Tham luận Đánh giá tổng quan về tình hình kinh tế thế giới, khu vực sau khủng hoảng và những tác động đến kinh tế Việt Nam

THAM LUẬN ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN VÊ TÌNH HÌNH KINH TẾ THẾ GIỚI, KHU VỰC SAU KHỦNG HOẢNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM" Lê Văn Được Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Bộ Công thương I. Tình hình kinh tế thế giới và khu vực Châu Á sau khủng khoảng nợ công đến nay 1. Tình hình kinh tế của các nước sau khủng khoảng Khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ Hoa Kỳ năm 2008 và lan ra Châu Âu, đã để lại những hậu quả nặng nề trong cán cân tài khoá của nhiều quốc gia, với việc thực hiện các gói kích thích kinh tế khổng lồ. Theo báo cáo của Bộ Ngoại giao tháng 3 năm 2010, ngay khi các gói kích thích kinh tế đang được thu hẹp dần, tỉ lệ nợ công dự kiến cũng chiếm đến 110 % GDP vào cuối năm 2014, cao hơn nhiều so với mức 70% của năm 2007. Giải quyết thách thức về nợ công là một chính sách ưu tiên trong ngắn hạn, để ổn định niềm tin của dân chúng vào sự phục hồi kinh tế1. Ngày 01 tháng 01 năm 2001, Hy Lạp trở thành thành viên thứ 12 của Liên minh Châu Âu (EU), sau khi đã nỗ lực giảm mạnh lạm phát và lãi suất, để bắt đầu sử dụng đồng euro. Tuy nhiên, sau lễ hội Olympics năm 2004, Hy Lạp đã phải thực hiện rất nhiều chính sách thắt lưng buộc bụng và tăng thuế, để đáp ứng yêu cầu của các nước khu vực đồng euro là thâm hụt ngân sách dưới 3% GDP. Kết quả, thâm hụt ngân sách năm 2009 của Hy lạp là 12,7% GDP, tỉ lệ nợ công lên đến 120% GDP, nên Hy Lạp đã phải cầu cứu EU, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) giúp đỡ. Ngày 9 tháng 5 năm 2010, IMF đã chấp thuận cho Hy Lạp vay 30 tỉ euro trong 3 năm, trong gói cứu trợ trị giá 110 tỉ euro (tương đương 145 tỉ đôla) của IMF và EU. Cùng với Hy Lạp, Chính phủ các nước Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ai Len cũng đã đưa ra những kế hoạch thắt chặt ngân sách, nhằm đưa thâm hụt ngân sách về mức dưới 3% GDP, như quy định trong Hiệp ước Maastricht. Một kế hoạch khẩn cấp trị giá 750 tỉ euro, tương ứng với 1.000 tỉ USD (trong đó 440 tỉ euro của các nước EU, 60 tỉ euro từ công cụ nợ châu Âu, 250 tỉ euro của IMF) đã được đưa ra, để hỗ trợ thị trường tài chính và vực dậy đồng euro bị tụt giá do ảnh hưởng từ khủng hoảng nợ Hy Lạp.

pdf15 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tham luận Đánh giá tổng quan về tình hình kinh tế thế giới, khu vực sau khủng hoảng và những tác động đến kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THAM LUẬN ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN VÊ TÌNH HÌNH KINH TẾ THẾ GIỚI, KHU VỰC SAU KHỦNG HOẢNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM" Lê Văn Được Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Bộ Công thương I. Tình hình kinh tế thế giới và khu vực Châu Á sau khủng khoảng nợ công đến nay 1. Tình hình kinh tế của các nước sau khủng khoảng Khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ Hoa Kỳ năm 2008 và lan ra Châu Âu, đã để lại những hậu quả nặng nề trong cán cân tài khoá của nhiều quốc gia, với việc thực hiện các gói kích thích kinh tế khổng lồ. Theo báo cáo của Bộ Ngoại giao tháng 3 năm 2010, ngay khi các gói kích thích kinh tế đang được thu hẹp dần, tỉ lệ nợ công dự kiến cũng chiếm đến 110 % GDP vào cuối năm 2014, cao hơn nhiều so với mức 70% của năm 2007. Giải quyết thách thức về nợ công là một chính sách ưu tiên trong ngắn hạn, để ổn định niềm tin của dân chúng vào sự phục hồi kinh tế1. Ngày 01 tháng 01 năm 2001, Hy Lạp trở thành thành viên thứ 12 của Liên minh Châu Âu (EU), sau khi đã nỗ lực giảm mạnh lạm phát và lãi suất, để bắt đầu sử dụng đồng euro. Tuy nhiên, sau lễ hội Olympics năm 2004, Hy Lạp đã phải thực hiện rất nhiều chính sách thắt lưng buộc bụng và tăng thuế, để đáp ứng yêu cầu của các nước khu vực đồng euro là thâm hụt ngân sách dưới 3% GDP. Kết quả, thâm hụt ngân sách năm 2009 của Hy lạp là 12,7% GDP, tỉ lệ nợ công lên đến 120% GDP, nên Hy Lạp đã phải cầu cứu EU, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) giúp đỡ. Ngày 9 tháng 5 năm 2010, IMF đã chấp thuận cho Hy Lạp vay 30 tỉ euro trong 3 năm, trong gói cứu trợ trị giá 110 tỉ euro (tương đương 145 tỉ đôla) của IMF và EU. Cùng với Hy Lạp, Chính phủ các nước Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ai Len cũng đã đưa ra những kế hoạch thắt chặt ngân sách, nhằm đưa thâm hụt ngân sách về mức dưới 3% GDP, như quy định trong Hiệp ước Maastricht. Một kế hoạch khẩn cấp trị giá 750 tỉ euro, tương ứng với 1.000 tỉ USD (trong đó 440 tỉ euro của các nước EU, 60 tỉ euro từ công cụ nợ châu Âu, 250 tỉ euro của IMF) đã được đưa ra, để hỗ trợ thị trường tài chính và vực dậy đồng euro bị tụt giá do ảnh hưởng từ khủng hoảng nợ Hy Lạp. 1 John Lipsky, Phó giám đốc điều hành thứ nhất của IMF Đầu tháng 3/2010, Bộ trưởng Tài chính Đức Schauble chính thức đề xuất việc thành lập Quỹ Tiền Tệ Châu Âu (EMF), với mô hình tương tự như IMF, nhằm hỗ trợ các nước thành viên EU xử lý khủng hoảng nợ và thanh toán. Tuy nhiên, ý tưởng này đã gặp phải nhiều phản ứng trái chiều trong nội bộ EU. Có ý kiến cho rằng, việc thành lập EMF là có lợi cho Châu Âu, tránh phụ thuộc vào IMF; ý kiến khác lo ngại sẽ tạo sự cạnh tranh không cần thiết, giữa các thể chế tiền tệ trên thế giới. Tuy được Đức và Pháp là trụ cột EU ủng hộ, song việc triển khai ý tưởng EMF sẽ gặp không ít trở ngại về chính trị, kinh tế và pháp lý như việc : cải tổ thể chế và bộ máy của EU, trước mắt là sửa đổi điều khoản không giải cứu trong Hiệp ước Lisbon; hài hoà hoá chức năng của EMF với các thể chế tiền tệ khác; quy mô đóng góp vốn của các nước… 2. Tình hình nợ nước ngoài và thâm hụt ngân sách Tổng số nợ nước ngoài của EU là khoảng 5,17 nghìn tỉ euro. Riêng nợ của Đức là 1,2 nghìn tỉ euro, của Hy Lạp khoảng 300 tỉ euro. Tính đến cuối năm nay, Italia sẽ phải trả lãi đến 267 tỉ euro, Tây Ban Nha phải trả 81 tỉ euro. Đối với các nước Ailen, Italia, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha nhu cầu trả nợ đến năm 2013 khoảng 750 tỉ euro. Theo cơ quan xếp hạng Quốc tế Standard and Poors dự đoán, riêng công nợ của Tây Ban Nha có thể sẽ vượt quá 110% doanh thu hoạt động vào năm 2012. Bảng 1 : Tình hình thâm hụt ngân sách và nợ công của một số nước Quốc gia Thâm hụt ngân sách 2010 (%GDP) Nợ/GDP 2010 (%) Nợ nuớc ngoài (% tổng nợ) Nợ ngắn hạn (%GDP) Tài khoản vãng lai 2010 (%GDP) Hy Lạp -122 124.9 77.5 20.8 -10 Bồ Đào Nha -80 84.6 73.8 22.6 -9.9 Ireland -147 82.6 57.2 47.3 -1.7 Italy -53 116.7 49 5.7 -2.5 Tây Ban Nha -101 66.3 37 5.8 -6 Anh -129 80.3 22.1 3.3 -2 Mỹ -125 93.6 26.4 8.3 -2.6 Việt Nam 49 Nguồn : Quỹ tiền tệ quốc tế (2010) Không chỉ riêng khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), nợ công đang trở thành một vấn nạn với nhiều nước trên thế giới, trong đó có các cường quốc như Mỹ và Nhật Bản. - Nợ công của Mỹ : Theo thông báo của Bộ Tài chính Mỹ, lần đầu tiên trong lịch sử, nợ công của Mỹ tính đến ngày 1/6 đã hơn 13.000 tỉ USD, tăng 1.600 tỉ USD so với năm 2009, tăng hơn hai lần trong 10 năm qua và chiếm tới gần 90% GDP. Nguyên nhân chính do Chính phủ Mỹ đã tiến hành các chương trình cắt giảm thuế và thực hiện nhiều gói hỗ trợ, nhằm kích thích nền kinh tế nhanh chóng thoát ra khỏi khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cũng theo Bộ Tài chính Mỹ, tháng 4 vừa qua là tháng thứ 19 liên tiếp, ngân sách liên bang Mỹ bị thâm hụt trầm trọng. Đây chính là một trong những nguyên nhân chính khiến nợ công của Mỹ tăng mạnh. Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ dự báo thâm hụt ngân sách trong năm tài khoá 2010 sẽ vào khoảng 1.350 tỉ USD. - Nợ công của Nhật Bản : Do nhiều thập niên chi tiêu mạnh và giảm thuế đã làm cho tỉ lệ nợ công/ GDP của Nhật Bản cao hơn bất kỳ một quốc gia công nghiệp phát triển nào, hiện đã tương đương 230% GDP của nước này. Tính đến cuối năm tài khoá 2009 (kết thúc ngày 31/3/2010), nợ công của Nhật Bản ở mức cao kỷ lục là 882.920 tỉ Yên, tăng 36.430 tỉ Yên so với năm tài khoá trước. IMF cảnh báo Nhật Bản sẽ phải bắt đầu cắt giảm nợ công thông qua chính sách tăng thuế tiêu thụ. 3. Những giải pháp khắc phục thâm hụt ngân sách Theo yêu cầu của Ủy ban Tiền tệ Châu Âu, nhằm đáp ứng được các tiêu chuẩn hội tụ của Liên minh tiền tệ vào năm 2013 và Hiệp ước về Ổn định và Tăng trưởng (Stability and Growth Pack/SGP), tỉ lệ thâm hụt ngân sách chính phủ/GDP của các nước thành viên EU vào cuối năm tài khoá liền trước phải không được vượt quá 3% và tỉ lệ nợ chính phủ/GDP phải không vượt quá 60%. Để làm được việc này, Chính phủ các nước thành viên EU phải xử lý khoản thâm hụt ngân sách lên tới 400 tỉ euro. Những giải pháp của các nước EU cụ thể là : - Ngày 11/5/2010, Hy Lạp bị buộc phải thông qua một kế hoạch khắc nghiệt về giảm thâm hụt ngân sách xuống chỉ còn 30 tỉ Euro trong vòng 3 năm tới, thông qua việc cắt giảm tiền công, trợ cấp, phúc lợi xã hội, giảm bớt các chương trình xã hội và tăng thuế giá trị gia tăng. - Ngày 26/5/2010, Tây Ban Nha đã công bố cắt giảm 80 tỉ Euro trong kế hoạch chi ngân sách, thông qua việc giảm bớt 13 ngàn việc làm trong lĩnh vực dịch vụ công, giảm lương của các nhân viên nhà nước đi 5%. Việc cấp 2500 Euro cho các cặp bố mẹ chấp nhận sinh con để ngăn chặn xu hướng giảm dân số cũng bị hoãn lại. - Bồ Đào Nha đã quyết định không tăng tiền lương và tiền công trong lĩnh vực công, đồng thời thông qua việc tăng thuế VAT để giảm 20 tỉ USD từ thâm hụt ngân sách. - Chính phủ Italia cũng đưa ra các biện pháp nhằm cắt giảm 24 tỉ euro trong chi tiêu Chính phủ, từ nay đến năm 2012, bao gồm giảm việc làm trong lĩnh vực dịch vụ công, giảm lương, kéo dài độ tuổi làm việc trước khi về hưu và những cắt giảm khác trong hệ thống y tế cộng đồng. - Pháp có kế hoạch giảm thâm hụt ngân sách từ 8% GDP xuống còn 3% GDP vào năm 2012. Mục tiêu này chỉ có thể đạt được, khi kéo dài tuổi làm việc của nhân viên thuộc khu vực công, giảm lương và các chi phí cho hệ thống bảo tàng, công trình công, giảm 10% chi phí quản lí hành chính. - Chính phủ Đức lập kế hoạch tiết kiệm khoảng 80 tỉ Euro, trong thời gian 2011-2014 với các biện pháp như : giảm 30 tỉ euro cho phúc lợi xã hội, giảm 15 ngàn việc làm trong lĩnh vực công. Ngoài ra, hi vọng giảm được 5,5 tỉ Euro, thông qua việc cắt giảm trợ cấp và giảm lực lượng quân đội khoảng 40.000 người. II. Ảnh hưởng của khủng hoảng và nợ công lên các hoạt động kinh tế 1. Ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại quốc tế : Cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp và khả năng lan rộng tại EU đã có tác động tiêu cực đối với thương mại quốc tế, nhất là trong bối cảnh sức mua của các thị trường vẫn còn thấp hơn mức trước khủng hoảng tài chính 2008. - Thương mại giữa EU- Hoa Kỳ Mỗi năm, nhập khẩu của khu vực đồng Euro từ Mỹ chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này. Năm 2009, do suy thoái kinh tế toàn cầu, nhập khẩu của EU từ Mỹ giảm 23 tỉ USD so với năm trước khủng hoảng (2007), đạt 221 tỉ USD, do nhu cầu từ thị trường EU sụt giảm mạnh và sự giảm giá của đồng Euro so với đồng Đôla Mỹ. Thâm hụt thương mại của Mỹ với EU cũng giảm mạnh từ 110 tỉ USD vào năm 2007 xuống còn 60,5 tỉ USD vào năm 2009. Hoạt động đầu tư và du lịch của khu vực EU cũng được dự báo là trầm lắng trong năm 2010. - Thương mại giữa EU- Trung Quốc Đối với Trung Quốc, EU là đối tác thương mại lớn nhất. Nhập khẩu của Châu Âu từ Trung Quốc đã tăng trung bình 18%/năm trong 5 năm liền trước năm 2009. Khó khăn của các nền kinh tế trong khu vực đồng Euro sẽ có tác động tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc- vốn cũng chịu áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. - Thương mại giữa EU và các nước xuất khẩu khác Sức mua của thị trường EU giảm sút sẽ làm giảm nhu cầu nhập khẩu và gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu vào thị trường này, trong đó có Việt Nam. 2. Gây sức ép lên tỉ giá hối đoái : Cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp đã tác động tiêu cực đến đồng euro. Đồng tiền này đã giảm mạnh so với đôla Mỹ và nhân dân tệ (NDT) từ cuối tháng 4, đầu tháng 5/2010. Khi Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) và IMF quyết tâm giải cứu Hy Lạp thì đồng euro đã nhích tăng trở lại đạt mức 1,3048USD/EUR, nhưng xu hướng tăng không bền vững. Chỉ hai phiên giao dịch sau đó, đồng euro đã mất giá trở lại còn 1,2586USD/EUR và trong tháng 5 vừa qua, đồng euro đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng bốn năm qua (từ tháng 4/2006) khi 1 euro chỉ đổi được 1,2235 USD. Như vậy, từ đầu năm 2010 đến nay, đồng euro đã giảm giá 15% so với đồng USD, cho thấy sức mạnh tinh thần của gói chính sách giải cứu thị trường không lớn như dự tính. Diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế tại EU, sẽ khiến tỉ giá giữa các đồng tiền mạnh tiếp tục biến động từ nay đến cuối năm. Đồng tiền của các nước Châu Á xuất khẩu nhiều khả năng sẽ tiếp tục tăng. Đôla Mỹ phục hồi ổn định hơn. Đồng euro dự kiến sẽ giảm, so với hiện nay trong 1-2 tháng tới sau đó ổn định dần. Trung Quốc lo ngại việc tăng giá đồng NDT sẽ gây tác động tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu. Có nghiên cứu chỉ ra rằng, GDP của Trung Quốc sẽ giảm 0,89% nếu NDT tăng giá 10% và giảm 2,15% nếu NDT tăng giá 20%. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng Trung Quốc sẽ có những điều chỉnh thích hợp với mức tăng từ 3-4% nhằm xoa dịu Mỹ và phương Tây vào những thời điểm phù hợp. Cùng với đà phục hồi nhẹ của kinh tế Mỹ, sự phục hồi mạnh hơn ở các nền kinh tế Đông Á và triển vọng tăng giá đồng Nhân dân tệ, Chính phủ một số nước đã có những điều chỉnh tăng giá đồng nội tệ so với đồng đôla Mỹ. Trong tháng 3/2010, đồng đôla Ôxtrâylia đã tăng 4%, đồng ringgit Malaixia tăng 6%, đồng won Hàn Quốc tăng 5%, đồng rupee Ấn Độ tăng 4%, đồng yên Nhật tăng 18,6%, đồng bạt Thái tăng 5,5%, đồng peso Phillippines tăng 3,7%, đồng đôla Singapore tăng 2,2% và đồng rupiah Indonesia tăng 2,2%, đồng tiền nhiều nước tăng nhẹ 0,5% (trừ đồng Việt Nam giảm 12,8% tương ứng). Xu hướng tăng giá đồng nội tệ là một phần trong chủ trương thắt chặt hơn chính sách tiền tệ, góp phần giảm sức ép lạm phát khi kinh tế bắt đầu có dấu hiệu phục hồi nhanh. III. Đánh giá, nhận định về những giải pháp ứng phó và dự báo diễn biến, mức độ ảnh hưởng lan toả tiếp theo trong thời gian tới : Cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đã làm trầm trọng thêm tác động của cuộc kinh tế toàn cầu, xuất phát từ Hoa Kỳ năm 2008 và lan ra thế giới. Hầu quả nặng nề là thâm hụt trong cán cân tài khoá của nhiều quốc gia, sau khi thực hiện các gói kích thích kinh tế khổng lồ trong thời gian qua. Thậm chí khi các gói kích thích kinh tế đang được thu hẹp dần, thì tỉ lệ nợ công dự kiến cũng sẽ chiếm đến 110 % GDP vào cuối năm 2014, cao hơn nhiều so với mức chỉ 70% của năm 2007. Giải quyết thách thức nợ công là một ưu tiên chính sách then chốt trong ngắn hạn, vì những lo ngại về tình hình tài chính công có thể xói mòn niềm tin vào sự phục hồi kinh tế2. Các biện pháp đối phó với lạm phát Tuy ở các mức độ khác nhau, hầu hết các nước đều đang tích cực đối phó với lạm phát, khi nền kinh tế thế giới đi vào phục hồi, do nhu cầu hàng hóa và dịch vụ tăng. Với các nền kinh tế phát triển, do tốc độ phục hồi kinh tế còn thấp nên mức độ căng thẳng về lạm phát trong ngắn hạn là không lớn. Trong khi đó, nguy cơ lạm phát lại rất lớn đối với các nền kinh tế đang phát triển, vì sự phục hồi nhu cầu ở các nền kinh tế này nhanh hơn và mạnh hơn, trong khi năng lực sản xuất hạn chế. Thêm vào đó, tác động tăng giá đầu vào (nguyên liệu, dầu mỏ) với các nước này có tính lan toả nhanh hơn so với các nước phát triển. Lạm phát ở Trung Quốc trong tháng 2/2010 đã lên tới 2,7% (tháng 1 là 1,5%), đây là mức cao nhất trong 16 tháng qua, gần chạm mục tiêu 3% của cả năm 2010. Tại Ấn Độ chỉ số giá bán buôn đã tăng lên mức 9,89% (so với tháng 1 là 8,6%). Tại các nước Đông Âu, lạm phát đầu năm 2010 cũng ở mức khá cao như Hungary (6,2%), Rumani (5,2%), Ba Lan (3,9%). Tại Việt Nam, đánh giá quốc tế cho rằng khó có thể duy trì mức lạm phát 7% trong năm 2010 (6 tháng là 4,78%). Gần đây, một số nước đã có động thái chuyển dần sang chính sách thắt chặt tiền tệ hơn, nhằm ngăn ngừa lạm phát. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa của lạm phát là những vấn đề về cơ cấu của nền kinh tế, năng lực sản xuất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của doanh nghiệp, các chính sách vĩ mô về tài chính, tiền tệ... Do vậy, các giải pháp đối phó với lạm phát hậu khủng hoảng thường khó khăn và phức tạp hơn lạm phát thông thường, bởi lạm phát sau các cuộc khủng hoảng thường đi kèm với suy thoái kinh tế. Khi thi hành chính sách thắt chặt tiền tệ để đối phó với khủng hoảng thường dẫn đến sản xuất và xuất khẩu đình trệ, đồng nội tệ 2 John Lipsky, Phó giám đốc điều hành thứ nhất của IMF mất giá và lạm phát cao, đời sống kinh tế người dân gặp khó khăn có thể dẫn đến những bất ổn về chính trị và xã hội. Các chính sách và biện pháp truyền thống để ngăn ngừa và kiểm soát lạm phát bao gồm : - Đảm bảo sự độc lập tương đối cao của NHTƯ trong việc ra quyết định chính sách và tạo dựng lòng tin vào chính sách; - Đưa tỉ lệ lạm phát ở mức mong muốn trở thành một mục tiêu chính sách, từ đó có các giải pháp mạnh để thực hiện; - Giám sát và thông tin thường xuyên về lạm phát; - Kết hợp linh hoạt giữa chính sách tiền tệ và tài khoá để kiểm soát lạm phát; - Tiếp tục thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, kể cả trong nước và xuất khẩu; - Kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư bảo đảm hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng; - Thực hành tiết kiệm trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội; Các giải pháp trên cần được triển khai một cách đồng bộ, tạo hậu thuẫn cho nhau nhằm đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát. IV. Những diễn biến mới của kinh tế thế giới sau khủng hoảng nợ công tác động đến kinh tế Việt Nam : 1. Một số nét đánh giá tổng quan, yêu cầu tái cấu trúc kinh tế của Việt Nam Kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, thể hiện qua tỉ lệ xuất nhập khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chiếm khá cao trong GDP. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và khủng khoảng nợ của Hy Lạp gần đây, đã tác động không nhỏ tới kinh tế nước ta, mà thấy rõ nhất là sự giảm sút trong hoạt động xuất nhập khẩu, trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam. Đồng thời, khủng hoảng nợ công của Hy Lạp cũng là một bài học cần nghiên cứu, phân tích để nhìn lại vấn đề nợ công và mô hình tăng trưởng kinh tế. Dù Hy Lạp không phải là một nền kinh tế lớn ở châu Âu và quan hệ thương mại với Việt Nam không lớn, nhưng Việt Nam sẽ chịu tác động gián tiếp nếu cuộc khủng hoảng này nổ ra, bởi nó sẽ làm chậm lại đà phục hồi của kinh tế toàn cầu và đặc biệt khu vực châu Âu, nơi có quan hệ thương mại và đầu tư khá lớn vào Việt Nam. Đối với nước ta, dù hiện tại tỉ lệ nợ công/GDP vẫn ở mức an toàn (dưới 50%), nhưng tỉ lệ này có xu hướng tăng nhanh tới mức giới hạn an toàn 50%. Tuy nhiên, xét về dài hạn, cần sớm có định hướng mới về thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sao cho có hiệu quả, chú trọng vào các dự án sản xuất, sử dụng công nghệ cao, công nghệ sạch. Đồng thời, thu hẹp dần chênh lệch cán cân thương mại, góp phần làm lành mạnh cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối; kiểm soát chi tiêu công một cách chặt chẽ; kiểm soát các khoản vay nước ngoài, bảo đảm khả năng trả nợ. 2. Dự báo diễn biến tình hình kinh tế Việt Nam năm 2010 Cùng với những tín hiệu tích cực hơn từ tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2010, các dự báo về kinh tế Việt Nam đều cho thấy triển vọng lạc quan trong việc thực hiện các mục tiêu Chính phủ đề ra tại Nghị quyết số 18/NQQ-CP ngày 6 tháng 4 năm 2010 là "bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010" Tuy nhiên, các dự báo cũng cho thấy vẫn còn nhiều vấn đề khó khăn cần phải giải quyết trong thời gian sắp tới. Sau đây là các dự báo tham khảo : 2.1.Dự báo của Phòng Thương Mại Châu Âu tại Việt Nam Theo Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam, năm 2010 sẽ là một năm đầy hứa hẹn đối với nền kinh tế Việt Nam, với mức tăng trưởng có thể vượt trên 6,5%. Nền kinh tế dường như đã trở lại đúng hướng. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất trong khoảng thời gian còn lại của năm 2010 là cân bằng tốc độ tăng trưởng mà không gia tăng lạm phát, đồng thời tạo ra các giải pháp bền vững trong dài hạn cho quốc gia. 2.2. Dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB) : Trong báo cáo cập nhật gần đây, Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đánh giá, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra những giải pháp kịp thời ứng phó với những thay đổi điều kiện kinh tế, góp phần quan trọng vào việc phục hồi trong những tháng đầu năm 2010. Nếu tiếp tục duy trì tình hình này, Việt Nam sẽ có một năm tương đối thành công, với mức tăng trưởng có thể đạt khoảng 7% và lạm phát vẫn sẽ ở mức một con số (khoảng 9%). Về tiền tệ, Việt Nam có thể vẫn phải "vật lộn" với sự giảm giá trị của VND, nhưng lãi suất chắc chắn sẽ giảm. Trong kịch bản của WB, cán cân thanh toán năm nay sẽ có thặng dư khoảng 2,6 tỉ USD, cán cân vãng lai thâm hụt tới 9,1 tỉ USD (năm 2009 khoảng 8 tỉ USD). Nguyên nhân chủ yếu là do thâm hụt cán cân thương mại và dịch vụ tăng hơn, tương ứng khoảng 9,5 tỉ USD và 2,6 tỉ USD; kiều hối tiếp tục giảm và chỉ còn khoảng 6,8 tỉ USD. Bù đắp cho mức thâm hụt trên, cán cân vốn thặng dư 11,7 tỉ USD. Trong con số này, đáng chú ý là đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) được cải thiện cùng với sự phục hồi của thị trường chứng khoán, đạt khoảng 1,5 tỉ USD (năm 2009 chỉ đạt 0,1 tỉ USD). 2.3. Dự báo của ADB : Với chính sách tài khoá và tiền tệ thắt chặt, nhằm đạt mục tiêu hạn chế thâm hụt tài khoá 8,3% GDP và tăng trưởng tín dụng 25%, Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng GDP 6,5% trong năm 2010 và 6,8% vào năm 2011. Lạm phát trung bình dự kiến tăng tương ứng 10% năm 2010 và 8% năm 2011. Tuy nhiên, ADB cũng nhận định, các chính sách kích thích kinh tế của Việt Nam cũng đưa đến những nguy cơ tổn thương ở tầm vĩ mô, đặc biệt là áp lực lên VND và lạm phát. Qua đó ADB đưa ra khuyến nghị Chính phủ Việt Nam cần thắt chặt chính sách tiền tệ và cải thiện hiệu quả của tăng trưởng kinh tế nhằm đảm bảo mức tăng trưởng bền vững. 2.4. Dự báo của Ủy ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (ESCAP) : ESCAP vừa đưa ra dự báo về tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2010 là 5,8%, thấp hơn khá nhiều so với mục tiêu có khả năng đạt được mà Chính phủ đề ra, cũng như so với dự báo của WB và ADB. ESCAP cho rằng, Việt Nam đang phục hồi theo hình chữ V, song nguy cơ bất ổn vĩ mô vẫn đang tiềm ẩn, nhất là khả năng tái lạm pháp. Vì vậy, Việt Nam nên tập trung vào kiểm soát tốt lạm phát, vì có vậy thì Việt Nam có cơ sở để tăng trưởng ổn định và lành mạnh. ESCAP còn khuyến cáo "Ổn định kinh tế vĩ mô là điều quan trọng, nhưng một vấn đề khác quan trọng không kém, đó là đã đến lúc phải làm sao để biến các dấu hiệu phục hồi thành phát triển bền vững". Đây là câu chuyện không chỉ của Việt Nam, mà còn của tất cả các nền kinh tế trong khu vực Châu Á. 2.5. Dự báo của tác giả Tình hình 6 tháng cuối năm kinh tế nước ta còn đối mặt thêm với một số khó khăn mới, khả năng tăng giá của đồng NDT, giá dầu thô và những nguyên vật liệu đầu vào liên quan có thể sẽ tăng hơn do tác động của sự kiện tràn dầu vịnh Mexico, nhu cầu nhập khẩu những tháng cuối năm cũng sẽ tăng hơn, trong khi mức tăng xuất khẩu chậm hơn mức tăng nhập khẩu, thiên tai, dịch bệnh khó lường...Song, bên cạnh đó, những giải pháp điều hành nền kinh tế của Chính phủ sẽ ngày quyết liệt hơn, nên khả năng kiềm chế lạm phát có thể giũa được ở mức 7-8%, GDP tăng trên 6,5% trong năm 2010 V. Đánh giá tác động đến các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế và giải pháp 1. Các vấn đề về thương mại và đầu tư quốc tế - Về xuất khẩu Việc nhiều nước EU áp dụng chính sách "thắt lưng, buộc bụng" sau khủng hoảng nợ Hy Lạp, sẽ khiến sức mua từ khu vực này giảm sút, gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang EU nói chung. Thực tế cho thấy, kim ngạch xuất khẩu sang EU đã chững lại là 804 triệu USD trong tháng 4/2010, thấp hơn so với mức 854 triệu USD của tháng 1/2010 và mức 816 triệu USD của tháng 3/2010. Ngược lại, xu hướng giảm giá cả hàng hoá sẽ làm cho xuất khẩu của EU sang các nước tăng lên, trong đó có Việt Nam. - Về nhập khẩu Xu hướng giảm giá đồng euro đã giúp các doanh nghiệp Việt Nam tranh thủ tăng nhập khẩu từ khu vực EU lên trong tháng 3/2010, tháng bắt đầu chu kỳ kinh doanh của Việt Nam sau kỳ nghỉ tết Nguyên đán. Nếu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vào EU là hàng dệt may và thuỷ sản, thì các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ EU là máy móc, thiết bị, phụ tùng phục vụ sản xuất, bên cạnh đó cũng có một số mặt hàng như : sắt thép các loại; sản phẩm từ sắt thép; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; thức ăn gia súc và nguyên liệu.v.v... - Về đầu tư nước ngoài Các nước EU là đối tác đầu tư lớn nhất của Việt Nam. Trong 5 tháng đầu năm 2010, số vốn đăng kí cấp mới và tăng thêm của các nhà đầu tư khoảng 2400 triệu USD, chiếm khoảng 33% tổng số vốn đăng kí và cấp mới của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, khó khăn tài chính của khu vực EU nói chung, sẽ ảnh hưởng tới tiến độ giải ngân, nhiều khả năng chậm hơn so với kế hoạch. - Về tỉ giá Đồng euro giảm giá, đồng nghĩa với việc các đồng tiền khác lên giá, là một xu hướng khó có thể tránh khỏi, đặc biệt là đồng NDT. Tỷ giá với VND cũng sẽ khá ổn định, sức thanh toán của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ duy trì tốt. Tuy nhiên, sẽ xuất hiện xu thế tăng nhập khẩu, gây nhập siêu. 2. Tình hình sản xuất công nghiệp Trong năm 2010, cùng với việc triển khai mạnh mẽ các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát của Chính phủ, các ngành công nghiệp vẫn duy trì được đà tăng trưởng, góp phần đưa giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng dần qua các tháng và 6 tháng đã đạt mức 13,6%, cao hơn mục tiêu năm đề ra (12%), đảm bảo cân đối cung cầu những sản phẩm thiết yếu cho nền kinh tế. Tuy nhiên, trước sự biến đổi khí hậu khó lường, hạn hán kéo dài, các hồ thuỷ điện thiếu nước, trong khi nhu cầu phụ tải tăng cao dần do nền kinh tế dần phục hồi, nên trong những tháng mùa khô 2010 (từ tháng 4 đến tháng 6) khả năng thiếu điện cho sản xuất và sinh hoạt ở mức cao. Xuất khẩu dầu thô sẽ tiếp tục giảm cho với cùng kỳ năm ngoái để cân đối cho đầu vào của nhà máy lọc dầu Dung Quất, tuy nhiên, điều này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến cán cân thương mại do kim ngạch xuất khẩu dầu thô giảm cũng tương ứng với kim ngạch nhập khẩu xăng giảm. Các nhóm ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu như dệt may, da giày, linh kiện điện tử, nhựa... sẽ tiếp tục đạt mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tốt. Tuy nhiên, nếu các cơ quan nhà nước không nhanh chóng phối hợp để thúc đẩy việc giải ngân vốn theo Quyết định 2213/QĐ-TTg, các sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp sẽ khó đạt được mức tăng trưởng như mục tiêu chính sách đặt ra. Như vậy có thể đánh giá, tình hình sản xuất công nghiệp không chịu tác động mạnh trực tiếp bởi vấn đề nợ công, mà chịu tác động gián tiếp qua hoạt động xuất khẩu và đầu tư. Tiêu thụ hàng hoá qua xuất khẩu giảm hơn trước khủng hoảng đã được bù đắp phần lớn qua đẩy mạnh tiêu thụ trên thị trường trong nước. Cũng nhờ đó tác động ngược lại các nhà sản xuất phải tìm cách chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, phương thức tiêu thụ. Riêng vấn đề đầu tư có biểu hiện chậm tiến độ nhiều công trình trong kế hoạch 5 năm 2006-2010, làm ảnh hưởng tới năng lực sản xuất cho những năm sau này. Nguyên nhân chính là do thiếu vốn và một số nguyên nhân khác như giải phóng mặt bằng, năng lực quản lý và thực hiện của chủ đầu tư và nhà thầu... 3. Thị trường trong nước Với tiềm lực thị trường trong nước còn rất lớn, thì việc phát triển thị trường trong nước được Ðảng và Nhà nước ta xác định là một giải pháp chiến lược, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, có tác động ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân, góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Xu hướng tiêu dùng của người dân đã có những thay đổi. Hưởng ứng cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", hàng hoá sản xuất trong nước dần chiếm ưu thế trên thị trường và có sức thu hút người tiêu dùng; Chương trình Xúc tiến thương mại thị trường trong nước đang được triển khai tích cực, với hàng loạt các hoạt động, như tổ chức hội chợ hàng nông sản, sản phẩm làng nghề phía Nam và phía Bắc, đưa hàng về nông thôn và các khu công nghiệp; nền kinh tế phục hồi, thu nhập của người dân tăng lên,vì vậy người dân cũng chi cho tiêu dùng nhiều hơn, đó là những yếu tố tác động tới tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ luôn giữ ở mức tăng trưởng cao, 6 tháng tăng… và dự kiến cả năm tăng trên 22%. Giá cả hàng hoá những tháng đầu năm có xu hướng tăng, nhưng mức tăng vẫn trong tầm kiểm soát và chủ yếu do tác động của chi phí đẩy (giá nguyên vật liệu, nhân công). Từ tháng 5 đến nay, giá nhiều loại hàng hoá thiết yếu có xu hướng giảm như xăng dầu, gas, đường, sắt thép... hoặc ổn định ở mức thấp như lúa gạo, phân bón... Mặt hàng lương thực trong nhóm lương thực thực phẩm chiếm tỉ trọng khá lớn trong rổ hàng hoá tính CPI (chỉ số giá tiêu dùng) nên xu hướng giảm giá và sự ổn định giá của mặt hàng này đã góp phần kìm chế mức tăng giá chung của thị trường. Chỉ sô CPI 6 tháng là 4,78% và dự báo cả năm trong khoảng 7-8% V. Một số đề xuất hạn chế ảnh hưởng khủng hoảng nợ công Hy Lạp 1. Về chính sách quản lý nợ công Trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế của nước ta còn dựa quá nhiều vào đầu tư, trong đó có đầu tư từ bên ngoài. Bên cạnh đó, một số yếu tố về tài chính chưa thực sự lành mạnh như : thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài, quan lý chi tiêu công còn yếu. Chỉ có tái cấu trúc nền kinh tế và cải thiện chất lượng tăng trưởng mới giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm sắp tới. Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam (hiện vào khoảng 43-49%GDP)3 vẫn nằm trong giới hạn cho phép và thấp hơn so với các nước. Tuy nhiên, tỉ lệ này có xu hướng tăng dần, có thể tới sát mức trần cho phép đặt ra cho Chính phủ cần rà soát lại việc quản lí cán cân ngân sách và các cán cân vĩ mô khác, nhằm giảm áp lực đối với nợ công. Điều này đặt ra trên cơ sở nhận biết các vấn đề sau : - Thâm hụt thương mại của Việt Nam đã kéo dài nhiều năm, 6 tháng năm 2010 là…, dự báo cả năm khoảng 15-15,5 tỉ USD. Số thâm hụt này được bù đắp bằng nguồn vốn từ bên ngoài, trong đó có ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế. Điều này khiến cho tỉ lệ nợ công ngày càng tăng nhanh và sẽ nhanh chóng chạm mức giới hạn an toàn 50%. 3 Số liệu thống kê phía Việt Nam công bố thấp hơn so với tính toán của UNCTAD do khái niệm về nợ công có sự khác biệt. Theo Bộ Tài chính Việt Nam, nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Còn theo Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Hội nghị của LHQ về thương mại và phát triển (UNCTAD), nợ công còn bao gồm các nghĩa vụ nợ của ngân hàng trung ương, các đơn vị trực thuộc chính phủ (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước) ở tất cả các cấp chính quyền. - Đầu tư công của Việt Nam tăng mạnh, cùng với các chính sách kích cầu nhằm lấy lại đà tăng trưởng sau khủng hoảng. Ngoài ra, sắp tới Chính phủ có chương trình triển khai nhiều dự án quy mô rất lớn, như mở rộng Thủ đô Hà Nội, xây dựng nhà máy điện hạt nhân, dự án đường cao tốc Bắc Nam…nên nhu cầu vốn đầu tư tăng nhanh, trong đó có vốn từ nước ngoài, khiến áp lực nợ nước ngoài của Chính phủ ngày càng lớn. - Mặt khác, quá trình đầu tư nhiều năm qua đang có xu hướng giảm sút về hiệu quả xét theo chỉ số Chỉ số ICOR ngày càng cao, tỉ lệ đầu tư/GDP trong những năm gần đây đều ở mức trên 40%. Đồng thời với một tỉ lệ vốn đầu tư nước ngoài lớn trong cơ cấu vốn đầu tư, nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ bị tổn thương một khi kinh tế thế giới ngưng trệ. Ngoài ra, gần đây các dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật chất ngày càng giảm, đầu tư vào khu vực phi sản xuất ngày một gia tăng, cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm. 2. Các giải pháp nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững, đảm bảo các các cân vĩ mô : - Về chính sách tiền tệ Tiếp tục thực hiện và điều hành chính sách tiền tệ và tài chính thận trọng, linh hoạt, đồng bộ để ngăn chặn lạm phát cao trở lại. Phấn đấu tăng thu trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất của các ngành, lĩnh vực, các thành phần kinh tế; đồng thời triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát để nâng cao hiệu quả thu chi ngân sách nhà nước. - Về tỉ giá Trong bối cảnh xuất khẩu sang EU tiếp tục gặp khó khăn, cần chuyển hướng mạnh hơn việc xuất khẩu sang các thị trường khác, mặc dù áp lực cạnh tranh vẫn có thể còn rất lớn, do tổng thể thị trường bị co hẹp. Vì vậy, vẫn cần duy trì mức tỉ giá hợp lí tạo điều kiện cho đẩy mạnh xuất khẩu, kết hợp với các chính sách kiểm soát nhập khẩu, khuyến khích sử dụng máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hoá sản xuất trong nước để giảm nhập khảu, nhất là những mặt hàng không thiết yếu. - Về thu chi ngân sách Tăng nguồn thu ngân sách bằng việc nâng cao chất lượng thu thuế (thay vì tăng thuế suất) đối với thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, các loại phí khác. Hạn chế các khoản chi chưa thực sự cần thiết. Tập trung đẩy mạnh đầu tư có hiệu quả trên cơ sở rà soát, sắp xếp danh mục các dự án đầu tư theo thứ tự mục tiêu ưu tiên, đặc biệt các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, từ đó có kế hoạch bố trí đủ vốn cho các dự án trọng điểm, dự án cấp bách phải hoàn thành trong năm 2010. Tăng cường quản lí hoạt động đầu tư có sử dụng vốn ngân sách và vốn vay nước ngoài. Rà soát, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn một cách đặc biệt sát sao, nếu cần thiết có thể thuê tư vấn quản lí tài chính quốc tế đối với các dự án lớn. - Về quản lý dòng vốn đầu tư nước ngoài Thận trọng đối với các dòng vốn nóng có khả năng đổ vào Việt Nam khi hoạt động đầu tư trên thị trường tài chính châu Âu trở nên bất ổn định. Rà soát lại hiệu quả của các dự án đầu tư, đặc biệt là nhóm sử dụng nhiều nguồn vốn từ nước ngoài để tránh lãng phí Thực hiện tích cực và đồng bộ các giải pháp được nêu trong Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2010 về việc triển khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết của loại doanh nghiệp này với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản xuất là hoạt động khai thác, chế tạo, gia công sản phẩm hàng hoá. - Về đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại Theo dõi thường xuyên và thu thập đầy đủ thông tin về tình hình cung cầu các mặt hàng trọng yếu trên thị trường thế giới, những mặt hàng có khối lượng hàng hoá lớn, những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh; đặc biệt phải đón đầu được những thị trường lớn đang hồi phục, để tăng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu. Kiểm soát chặt chẽ cơ cấu hàng nhập khẩu; đẩy nhanh quá trình phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ; thực hiện hiệu quả các giải pháp kỹ thuật hạn chế nhập khẩu đối với các hàng hoá xa xỉ, để hạn chế thâm hụt thương mại. - Về hạn chế thâm hụt thương mại Tiếp tục đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, giảm sự phụ thuộc vào thị trường EU, để hạn chế tác động từ sự suy giảm sức mua của thị trường này đối với hoạt động xuất khẩu. Đẩy mạnh xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất khẩu, theo xu hướng chuyển dịch sang hàng có giá trị gia tăng cao, mở rộng sang các thị trường khu vực, nhất là Trung Quốc và các thị trường khác trên thế giới. Đồng thời quyết tâm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu, những máy móc, thiết bị, vật tư hàng hoá trong nước đã sản xuất được; tăng cường sử dụng các máy móc, thiết bị, vật tư hàng hoá trong nước trong các dự án đầu tư, nhất là các dự án sử dụng vốn nhà nước. - Về quản lý thị trường trong nước Tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các quy định của pháp luật về giá, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, xử lý kịp thời các trường hợp lợi dụng tình hình để đầu cơ, ép giá, găm hàng, đưa tin thất thiệt nhằm đẩy giá bán hàng lên cao, gây bất ổn định thị trường, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao theo tinh thần chỉ đạo tại Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ và Chỉ thị 13/CT-BCT ngày 12 tháng 4 năm 2010 của Bộ Công Thương. VI. Yêu cầu về đổi mới nền kinh tế Việt Nam (tái cấu trúc) Trong hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta từng bước phát triển theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế. Quy mô kinh tế nước ta cũng ngày một lớn dần, tuy còn nhỏ bé so với nhiều nước trong khu vực. Sau khi gia nhập WTO và tham gia ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do FTA, nền kinh tế nươc ta thực sự là một nền kinh tế mở, do đó chịu tác động ngày càng lớn bởi những biến động của kinh tế thế giới. Mặt khác cũng phải nhận thấy hiệu quả tăng trưởng kinh tế nhiều năm qua của Việt Nam còn thấp, chủ yếu còn dựa vào đầu tư, trong đó đầu tư nước ngoài luôn chiếm tỉ trọng cao; kinh tế phát triển theo chiều rộng là chủ yếu; nhiều sản phẩm, nguyên vật liệu, công nghệ...còn phụ thuộc bên ngoài. Vai trò „tự chủ" trong nhiều lĩnh vực còn yếu kém. Năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp, hàng hoá còn thấp... Những vấn đề nêu trên đều thể hiện cấu trúc nền kinh tế của nước ta chưa đạt tới độ hợp lý, hoàn thiện và tiên tiến. Vì vậy, cần có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc, khoa học để có sự đổi mới cần thiết trong giai đoạn tới. Yêu cầu đổi mới/tái cấu trúc nền kinh tế cần đạt được các mục tiêu - Mọi lực lượng sản xuất phải được phát huy hết năng lực - Quan hệ sản xuất đáp ứng được yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất - Hiệu quả nền kinh tế được gia tăng; tự chủ, chủ động được những gì là quan trọng để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững - Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước bằng đường lối, chính sách và pháp luật.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftham_luan_danh_gia_tong_quan_ve_tinh_hinh_kinh_te_the_gioi_khu_vuc_sau_khung_hoang_va_nhung_tac_.pdf
Tài liệu liên quan