lao động nông nghiệp, nông thôn
(trên 90%) vẫn thuộc khu vực phi chính
thức chịu nhiều rủi ro và dễ bị tổn
thương, đặc biệt lao động di cư gặp rất
nhiều khó khăn khi tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản và hội nhập với dân bản
địa trong quá trình di cư nông thôn-
thành thị.
Thứ tư, tỷ trọng lao động trong các
ngành dịch vụ phục vụ sản xuất - đời
sống và công nghiệp chế biến còn khiêm
tốn chưa tương xứng với vai trò thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
(năm 2009, dịch vụ mới chiếm 21,08%,
công nghiệp chế biến chiếm 13,57% lao
động nông thôn). Kinh tế nông thôn vẫn
cơ bản là nông nghiệp, sản xuất nhỏ lẻ,
manh mún, tự phát, kinh tế hàng hóa chưa
phát triển, ở các vùng sâu, vùng xa kinh tế
tự cung tự cấp vẫn là phổ biến.
Thứ năm, đời sống vật chất- tinh thần
của nông dân còn thấp, chênh lệch giàu
nghèo có xu hướng gia tăng (GDP bình
quân đầu người ngay trong vùng có nhịp
độ tăng trưởng cao nhất nước như Đông
Nam bộ cũng có sự chênh lệch lớn giữa
các tỉnh, Bình Phước, Tây Ning chỉ bằng
1/3 so với thành phố Hồ Chí Minh và Bà
Rịa- Vũng Tàu; tỷ lệ hộ nghèo giữa vùng
Tây Bắc và vùng Đông Nam bộ lên tới
9,8 lần), ô nhiễm môi trường ngày càng
nặng nề.
● Nguyên nhân của những hạn chế kể
trên bao gồm:
Thứ nhất, vốn nhân lực nông nghiệp,
nông thôn nói chung còn thấp (trình độ
văn hoá, chuyên môn kỹ thuật, thể lực,
tính năng động, tính thích nghi và ý thức
kỷ luật hạn chế), gặp nhiều khó khăn
trong tiếp cận kiến thức sản xuất mới,
chuyển đổi nghề và chuyển dịch tích cực
cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn.
Nông dân thiếu kiến thức kinh doanh và
khởi sự doanh nghiệp, thiếu hiểu biết về
những công nghệ mới áp dụng trong
trồng trọt, chăn nuôi và chế biến sản
phẩm nông nghiệp, trong khi công tác tư
vấn và phổ biến kiến thức cũng như
chuyển giao công nghệ sản xuất tiên tiến
thiếu hệ thống, chưa hiệu quả.
Thứ hai, an ninh việc làm trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu lao động, đặc
biệt là đối với lao động di cư nông thôn-
thành thị, chưa được coi trọng cả trên
giác độ hoạch định chính sách, tổ chức
triển khai cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và
tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội.
Hầu hết lao động nông thôn đang làm
việc trong khu vực không chính thức với
các đặc điểm rủi ro cao và không có hệ
thống an sinh xã hội đảm bảo. Vấn đề
nổi cộm nhất hiện nay là chuyện nhà ở
và các vấn đề xã hội liên quan như hộ
khẩu và chính sách giáo dục, y tế, an sinh
cho con cái và gia đình đi theo lao động
di cư. Các mâu thuẫn, tranh chấp trong
quan hệ lao động giữa người sử dụng lao
động và người lao động trong các doanh
nghiệp gia tăng đã làm cho vấn đề mưu
sinh của người lao động di cư đi từ nông
thôn càng thêm bức xúc.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
6
Thứ ba, thị trường lao động nông
thôn chưa phát triển, cung- cầu lao động
mất cân bằng (lao động vẫn thiếu việc
làm trong khi các khu công nghiệp
thường ở tình trạng thiếu lao động), hệ
thống cơ sở hạ tầng thị trường lao động
yếu kém không cung cấp đủ thông tin, cơ
hội và các dịch vụ công bằng đến nông
dân trong các vùng miền, khu vực. Việc
hướng nghiệp cho thanh niên nông thôn
vẫn chỉ mang tính hình thức; các hoạt
động giao dịch việc làm mới chủ yếu ở
các thành phố lớn và khu công nghiệp;
dịch vụ việc làm chưa thành mạng lưới,
quy mô từng tổ chức nhỏ bé, thiếu sự
phối hợp, chia sẻ thông tin và hợp tác
trong nội bộ dịch vụ việc làm cũng như
trong hệ thống dịch vụ việc làm-doanh
nghiệp-cơ sở dạy nghề; thông tin thị
trường lao động còn nhiều yếu kém,
chưa mang tính hệ thống, bị chia cắt giữa
các vùng, miền; việc theo dõi, giám sát,
nắm bắt biến động thị trường lao động
được thực hiện một cách phân tán và ít
kết nối nên rất kém hiệu quả.
Thứ tư, các chính sách, chương trình,
chiến lược kế hoạch phát triển nông thôn
còn chưa đồng bộ và đủ liều để thúc đẩy
chuyển dịch nhanh và có hiệu quả. Chính
sách bồi thường khi thu hồi, chuyển đổi
mục đích sử dụng đất chưa thỏa đáng,
giữa giá bồi thường của nhà nước và giá
thị trường còn có sự khác biệt quá lớn;
chính sách quy hoạch đất đai canh tác
chưa hợp lý và thiếu đồng bộ, hiện tượng
đầu tư tràn lan không đúng mục đích gây
lãng phí xã hội trong khi quỹ đất ngày
một giảm, đất canh tác cho người dân bị
thu hẹp còn bản thân người nông dân
thiếu việc làm; đầu tư công vào nông
thôn hay nông nghiệp hầu như không
đáng kể, càng xa các khu kinh tế phát
triển, xa đô thị, xa khu công nghiệp thì hạ
tầng cơ sở càng yếu và kém; chính sách
nhà ở cho người có thu nhập thấp chỉ
mới được quan tâm, cơ chế và qui định
đối với người ở chưa hợp lý và hấp dẫn,
thiếu gắn kết với các vấn đề xã hội và
nhu cầu về đời sống văn hóa tinh thần
của người lao động.
Thứ năm, các hình thức tổ chức sản
xuất hiện đại cho năng suất cao chưa
phát triển, tỷ lệ các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp thua lỗ
khá lớn (theo một nghiên cứu của Viện
Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương
thì có đến 1/3 trong tổng số doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp bị thua lỗ), chưa đánh giá, tổng
kết và nhân rộng cũng như phổ biến áp
dụng những mô hình sản xuất có hiệu
quả, thu hút nhiều lao động.
● Các bài học từ thực tiễn quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động nông
nghiệp, nông thôn có thể kể ra là:
Một là, Nhà nước có vai trò đặc biệt
quan trọng trong thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn.
Nhà nước hoạch định và tổ chức triển
khai các chiến lược, quy hoạch, chính
sách, kế hoạch phát triển; xây dựng và
hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng phục
vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động nông nghiệp, nông thôn; đưa
các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phục
vụ sản xuất và đời sống; đồng thời giải
quyết các vấn đề an sinh xã hội để đảm
bảo phát triển một xã hội công bằng và
bền vững. Nông thôn, nông nghiệp và
nông dân cần được coi trọng và được đặt
lên vị trí quan tâm hàng đầu không chỉ vì
giá trị kinh tế mà còn vì các giá trị văn
hoá truyền thống cần được lưu giữ, bảo
vệ. Nông nghiệp còn có vai trò trong
đảm bảo an ninh lương thực, cân bằng
sinh thái, môi trường của quốc gia. Nhà
nước cần hỗ trợ tốt hơn nữa, tận dụng
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
7
được ưu đãi mà WTO cho phép nâng
mức đầu tư công vào các hạ tầng cơ sở
khu vực nông thôn cũng như cho ngành
nông nghiệp nói riêng (như thủy lợi, hệ
thống tưới tiêu, cải tạo đất đai, nghiên
cứu áp dụng khoa học - công nghệ vào
nông nghiệp).
Hai là, chuyển dịch cơ cấu lao động
thông qua chuyển đổi phương thức sản
xuất nông nghiệp và phát triển công
nghiệp chế biến và dịch vụ, du lịch. Xu
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch
vụ, cùng với quá trình đô thị hoá và công
nghiệp hoá nhanh chóng tất yếu kéo theo
quỹ đất dành cho sản xuất nông nghiệp
bị thu hẹp. Vì vậy để nâng cao hiệu quả
sản xuất nông nghiệp và ổn định việc
làm, một mặt cần thúc đẩy tích tụ ruộng
đất và đảm bảo tính lâu dài trong sử dụng
đất của nông dân, mặt khác cần thay đổi
chiến lược từ sản xuất hỗn hợp sang sản
xuất chuyên môn hoá và tập trung vào
những sản phẩm nông nghiệp tạo giá trị
kinh tế cao (chăn nuôi, trồng cây cảnh và
các loại rau, quả sạch trong nhà kính).
Đồng thời cần khuyến khích phát triển
mạnh công nghiệp chế biến sản phẩm
nông nghiệp và phát triển hệ thống dịch
vụ sản xuất- đời sống cũng như du lịch
để khai thác các giá trị truyền thống, văn
hoá ở nông thôn.
Ba là, Nhà nước cần đặc biệt quan
tâm đến các như chính sách đất đai , tín
dụng, phát triển cơ sở hạ tầng, ứng dụng
công nghệ mới. Các nhân tố đẩy (thu hẹp
đất nông nghiệp, nhu cầu thuê lao động
làm nông nghiệp ở khu vực nông thôn
giảm) và nhân tố kéo (chênh lệch về
thu nhập và mức sống giữa thành thị và
nông thôn, một số công việc nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm ở thành thị mà người
lao động thành thị không muốn làm) và
chính sách nhập cư của Nhà nước có tác
động mạnh đến các dòng di cư giữa các
khu vực. Do vậy Nhà nước cần rỡ bỏ các
rào cản hành chính và tạo điều kiện cho
quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
nông thôn- thành thị được thuận lợi. Các
rào cản hành chính hạn chế chuyển dịch
lao động (chế độ hộ khẩu, quy định về cư
trú và kèm theo đó là những phân biệt
đối xử trong tiếp cận các cơ hội việc làm,
hưởng thụ các dịch vụ y tế, giáo dục cho
bản thân người lao động và gia đình họ)
cần được rỡ bỏ, các dịch vụ hỗ trợ lao
động di cư (hỗ trợ đầu đi- đầu đến, dịch
vụ việc làm, thông tin thị trường lao
động, hỗ trợ nhà ở cho công nhân khu
công nghiệp) cần được phổ biến rộng
rãi trên các phương tiện thông tin đại
chúng và ngay tại các doanh nghiệp để
giúp lao động di cư hiểu biết hơn và tiếp
cận tốt hơn các dịch vụ xã hội và hội
nhập tốt hơn với cộng đồng nơi cư trú.
Bốn là, đầu tư phát triển vốn nhân lực
nông thôn có tác động quyết định đối với
chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp,
nông thôn. Lao động có trình độ tay nghề
và kiến thức văn hóa cao có nhiều cơ hội
về việc làm và thu nhập, trong khi đó
những người có trình độ văn hoá và
chuyên môn kỹ thuật thấp rất ít có cơ hội
tiếp cận việc làm ổn định và thường rơi
vào tình trạng đói nghèo. Các vùng
chuyển dịch lao động chậm hơn cần có
phương sách vận động và tuyên truyền
sâu rộng để người dân nhận thức được
vai trò quyết định của vốn nhân lực trong
quá trình tạo việc làm, nâng cao năng
suất và thu nhập ở nông thôn. Năng lực
của đội ngũ cán bộ chính quyền các cấp
ở địa phương có ý nghĩa quyết định. Các
nghề đào tạo cần bám sát nhu cầu kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa
phương, quy hoạch sản xuất- kinh doanh-
dịch vụ cụ thể theo từng nhóm ngành
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
8
hàng để tránh lãng phí do tình trạng học
nghề xong vẫn không làm được nghề
mình được đào tạo hoặc có việc làm
nhưng vẫn nghèo. Cần lồng ghép cả kỹ
năng sống (trong đó có tác phong công
nghiệp và kỷ luật lao động) và kiến thức
luật pháp (trong đó có Bộ luật Lao động)
vào chương trình đào tạo chuyên môn
cũng như văn hóa.
Năm là, phát huy hiệu quả của các
mô hình sản xuất mới, tiên tiến (như tích
tụ ruộng đất ở Thái Bình, Ninh Bình,
Quảng Nam, Quảng Ngãi..., giải quyết
việc làm cho nông dân bị mất đất sản
xuất ở Hải Dương, Đà Nẵng, Tiền
Giang..., mỗi làng mỗi nghề ở Hà Nội,
Nam Định, Đà Lạt..., phát triển du lịch
sinh thái ở Vùng đồng bằng sông Cửu
Long, nông nghiệp công nghệ cao ở Đà
Lạt, Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh.., phổ biến
kiến thức ở Vĩnh Phúc...). Nhà nước cần
tạo điều kiện thuận lợi để hộ nông dân
trở thành hộ sản xuất có nghề chuyên
nghiệp với quá trình dồn điền, đổi thửa,
cho thuê đất, tích tụ đất phù hợp. Cần
hình thành các vùng chuyên canh hàng
hoá, các vùng nguyên liệu phục vụ chế
biến và xuất khẩu. Đẩy mạnh kết nối sản
phẩm của nông hộ với doanh nghiệp và
thị trường bằng các hiệp hội ngành hàng.
Các mô hình phát triển các làng nghề, tiểu
thủ công nghiệp và doanh nghiệp vừa và
nhỏ, trang trại, xuất khẩu lao động... cần
được phân tích, nhân rộng và gắn với quá
trình đô thị hoá và với chương trình công
nghiệp hóa nông thôn, vừa đảm bảo cung
cấp nhân lực và đầu vào cho quá trình
công nghiệp hoá đồng thời góp phần phát
triển bền vững nông thôn.
Tài liệu tham khảo
1.
26-NQ/TW ng 8 năm 2008).
2. Các báo cáo chuyên đề và đề tài
nhánh trong Chương trình nghiên cứu khoa
học cấp Bộ năm 2009-2010, mã số CT 2009-
02 ”Cơ sở lý luận và thực tiễn chuyển dịch
cơ cấu lao động nông nghiệp- nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại
hóa” do Viện Khoa học Lao động và Xã hội
thực hiện năm 2009-2010.
3. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế
Trung ương, Đề tài “Nghiên cứu dự báo
chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp,
nông thôn và các giải pháp giải quyết việc
làm trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá ở nước ta”
(KX.02.01/06-10; Chủ nhiệm- PGS.TS. Lê
Xuân Bá).
4. Viện Khoa học Lao động và Xã hội,
2010, Đề án Phát triển Thị trường Lao động
đến 2020.
5. Bùi Tất Thắng, Định hướng chủ yếu
phát triển bền vững các vùng của Việt Nam
trong thời gian tới, Kỷ yếu Hội nghị Phát
triển bền vững toàn quốc lần thứ ba, tháng
01/2011.
6. Chu Tiến Quang (2001), Việc làm ở
nông thôn-thực trạng và giải pháp, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
7. Đặng Kim Sơn, Nông nghiệp, nông
thôn, nông dân trong quá trình CNH thế
giới: Liên hệ với Việt nam, Viện Chính sách
chiến lược nông nghiệp và phát triển nông
thôn.
8. IPSARD (2009), Báo cáo Ảnh hưởng
của suy giảm kinh tế lên lao động việc làm
và đời sống người dân nông thôn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thach_thuc_trong_qua_trinh_chuyen_dich_co_cau_lao_dong_nong.pdf