(i) Bộ luật TTDS 2015 cần đưa ra
nguyên tắc chung để xác định thẩm quyền
của toà án Việt Nam đối với các vụ việc dân
sự có YTNN là nguyên tắc “nơi cư trú của
bị đơn là cá nhân và nơi có trụ sở của bị đơn
là pháp nhân”. Bên cạnh đó, Bộ luật TTDS
2015 sẽ xây dựng các nguyên tắc ngoại lệ
đối với trường hợp bị đơn không có nơi cư
trú tại Việt Nam hoặc nguyên tắc áp dụng
đối với các lĩnh vực đặc thù;
(ii) Bộ luật TTDS 2015 cần có văn
bản hướng dẫn cụ thể các quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 469 Bộ luật TTDS 2015 về
tiêu chí xác định “nơi cư trú, làm ăn, sinh
sống lâu dài tại Việt Nam”;
(iii) Về thẩm quyền của toà án Việt
Nam trong trường hợp các bên thoả thuận
chọn toà án Việt Nam, pháp luật Việt Nam
cần có hướng dẫn cụ thể về hiệu lực của thoả
thuận chọn toà án bao gồm các quy định về
chủ thể thoả thuận chọn toà án, hình thức,
nội dung của thoả thuận lựa chọn toà án
(iv) Dưới góc độ thực tiễn, nhằm đảm
bảo khả năng thi hành các bản án của toà án
Việt Nam chúng tôi đề xuất: khi toà án Việt
Nam xem xét thẩm quyền đối với vụ việc
dân sự có YTNN cũng cần phải xem xét các
yếu tố kết nối giữa tài sản của bị đơn với
tranh chấp hoặc yếu tố giá trị tối thiểu của
tài sản
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thẩm quyền của tòa án Đức trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, thương mại có yếu tố nước ngoài và những nội dung có thể tham khảo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
55
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Bộ luật Tố tụng Dân sự (TTDS) năm2015 có nhiều điểm mới trong quyđịnh về thẩm quyền của toà án Việt
Nam đối với các vụ việc dân sự có YTNN,
nhưng nhiều nội dung vẫn còn hạn chế,
đặc biệt là khả năng thực thi như vấn đề
thoả thuận lựa chọn toà án, xác định thẩm
quyền theo nơi có tài sản, vấn đề bảo lưu
trật tự công cộng Việc nghiên cứu kinh
nghiệm lập pháp của các nước về vấn đề
này là cần thiết, trong đó, kinh nghiệm lập
pháp của Liên bang Đức (Đức, một trong
những quốc gia điển hình cho truyền thống
pháp luật Civil law) về xác định thẩm
quyền của toà án quốc gia đối với các vụ
việc dân sự có YTNN được xem là cần
thiết nhằm hoàn thiện và phát triển hệ
thống pháp luật Việt Nam.
Pháp luật Đức điều chỉnh về vấn đề
thẩm quyền của toà án quốc gia đối với các
vụ việc dân sự, thương mại có YTNN được
chia thành các trường hợp cụ thể sau:
THÊÍM QUYÏÌN CUÃA TOAÂ AÁN ÀÛÁC TRONG VIÏåC GIAÃI QUYÏËT
CAÁC VUÅ VIÏåC DÊN SÛÅ, THÛÚNG MAÅI COÁ YÏËU TÖË NÛÚÁC NGOAÂI
VAÂ NHÛÄNG NÖÅI DUNG COÁ THÏÍ THAM KHAÃO
Phan Hoài Nam*
Nguyễn Lê Hoài*
* GV. Khoa Luật quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
* ThS, GV. Khoa Luật quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: giải quyết tranh
chấp dân sự, giải quyết tranh
chấp thương mại, toà án Đức
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 16/11/2016
Biên tập: 06/03/2017
Duyệt bài: 10/03/2017
Article Infomation:
Keywords:
Civil Dispute Settlement,
Commercial Dispute
Settlement, German Courts
Article History:
Received: 16 Nov. 2016
Edited: 06 Mar. 2017
Approved: 10 Mar. 2017
Tóm tắt:
Với sự phát triển của tư pháp quốc tế trong hệ thống pháp luật Đức, một số
nội dung từ hệ thống pháp luật Đức có thể được tham khảo cho quá trình
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là nguồn luật điều chỉnh về
việc xác định thẩm quyền của toà án Việt Nam đối với các vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài (YTNN). Điều này càng có ý nghĩa hơn khi Việt Nam đang
triển khai thực thi Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Abstract:
With development of the private international law of the legal system of the
Germany, a number of regulations from the Gemany can be used as
references for the Vietnamese legal system, especially the provisions on the
Vietnamese courts’ jurisdiction to resolve civil cases and/or matters involving
the foreign partners. It is more meaningful for Vietnam in this period when
the Civil Procedure Code of 2015 is executed.
56
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
1 Nguồn: https://europa.eu/european-union/about-eu/countries/member-countries/germany_en, truy cập ngày 18/8/2016.
2 Nghị định Brussels I 2012 thay thế cho Nghị định số 44 ban hành ngày 22/12/2000 về thẩm quyền công nhận và cho
thi hành phán quyết về các vấn đề dân sự và thương mại (gọi tắt là Nghị định Brussels I 2000), được sửa đổi, bổ sung
bởi Nghị định số 1496/2002. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 10/01/2015. Phạm vi điều chỉnh của Nghị
định bao gồm các quan hệ dân sự và thương mại, trừ các vấn đề được giới hạn tại Điều 1 của Nghị định, như vấn đề
về hải quan, hành chính, năng lực pháp luật của thể nhân, các vấn đề về hôn nhân, thừa kế, phá sản, an sinh - xã hội
và trọng tài. Nghị định Brussels I 2012 thay thế một số quy định được cho là cứng nhắc và thiếu tính chắc chắn trong
việc tạo lập căn cứ cho việc xác định thẩm quyền của toà án quốc gia thành viên. Các nguyên tắc trong việc xác định
thẩm quyền chung, thẩm quyền trong lĩnh vực hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, căn cứ xác định thẩm
quyền tuyệt đối - riêng biệt hầu như không có sự thay đổi. Các quy định về thẩm quyền trong quan hệ hợp đồng có
sự tham gia của các chủ thể có vị trí yếu thế được phát triển thêm nhằm tăng cường tính chắc chắn về thẩm quyền,
cũng như bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể yếu thế được tốt hơn. Hai thay đổi lớn nhất và quan trọng nhất được
thể hiện trong Nghị định này chính là vấn đề về mối quan hệ giữa nguyên tắc lis pendens, tố tụng song song và thẩm
quyền phát sinh trên cơ sở thoả thuận lựa chọn; vấn đề công nhận và cho thi hành phán quyết của toà án quốc gia
thành viên trên lãnh thổ các quốc gia thành viên khác.
3 Công ước Lugano 2007 được áp dụng mở rộng cho cả các quốc gia không phải là thành viên Châu Âu. Hiện nay, nó
có hiệu lực đối với tất cả 27 thành viên EU, Iceland, Na Uy và Thuỵ Sĩ. Mối quan hệ giữa Công ước Lugano 2007 và
Nghị định Brussel I được giải quyết tại Điều 64 của Công ước Lugano 2007. Theo đó, Công ước này được ưu tiên áp
dụng cho Đan Mạch và những quốc gia thứ ba không phải là thành viên của EFTA - Khu vực mậu dịch tự do EU như
Iceland, Na Uy và Thuỵ Sĩ.
4 Theo Điều 12, 13 Bộ luật TTDS Đức.
- Các vụ việc dân sự, thương mại có
liên quan đến công dân, pháp nhân đến từ
các quốc gia thành viên Liên minh Châu Âu
(EU): Đức là thành viên của EU từ ngày
01/01/19581 nên các quy định của Nghị định
Brussels I 20122 của EU về thẩm quyền và
công nhận, cho thi hành phán quyết về các
vấn đề dân sự, thương mại sẽ có giá trị áp
dụng bắt buộc.
- Các vụ việc dân sự, thương mại có
liên quan đến công dân, pháp nhân đến từ
các quốc gia có ký kết Điều ước quốc tế với
Đức về vấn đề thẩm quyền: ưu tiên áp dụng
các quy định trong các Điều ước quốc tế đó.
Ví dụ như Công ước Lugano 20073 áp dụng
cho các vụ việc phát sinh có liên quan đến
công dân, pháp nhân đến từ Đan Mạch, Ice-
land, Na Uy và Thuỵ Sĩ.
- Các trường hợp khác: áp dụng các
quy định trong pháp luật tố tụng dân sự của
Đức. Nhìn chung, các quy định này cũng
gần tương tự như các quy định của EU về
vấn đề xác định thẩm quyền của toà án quốc
gia đối với các vụ việc dân sự, thương mại
có YTNN.
Bài viết đề cập đến nội dung các quy
định trong pháp luật tố tụng Đức điều chỉnh
vấn đề xác định thẩm quyền của toà án quốc
gia đối với các vụ việc dân sự, thương mại
có YTNN, tức là các quy định trong trường
hợp thứ ba.
1. Nguyên tắc chung trong việc xác định
thẩm quyền của toà án Đức đối với các vụ
việc dân sự, thương mại có yếu tố nước
ngoài
Bộ luật TTDS Đức được ban hành vào
ngày 05/12/2005 và được sửa đổi, bổ sung
nhiều lần, gần nhất là vào năm 2013. Theo
Bộ luật, thẩm quyền của toà án Đức đối với
vụ việc dân sự có YTNN được ghi nhận từ
Điều 12 đến Điều 40. Những điều khoản này
được áp dụng chung cho các vụ việc dân sự,
thương mại trong nước và cả các vụ việc có
YTNN.
Theo đó, nguyên tắc chung trong việc
xác định thẩm quyền của toà án Đức đối với
các tranh chấp liên quan đến cá nhân, pháp
nhân nước ngoài cũng tương tự như đối với
cá nhân, pháp nhân trong nước đó là nơi cư
trú của bị đơn (đối với cá nhân) hoặc nơi
văn phòng được đăng ký (đối với pháp
nhân)4.
Nguyên tắc này cũng được EU sử
dụng tại Điều 4 Nghị định Brussels I 2012.
Việc sử dụng căn cứ “nơi cư trú của bị đơn”
trong pháp luật EU và Đức được cho là
nhằm mục đích tăng cường sự ảnh hưởng
của các quốc gia đối với cá nhân và pháp
57
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
nhân cư trú trên lãnh thổ quốc gia mình
trong điều kiện vấn đề cư trú trên lãnh thổ
của nhau tương đối dễ dàng ở EU, tạo sự
thuận lợi không chỉ cho toà án mà còn cho
các đương sự trong quá trình tố tụng và quan
trọng nhất là khả năng để thực thi bản án,
quyết định. Nguyên tắc này cũng đã được
hầu hết các nước thành viên chuyển hoá và
áp dụng vào hệ thống pháp luật quốc gia,
trong đó có Đức5.
Tuy nhiên, theo Điều 23 Bộ luật
TTDS Đức6, trong trường hợp bị đơn là
người nước ngoài không cư trú tại Đức thì
toà án có thẩm quyền là toà án nơi có tài sản
của bị đơn. Như vậy, đối với một tranh chấp
liên quan đến tài sản mà bị đơn không có nơi
cư trú tại Đức thì toà án Đức sẽ có thẩm
quyền giải quyết nếu người đó có tài sản tại
Đức. Tuy nhiên, Bộ luật TTDS Đức không
có yêu cầu nào về việc phải có sự kết nối
giữa tài sản của bị đơn với tranh chấp, cũng
như giá trị tối thiểu của tài sản nhằm đảm
bảo khả năng thi hành bản án7. Quy định này
đã dẫn đến những khó khăn nhất định cho
quá trình giải quyết tranh chấp của cơ quan
toà án bởi trên thực tế có những tranh chấp
phát sinh mà giá trị của tranh chấp đó cao
hơn giá trị tài sản của bị đơn, nếu nguyên
đơn thắng kiện, giá trị của tài sản đó không
đủ để đảm bảo thi hành án. Lúc này, vấn đề
đặt ra là việc công nhận và cho thi hành bản
án đó tại Đức có được đảm bảo hay không?
Do đó, quy định tại Điều 23 đã bị hạn chế
bởi các án lệ tại toà án Đức. Điều này có
nghĩa là, nếu tài sản của bị đơn không có yếu
tố kết nối với tranh chấp hoặc giá trị của tài
sản nhỏ hoặc giá trị của tài sản bị đơn thấp
hơn giá trị của tranh chấp thì thẩm quyền của
toà án Đức cũng không nên được thiết lập.
Về giá trị tranh chấp, có thể kể đến
phán quyết điển hình của Toà án khu vực
Celle ngày 29/10/1998. Theo đó, Toà án đã
từ chối quyền tài phán theo Điều 23 nếu giá
trị của thẩm quyền thiết lập tài sản là thấp
và không cho phép mong đợi một thặng dư
cao hơn so với chi phí của việc thực thi luật
pháp. Điều này xuất phát từ quan điểm đề
cao khả năng thực thi của phán quyết bằng
việc bị đơn phải có tài sản tối thiểu để nhằm
đảm bảo khả năng thi hành án8.
Về yêu cầu liên quan đến tính kết nối,
trong một số bản án, quyết định mang tính
tiền lệ của toà án Đức đã đặt ra yêu cầu cần
phải có một sự kết nối cụ thể với yếu tố lãnh
thổ của Đức. Tuy nhiên, toà án Đức đã
không giải thích bằng cách nào để xác định
được yếu tố kết nối đó, nó có thể được xác
định dựa trên nơi đăng ký văn phòng của các
bên tại Đức, hoạt động kinh doanh được
thực hiện tại Đức, các bằng chứng của vụ
việc nằm tại Đức. Một vụ tranh chấp sẽ
không được xem là có tính kết nối với Đức
nếu trọng tâm của mối quan hệ pháp lý của
tranh chấp đó rõ ràng và hiển nhiên toạ lạc
trên lãnh thổ của quốc gia nước ngoài9.
2. Các trường hợp ngoại lệ trong việc xác
định thẩm quyền của toà án Đức đối với
các vụ việc dân sự, thương mại có yếu tố
nước ngoài
2.1 Thẩm quyền riêng biệt của toà án
Đức
Các quy định về thẩm quyền riêng biệt
(tuyệt đối) của toà án quốc gia đối với các
vụ việc dân sự, thương mại có YTNN được
quy định trong pháp luật các nước nhằm
hướng đến việc bảo vệ an ninh, chủ quyền
5 Ví dụ như Điều 14, Điều 15 Bộ luật Dân sự Pháp; điểm a khoản 1 Điều 3 Bộ luật TTDS Hà Lan; Điều 27 Bộ luật
TTDS Latvia
6 Ban hành năm 2005 và đã được sửa đổi, bổ sung lần gần nhất là năm 2013.
7 Michael Molitoris & Amelie Abt (2005), “Comparative study of “Residual Jurisdiction” in Civil and Commercial
Disputes in the EU National Report for Germany”, p. 6. Nguồn:
resid_jurisd_germany_en.pdf, truy cập ngày 26/4/2016.
8 Michael Molitoris & Amelie Abt (2005), tldd, tr. 6.
9 Michael Molitoris & Amelie Abt (2005), tlđd, tr. 6.
58
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
10 Lê Thị Nam Giang (2010), Tư pháp Quốc tế, Nxb. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 198
11 Thuật ngữ “cartel” bắt nguồn gốc từ tiếng Đức (Kartell), dùng để chỉ hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp có vị
trí độc lập với nhau (hợp tác theo chiều ngang) nhằm nâng cao sức mạnh của các bên trên thị trường. Xem: Nguyễn
Hữu Huyên (2009), “Nhận dạng cartel theo luật cạnh tranh của các nước phát triển”. Nguồn:
tuc/Pages/thong-tin-khac.aspx?ItemID=1225, truy cập ngày 22/8/2016.
12 Michael Molitoris & Amelie Abt (2005), tlđd, tr. 14 -15.
13 Xem thêm: Pierre Raoul, Duval & Marie Stoyanov (2005), “Comparative study of “Residual Jurisdiction” in Civil
and Commercial Disputes in the EU National Report for France”, p. 6, 7. Nguồn:
truy cập ngày 15/11/2016.
14 Xem thêm: Arnaud Nuyts (2005), “Comparative study of “Residual Jurisdiction” in Civil and Commercial Disputes
in the EU National Report for Belgium”, p. 15. Nguồn:
civiljustice/news/docs/study_resid_jurisd_belgium_en.pdf, truy cập ngày 12/11/2016.
15 Pháp cũng có quy định đối với các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài (YTNN) thuộc thẩm quyền của toà
án Pháp thì nó sẽ thuộc thẩm quyền riêng biệt. Phán quyết của toà án nước ngoài trong các trường hợp này sẽ không
được công nhận và cho thi hành trên lãnh thổ Pháp. Quy định này bị rất nhiều chỉ trích vì nó thể hiện sự không tin
tưởng vào toà án nước ngoài. Chính vì thế trong các án lệ sau này cũng đã có sự giải thích mềm dẻo hơn. Theo đó,
phán quyết của toà án nước ngoài sẽ có thể bị từ chối công nhận nếu toà án nước ngoài không có thẩm quyền dựa trên
các nguyên tắc đặc biệt về thẩm quyền gián tiếp của toà án Pháp đối với các vụ việc có YTNN (special French rules
on indirect international jurisdiction). Nghĩa là, nếu các nguyên tắc về thẩm quyền của toà án Pháp không quy định
quốc gia, tạo sự thuận lợi cho việc xét xử
một cách có hiệu quả và bảo đảm thi hành
bản án, quyết định của toà án, từ đó bảo vệ
một cách có hiệu quả nhất lợi ích của quốc
gia và lợi ích của các bên10. Điều này cũng
đã được quy định cụ thể tại Điều 24 Nghị
định Brussels I 2012 của EU. Theo đó, EU
đã xác định một ranh giới cụ thể (bốn căn
cứ) nhằm xác định thẩm quyền tuyệt đối của
toà án quốc gia đối với các vụ việc dân sự,
thương mại có YTNN.
Tương tự như EU, Bộ luật TTDS Đức
cũng quy định các trường hợp thuộc thẩm
quyền tuyệt đối của toà án Đức. Cụ thể: (i)
Các vụ việc liên quan đến quyền sở hữu bất
động sản và các quyền khác gắn với bất
động sản theo Điều 24; (ii) Quyền cho thuê
mặt bằng tại Đức theo điểm a Điều 29; (iii)
Các tranh chấp liên quan đến người tiêu
dùng trong hoạt động mua bán tận nhà nếu
người tiêu dùng đó cư trú tại Đức theo điểm
c, Điều 29; (iv) Các tranh chấp liên quan đến
vấn đề môi trường nếu nhà máy đó toạ lạc
tại Đức theo điểm a Điều 32; (V) Các khiếu
kiện theo Luật Cartel`11 của Đức; liên quan
đến bằng sáng chế của người Đức hoặc các
quyền về sở hữu công nghiệp khác được cấp
phát bởi Đức; và vụ việc có thoả thuận lựa
chọn toà án độc quyền (của Đức)12.
Theo điểm 1 mục (1) Điều 328 Bộ luật
TTDS Đức, nếu toà án Đức, theo pháp luật
Đức, có thẩm quyền tuyệt đối đối với một
vụ việc cụ thể thì bản án của toà án nước
ngoài liên quan đến vụ việc cụ thể đó sẽ
không được công nhận và cho thi hành trên
lãnh thổ của Đức. Quy định này khác với
quy định trong pháp luật một số nước EU
như Pháp và Bỉ. Theo đó, cả hai quốc gia
đều có quy định: Nếu các vụ việc dân sự,
thương mại có YTNN thuộc thẩm quyền của
toà án quốc gia thì nó sẽ thuộc thẩm quyền
tuyệt đối của toà án nước đó13,14. Quy định
này có nghĩa là toàn bộ các vụ việc thuộc
thẩm quyền của Toà án Pháp, Bỉ thì đều
thuộc thẩm quyền tuyệt đối của Pháp và Bỉ.
Nếu có bản án của toà án nước ngoài tuyên
về cùng vấn đề đó, nó sẽ không được công
nhận và cho thi hành trên lãnh thổ của Pháp
và Bỉ. Trong khi quy định của Đức lại hạn
chế hơn, chỉ khi nào thuộc các trường hợp
đặc biệt mới làm hạn chế khả năng công
nhận và thực thi của phán quyết toà án nước
ngoài. Quy định này được cho là hợp lý,
tránh những sự chỉ trích như trong cách quy
định của Pháp và Bỉ, đó là việc thể hiện sự
không tin tưởng vào toà án nước ngoài. Và
thực tiễn án lệ tại các nước này cũng đã bắt
đầu có sự giải thích mềm dẻo hơn về quy
định này15.
59
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Riêng quy định về thẩm quyền riêng
biệt đối với trường hợp thoả thuận lựa chọn
toà án độc quyền (exclusive choice of court
agreement) là toà án Đức lại xảy ra sự tranh
luận gay gắt, khi toà án Đức đã từng phủ
nhận thẩm quyền của toà án nước ngoài dựa
theo thoả thuận lựa chọn toà án độc quyền
là toà án nước ngoài16.
2.2 Thẩm quyền của toà án Đức liên
quan đến tranh chấp hợp đồng và ngoài
hợp đồng
2.2.1 Thẩm quyền đối với các vụ việc
liên quan đến hợp đồng
Theo Điều 29 Bộ luật TTDS Đức, các
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hoặc liên
quan đến việc xem xét sự tồn tại của nó sẽ
thuộc thẩm quyền của toà án nơi thực hiện
hợp đồng. Các tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng được hiểu theo nghĩa rất rộng, bao
gồm các nghĩa vụ hợp đồng, tuyên bố hợp
đồng vô hiệu, các khiếu kiện liên quan đến
nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giai đoạn
tiền hợp đồng. Trong đó, việc xác định nơi
thực hiện hợp đồng được xác định theo pháp
luật áp dụng để điều chỉnh nội dung hợp
đồng bất kể đó là pháp luật Đức hay pháp
luật nước ngoài. Việc xác định nơi thực hiện
hợp đồng sẽ không căn cứ vào Lex Fori
(Luật toà án) như vấn đề xác định cơ quan
có thẩm quyền mà căn cứ vào pháp luật
được áp dụng để điều chỉnh nghĩa vụ của
các bên trong hợp đồng theo quy định của
pháp luật tư pháp quốc tế Đức.
Đối với các hợp đồng có sự tham gia
của các chủ thể có vị trí yếu thế, bao gồm
hợp đồng tiêu dùng, hợp đồng lao động và
hợp đồng bảo hiểm, pháp luật Đức không
giống như pháp luật EU có các quy định
riêng biệt điều chỉnh về thẩm quyền giải
quyết. Pháp luật Đức chỉ có các quy định
mang tính riêng biệt để điều chỉnh về hợp
đồng bảo hiểm, với căn cứ xác định thẩm
quyền không dựa trên dấu hiệu nơi thực hiện
hợp đồng theo Điều 29 Bộ luật TTDS Đức.
Theo đó, Điều 46 Luật Hợp đồng bảo hiểm17
quy định bên mua bảo hiểm có thể khởi kiện
công ty bảo hiểm tại toà án nơi mà công ty
này đăng ký thành lập hoặc nơi mà văn
phòng môi giới bảo hiểm đăng ký thành lập;
trong các trường hợp khác không phải là
hợp đồng sẽ dựa trên căn cứ tại Điều 48,
theo đó toà án nơi thực hiện việc bảo hiểm
sẽ có thẩm quyền bất luận người khởi kiện
là ai. Đối với trường hợp bên được bảo hiểm
là bị đơn không cư trú tại Đức, công ty bảo
hiểm sẽ được quyền khởi kiện bên được bảo
hiểm tại toà án nơi có tài sản của hợp đồng
theo Điều 29 Bộ luật TTDS Đức18.
Đối với hợp đồng lao động và hợp
đồng tiêu dùng, pháp luật Đức không có quy
định mang tính riêng biệt. Do đó, sẽ dựa trên
Điều 29 Bộ luật TTDS Đức để xác định thẩm
quyền giống như các hợp đồng thông thường
là dựa trên căn cứ nơi thực hiện hợp đồng.
2.2.2 Thẩm quyền liên quan đến vụ
việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Pháp luật Đức cũng có quy định tương
tự như EU về căn cứ xác định thẩm quyền
cho các vụ việc bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng tại Điều 32 Bộ luật TTDS Đức.
Theo đó, đối với loại vụ việc này, toà án Đức
sẽ có thẩm quyền nếu vụ việc bồi thường đó
diễn ra trên lãnh thổ Đức. Điều này được
hiểu là căn cứ theo dấu hiệu hành vi gây
thiệt hại hoặc thiệt hại xảy ra tại Đức.
về thẩm quyền riêng biệt của toà án Pháp thì toà án nước ngoài dường như có thể có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp mà những tranh chấp này có sự kết nối với toà án được chỉ định và việc lựa chọn toà án đó không được rơi vào
trường hợp không hợp pháp. Do đó, thẩm quyền riêng biệt của toà án Pháp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại có
YTNN, trên thực tế, sẽ được xác định trong một số các trường hợp cụ thể sau: Có sự tham gia của Nhà nước Pháp,
các tranh chấp liên quan đến quyền về tài sản là bất động sản, thoả thuận lựa chọn toà án hợp pháp, các biện pháp
cưỡng chế thi hành phán quyết được thực hiện tại Pháp. Nguồn: Pierre Raoul, Duval & Marie Stoyanov, tlđd, tr. 20.
16 Xem mục 2.3.
17 Ban hành năm 2007 và đã được sửa đổi năm 2016.
Nguồn: https://www.gesetze-im-internet.de/bundesrecht/vvg_2008/gesamt.pdf, truy cập ngày 12/11/2106.
18 Michael Molitoris & Amelie Abt (2005), tlđd, tr. 10 -11.
60
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
19 Điều 40 Bộ luật TTDS Đức.
20 Điều 40 Bộ luật TTDS Đức.
21 German Supreme Court, Sep. 5, 2012 – VII ZR 25/12 = 2013 Internationales Handelsrecht (IHR), 35. Nguồn:
2&nr=61762, truy cập ngày 26/4/2016.
Do không có sự phân biệt căn cứ xác
định thẩm quyền giữa vụ việc dân sự,
thương mại trong nước với các vụ việc dân
sự, thương mại có YTNN nên vấn đề thẩm
quyền trong lĩnh vực ngoài hợp đồng còn
chịu sự điều chỉnh của một số nguồn luật
khác như Luật Giao thông đường bộ.
2.3 Thẩm quyền của toà án Đức theo
thoả thuận lựa chọn toà án của các bên
Điều 38 của Bộ luật TTDS Đức cũng
quy định cho phép các bên được thoả thuận
lựa chọn toà án. Quy định này được áp dụng
chung cho các tranh chấp nội địa lẫn tranh
chấp có YTNN. Theo đó, toà án Đức sẽ có
thẩm quyền nếu các bên có một thoả thuận
rõ ràng hoặc ngầm định về việc chọn toà án
Đức. Và thoả thuận đó phải đáp ứng được
các điều kiện cả về hình thức lẫn nội dung.
Cụ thể:
Về hình thức của thoả thuận chọn toà
án, Điều 38 Bộ luật TTDS Đức quy định
rằng thoả thuận chọn toà án có thể được ký
kết bằng văn bản hoặc bằng lời nói nhưng
nếu ký kết bằng lời nói thì phải có xác nhận
bằng văn bản.
Về nội dung của thoả thuận chọn toà
án, thoả thuận chọn toà án sẽ bị vô hiệu nếu
thoả thuận đó không liên quan đến một mối
quan hệ pháp lý nhất định và những tranh
chấp pháp lý phát sinh từ đó19.
Ngoài ra, Bộ luật TTDS Đức còn quy
định thoả thuận lựa chọn toà án của các bên
cũng không được chấp nhận nếu tranh chấp
pháp lý liên quan đến một yêu cầu phi tài
sản đã được giao cho toà án địa phương giải
quyết mà không cần phải xem xét giá trị của
vụ tranh chấp hoặc một thẩm quyền riêng
biệt đã được thiết lập đối với yêu cầu đó20.
Có một sự khác biệt trong thực tiễn
pháp lý của Đức so với pháp luật EU liên
quan đến vấn đề xác định loại thoả thuận lựa
chọn toà án. Mặc dù Bộ luật TTDS không
quy định cụ thể về loại thoả thuận, song thực
tiễn pháp lý của Đức cho thấy, Đức chỉ xem
thoả thuận lựa chọn toà án là thoả thuận
không độc quyền, và nó có thể bị xem xét
lại. Quan điểm này được thể hiện trong một
vụ án nổi tiếng vào năm 201221 về tranh
chấp hợp đồng đại lý giữa một công ty có
trụ sở tại Virginia (Hoa Kỳ) với một đại lý
tại Đức. Trong hợp đồng, các bên lựa chọn
Toà án Virginia giải quyết mọi tranh chấp
phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng và
bằng pháp luật của Tiểu bang Virginia. Khi
tranh chấp xảy ra, đại lý tại Đức tiến hành
khởi kiện ra toà án Đức theo nơi có tài sản
sở hữu (như quy định tại Điều 23 Bộ luật
TTDS). Toà án Đức đã chấp nhận điều này
và từ chối thừa nhận hiệu lực của thoả thuận
lựa chọn toà án độc quyền của các bên trước
đó với lý do việc các bên thoả thuận lựa
chọn toà án và luật áp dụng là của Tiểu bang
Virginia sẽ khiến cho phía đại lý của Đức
mất đi cơ hội được bồi thường theo các
nguyên tắc trong pháp luật Hoa Kỳ. Cơ sở
pháp lý để tiến hành từ chối là nó đã vi phạm
các Nguyên tắc cơ bản (Mandatory rules)
trong pháp luật của Đức và EU.
Quan điểm này nhận được khá nhiều
sự chỉ trích từ các học giả của Hoa Kỳ, Châu
Âu lẫn của Đức về việc toà án đã không tôn
trọng các cam kết của các bên dựa trên
nguyên tắc pacta sunt servanda. Theo đó,
thoả thuận lựa chọn toà án phải có giá trị
mang tính ràng buộc không chỉ đối với các
bên mà cần phải được cơ quan toà án tôn
trọng. Việc dựa trên quy định “trái với các
nguyên tắc cơ bản” trong pháp luật của Đức
được cho là quy định mang tính mơ hồ và
phi lý vì việc xác định cụ thể thế nào là “các
61
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
nguyên tắc cơ bản” vẫn mang tính chủ quan
của cơ quan toà án22.
3. Những nội dung Việt Nam có thể tham
khảo về thẩm quyền của toà án đối với vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài
3.1 Về thẩm quyền chung của toà án
Việt Nam đối với vụ việc dân sự có YTNN
Thẩm quyền chung của toà án Việt
Nam đối với vụ việc dân sự có YTNN được
quy định tại Điều 469 Bộ luật TTDS 2015.
Theo đó, thẩm quyền của toà án Việt Nam
đối với các vụ việc dân sự có YTNN được
xác định dựa trên các căn cứ sau: (i) Bị đơn
là cá nhân cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài
tại Việt Nam; (ii) Bị đơn là cơ quan, tổ chức
có trụ sở tại Việt Nam hoặc bị đơn là cơ
quan, tổ chức có chi nhánh, văn phòng đại
diện tại Việt Nam đối với các vụ việc liên
quan đến hoạt động của chi nhánh, văn
phòng đại diện của cơ quan, tổ chức đó tại
Việt Nam; (iii) Bị đơn có tài sản trên lãnh thổ
Việt Nam; (iv) Vụ việc ly hôn mà nguyên
đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam hoặc
các đương sự là người nước ngoài cư trú, làm
ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam; (v) Vụ
việc về quan hệ dân sự mà việc xác lập, thay
đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở Việt Nam,
đối tượng của quan hệ đó là tài sản trên lãnh
thổ Việt Nam hoặc công việc được thực hiện
trên lãnh thổ Việt Nam; (vi) Vụ việc về quan
hệ dân sự mà việc xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt
Nam nhưng có liên quan đến quyền và nghĩa
vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam
hoặc có trụ sở, nơi cư trú tại Việt Nam.
Bộ luật TTDS 2015 đã có những thay
đổi khá lớn so với Bộ luật TTDS 2004 (sửa
đổi năm 2011), phần nào khắc phục được
những hạn chế của Bộ luật TTDS 2004. Tuy
nhiên, Bộ luật TTDS 2015 vẫn còn tồn tại
khá nhiều vướng mắc cần phải được hướng
dẫn cụ thể cũng như cần phải được sửa đổi,
sửa đổi trong thời gian sắp tới nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền
trong quá trình áp dụng. Cụ thể:
Thứ nhất, Bộ luật TTDS 2015 nên đưa
ra nguyên tắc chung để xác định thẩm quyền
của toà án Việt Nam đối với vụ việc dân sự
có YTNN
Bộ luật TTDS 2015 đã đưa ra khá
nhiều căn cứ để xác định thẩm quyền của toà
án Việt Nam đối với vụ việc dân sự có
YTNN. Tuy nhiên, các căn cứ tại Điều 469
Bộ luật TTDS 2015 được quy định theo
phương pháp liệt kê mà không có bất kỳ
nguyên tắc nào được áp dụng ưu tiên (trừ
điểm d khoản 1 Điều 469 được áp dụng đối
với vụ việc ly hôn). Với cách quy định như
vậy, có thể hiểu khi một vụ việc dân sự có
YTNN phát sinh đưa đến toà án Việt Nam
giải quyết - bất kể vụ việc đó là vụ việc dân
sự, kinh doanh, thương mại hay lao động
(trừ vụ việc ly hôn) - thì đều có thể áp dụng
các căn cứ a, b, c, d, đ mà không có bất kỳ
một nguyên tắc chung hay nguyên tắc ngoại
lệ cụ thể nào đối với từng lĩnh vực đặc thù.
Trong khi đó, Bộ luật TTDS Đức đưa
ra nguyên tắc chung để xác định thẩm quyền
của toà án Đức là nguyên tắc “nơi cư trú”.
Sau đó, pháp luật đưa ra nguyên tắc ngoại
lệ, cụ thể áp dụng cho các trường hợp đặc
biệt như hợp đồng, bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng... Việc quy định này được
cho là khá hợp lý, phù hợp với cách thể hiện
của pháp luật thành văn tại đa số các nước
và Việt Nam: quy định các nguyên tắc chung
mang tính định hướng rồi quy định đến các
nội dung cụ thể, một khi các quan hệ mới
phát sinh, khi chưa có nguồn luật cụ thể điều
chỉnh, cơ quan áp dụng sẽ dựa vào nguyên
tắc chung để giải quyết.
Chúng tôi cho rằng, pháp luật Việt
Nam cần phải đưa ra nguyên tắc chung để
xác định thẩm quyền của toà án Việt Nam
đối với các vụ việc dân sự có YTNN là
nguyên tắc “nơi cư trú của bị đơn là cá nhân
22 Xem: “German Supreme Court Strikes Down Choice of Court Agreement,” NYU Law School, Transnational Notes,
Nguồn:
ment-prorogating-courts-of-virginia/, truy cập ngày 12/11/2016.
62
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
và nơi có trụ sở của bị đơn là pháp nhân”.
Bên cạnh nguyên tắc chung, pháp luật Việt
Nam sẽ xây dựng các nguyên tắc ngoại lệ,
cụ thể đối với trường hợp bị đơn không có
nơi cư trú tại Việt Nam như nguyên tắc nơi
có tài sản, các nguyên tắc áp dụng đối với
các lĩnh vực đặc thù. Theo đó, khi một vụ
việc dân sự có YTNN đưa đến toà án Việt
Nam giải quyết thì toà án sẽ dễ dàng xác
định thẩm quyền của toà án quốc gia mình
với nguyên tắc ưu tiên áp dụng các trường
hợp đặc thù, nếu không có quy định đặc thù
thì áp dụng nguyên tắc chung.
Thứ hai, về nguyên tắc nơi cư trú của
bị đơn quy định tại điểm a khoản 1 Điều 469
Bộ luật TTDS 2015
Điểm a khoản 1 Điều 469 Bộ luật
TTDS 2015 quy định toà án Việt Nam sẽ có
thẩm quyền nếu bị đơn là cá nhân cư trú, làm
ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam. Dưới góc
độ so sánh, quy định này khá tương đồng với
Bộ luật TTDS Đức, đều sử dụng nguyên tắc
“nơi cư trú của bị đơn” để làm căn cứ xác
định thẩm quyền của toà án quốc gia. Đây
cũng là nguyên tắc khá phổ biến được áp
dụng trong pháp luật các quốc gia trên thế
giới. Tuy nhiên, nếu so sánh với nguyên tắc
chung tại Điều 13 Bộ luật TTDS Đức thì
điểm a khoản 1 Điều 469 Bộ luật TTDS
2015 còn bộc lộ điểm hạn chế sau đây:
(i) Điểm a khoản 1 Điều 469 không chỉ
đưa ra tiêu chí “cư trú” mà còn “làm ăn, sinh
sống”. Vấn đề đặt ra là toà án Việt Nam sẽ
có thẩm quyền nếu bị đơn chỉ cần “cư trú”
hoặc “làm ăn” hoặc “sinh sống” tại Việt Nam
hay bị đơn cần phải thoả mãn cả ba tiêu chí
“cư trú, làm ăn và sinh sống” tại Việt Nam?
(ii) Tiêu chí “cư trú, làm ăn, sinh sống,
lâu dài” tại Việt Nam cần phải được xác định
như thế nào? Một cá nhân cư trú, sinh sống
thời gian bao lâu thì được xem là cư trú, sinh
sống lâu dài tại Việt Nam? Trong khi đó, tại
Luật Cư trú năm 2006 (sửa đổi 2013) và các
văn bản hướng dẫn Luật Cư trú23 chỉ quy
định về “nơi cư trú của công dân” là chỗ ở
hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh
sống. Nơi cư trú của công dân là nơi
“thường trú” hoặc nơi “tạm trú”24. Như vậy,
các quy định của Luật Cư trú và các văn bản
hướng dẫn chỉ đề cập đến các khái niệm
“nơi cư trú”,”nơi thường trú”, “nơi tạm trú”
mà không có quy định về nơi “cư trú, làm
ăn, sinh sống lâu dài”.
Vì thế chúng tôi cho rằng, giải pháp
trước mắt là Bộ luật TTDS 2015 cần phải có
hướng dẫn cụ thể về tiêu chí để xác định “cư
trú, làm ăn, sinh sống lâu dài” tại Việt Nam
nhằm tạo sự thống nhất cho việc áp dụng
pháp luật tại các toà án của quốc gia. Trong
tương lai, chúng tôi kiến nghị Bộ luật TTDS
chỉ nên đưa ra căn cứ “nơi cư trú của bị đơn”
để xác định thẩm quyền của toà án Việt
Nam. Theo đó, điểm a khoản 1 Điều 469 Bộ
luật TTDS 2015 nên được sửa đổi như sau:
“Bị đơn là cá nhân có nơi cư trú tại Việt
Nam”. Quy định này không chỉ được coi là
sự hài hoà với cách quy định trong pháp luật
Đức mà còn với đa số các quốc gia và vùng
lãnh thổ khác nhau trên thế giới hiện nay
như EU, Pháp, Bỉ, Trung Quốc, Thái Lan
Thứ ba, về nguyên tắc nơi có tài sản
của bị đơn quy định tại điểm c, khoản 1 Điều
469 Bộ luật TTDS 2015
Điểm c khoản 1 Điều 469 Bộ luật
TTDS 2015 quy định toà án Việt Nam sẽ có
thẩm quyền nếu bị đơn có tài sản trên lãnh
thổ Việt Nam. Dưới góc độ so sánh, quy
định này hoàn toàn giống với quy định tại
Điều 23 Bộ luật TTDS Đức, đều đưa ra căn
cứ xác định thẩm quyền của toà án quốc gia
dựa trên nguyên tắc “nơi có tài sản của bị
đơn” mà không có bất kỳ một yêu cầu nào
về việc phải có sự kết nối giữa tài sản đó của
bị đơn với tranh chấp, cũng như giá trị tối
23 Nghị định số 31/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú, Thông tư số 35/2014/TT-
BCA quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cư trú và Nghị định số 31/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú.
24 Điều 12 Luật Cư trú 2006 (sửa đổi 2013).
63
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
thiểu của tài sản nhằm đảm bảo khả năng thi
hành phán quyết của toà án25.
Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên,
mặc dù Điều 23 Bộ luật TTDS Đức không
có yêu cầu về việc phải có sự kết nối giữa
tài sản đó của bị đơn với tranh chấp, cũng
như giá trị tối thiểu của tài sản nhưng một
số án lệ tại toà án Đức đã đưa ra những
quyết định hoàn toàn trái ngược rằng, thẩm
quyền của toà án Đức cũng không nên được
thiết lập nếu tài sản của bị đơn không có yếu
tố kết nối với tranh chấp hoặc giá trị của tài
sản nhỏ hoặc giá trị của tài sản bị đơn thấp
hơn giá trị của tranh chấp.
Như vậy, toà án cần phải xem xét các
yếu tố kết nối giữa tài sản của bị đơn với
tranh chấp hoặc yếu tố giá trị tối thiểu của tài
sản khi áp dụng quy định tại điểm c khoản 1
Điều 469 Bộ luật TTDS 2015 trên thực tế.
Việc xem xét nhằm đảm bảo khả năng thực
thi các bản án của toà án trên thực tế.
3.2 Thẩm quyền riêng biệt của toà án
Việt Nam đối với vụ việc dân sự có YTNN
Tại Việt Nam, thẩm quyền riêng biệt
của toà án Việt Nam đối với vụ việc dân sự
có YTNN được xác định theo Điều 470 Bộ
luật TTDS 2015. Có thể nhận thấy, Điều 470
Bộ luật TTDS 2015 có nhiều điểm mới so
với Bộ luật TTDS 2004, chẳng hạn như: (i)
Bộ luật TTDS 2015 đã chính thức ghi nhận
quyền thoả thuận chọn toà án Việt Nam của
các bên tại điểm c khoản 1 Điều 470 Bộ luật
TTDS 2015 (ii) Bộ luật TTDS 2015 đã bỏ
căn cứ xác định thẩm quyền riêng biệt của
toà án Việt Nam đối với tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng vận chuyển (iii) Bộ luật TTDS
2015 đã bổ sung thêm trường hợp các yêu
cầu không có tranh chấp phát sinh từ những
quan hệ được quy định tại khoản 1 Điều 470
Bộ luật TTDS 2015 cũng thuộc thẩm quyền
riêng biệt của toà án Việt Nam.
Tuy nhiên, khi so sánh với pháp luật
Đức thì Điều 470 Bộ luật TTDS 2015 cũng
tồn tại một số hạn chế nhất định cần phải
được sửa đổi như sau:
Quy định thoả thuận lựa chọn toà án
Việt Nam tại điểm c khoản 1 Điều 469 Bộ
luật TTDS 2015
Điểm c khoản 1 Điều 470 Bộ luật
TTDS 2015 quy định toà án Việt Nam có
thẩm quyền riêng biệt đối với các vụ án dân
sự khác mà các bên được lựa chọn tòa án
Việt Nam để giải quyết theo pháp luật Việt
Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa
XHCN Việt Nam là thành viên và các bên
đồng ý lựa chọn tòa án Việt Nam. Đây là
quy định hoàn toàn mới trong Bộ luật TTDS
2015, là một thay đổi khá hợp lý và bắt kịp
xu thế phát triển của tư pháp quốc tế, đáp
ứng được nhu cầu của các bên đương sự bởi
một trong những nguyên tắc được ghi nhận
rộng rãi trong pháp luật dân sự các nước, đó
là nguyên tắc tự do thoả thuận của các bên.
Tuy nhiên, quy định này vẫn còn tồn tại một
số bất cập như sau:
Quy định này chưa xác định được
phạm vi các trường hợp mà các bên được
quyền thoả thuận chọn toà án Việt Nam. Các
bên được quyền thoả thuận chọn toà án đối
với những loại tranh chấp nào? Những tranh
chấp nào không được quyền thoả thuận chọn
toà án?
Quy định tại điểm c khoản 1 Điều 470
Bộ luật TTDS 2015 chỉ mới ghi nhận
nguyên tắc xác định thẩm quyền của toà án
Việt Nam, căn cứ vào thoả thuận lựa chọn
toà án của các bên mà không có quy định cụ
thể về điều kiện để thoả thuận chọn toà án
của các bên có hiệu lực pháp luật như các
điều kiện về hình thức của thoả thuận lựa
chọn toà án, chủ thể lựa chọn toà án, phạm
vi của quyền lựa chọn toà án Vấn đề đặt
ra là, nếu các bên có thoả thuận chọn toà án
Việt Nam thì căn cứ nào để xác định thoả
thuận chọn toà án của các bên là hợp pháp?
Ngoài ra, theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 472 Bộ luật TTDS 2015 thì
25 Michael Molitoris & Amelie Abt (2005), “Comparative study of “Residual Jurisdiction” in Civil and Commercial
Disputes in the EU National Report for Germany”, p.6.
26 Xem thêm: Phan Hoài Nam (2016), “Thẩm quyền của toà án Trung Quốc đối với các vụ việc dân sự có YTNN - Một
số kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 07/2016; Phan Hoài Nam (2016), “Công
ước Hague năm 2005 về thỏa thuận lựa chọn tòa án và khả năng gia nhập của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, Số 17/2016.
64
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
toà án Việt Nam sẽ phải trả lại đơn kiện nếu
các bên có thoả thuận chọn toà án nước
ngoài trừ trường hợp thỏa thuận lựa chọn tòa
án nước ngoài bị vô hiệu hoặc không thể
thực hiện được. Đây cũng là một căn cứ để
toà án Việt Nam xác định mình có thẩm
quyền hay không đối với vụ việc dân sự có
YTNN. Tuy nhiên, nếu dựa trên quy định
này thì toà án Việt Nam cần phải xác định
thoả thuận chọn toà án nước ngoài có vô
hiệu hoặc không thể thực hiện được hay
không. Đối với việc xác định này, hiện pháp
luật Việt Nam không có bất kỳ quy định nào
để xác định một thoả thuận chọn toà án bị
vô hiệu hoặc không thể thực hiện được.
Dưới góc độ so sánh, Bộ luật TTDS
Đức không chỉ quy định thẩm quyền của toà
án Đức dựa trên căn cứ thoả thuận chọn toà
án của các bên mà còn quy định các điều
kiện để thoả thuận chọn toà án của các bên
có hiệu lực pháp luật bao gồm điều kiện về
hình thức của thoả thuận chọn toà án, về nội
dung của thoả thuận chọn toà án. Bên cạnh
đó, Bộ luật TTDS Đức còn quy định các
trường hợp thoả thuận chọn toà án không
được chấp nhận.
Từ những phân tích trên, chúng tôi
cho rằng, trước tiên cần phải ban hành Nghị
quyết hướng dẫn các quy định trên của Điều
470 Bộ luật TTDS 2015. Cụ thể, cần phải
hướng dẫn các vấn đề sau đây: (i) phạm vi
các vụ việc được áp dụng theo quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 470 Bộ luật TTDS
2015 (ii) quy định các điều kiện để thoả
thuận chọn toà án của các bên có hiệu lực
pháp luật26.
4. Kết luận
Trên cơ sở phân tích những bất cập của
Bộ luật TTDS Việt Nam năm 2015, đồng thời
học hỏi kinh nghiệm từ pháp luật Đức điều
chỉnh về vấn đề thẩm quyền của toà án quốc
gia đối với vụ việc dân sự có YTNN, chúng
tôi kiến nghị cần phải có những điều chỉnh
hoặc làm rõ hơn về một số quy định trong
pháp luật Việt Nam hiện hành, nhằm đảm bảo
được tính hiệu quả của nguồn luật pháp luật
thực định, đồng thời đáp ứng được yêu cầu
của quá trình hội nhập quốc tế với xu hướng
hài hoà hoá pháp luật trong các lĩnh vực, đặc
biệt là lĩnh vực tư pháp quốc tế:
(i) Bộ luật TTDS 2015 cần đưa ra
nguyên tắc chung để xác định thẩm quyền
của toà án Việt Nam đối với các vụ việc dân
sự có YTNN là nguyên tắc “nơi cư trú của
bị đơn là cá nhân và nơi có trụ sở của bị đơn
là pháp nhân”. Bên cạnh đó, Bộ luật TTDS
2015 sẽ xây dựng các nguyên tắc ngoại lệ
đối với trường hợp bị đơn không có nơi cư
trú tại Việt Nam hoặc nguyên tắc áp dụng
đối với các lĩnh vực đặc thù;
(ii) Bộ luật TTDS 2015 cần có văn
bản hướng dẫn cụ thể các quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 469 Bộ luật TTDS 2015 về
tiêu chí xác định “nơi cư trú, làm ăn, sinh
sống lâu dài tại Việt Nam”;
(iii) Về thẩm quyền của toà án Việt
Nam trong trường hợp các bên thoả thuận
chọn toà án Việt Nam, pháp luật Việt Nam
cần có hướng dẫn cụ thể về hiệu lực của thoả
thuận chọn toà án bao gồm các quy định về
chủ thể thoả thuận chọn toà án, hình thức,
nội dung của thoả thuận lựa chọn toà án
(iv) Dưới góc độ thực tiễn, nhằm đảm
bảo khả năng thi hành các bản án của toà án
Việt Nam chúng tôi đề xuất: khi toà án Việt
Nam xem xét thẩm quyền đối với vụ việc
dân sự có YTNN cũng cần phải xem xét các
yếu tố kết nối giữa tài sản của bị đơn với
tranh chấp hoặc yếu tố giá trị tối thiểu của
tài sản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tham_quyen_cua_toa_an_duc_trong_viec_giai_quyet_cac_vu_viec.pdf