Dựa vào phân tích trên, về mặt thủ
tục, để sử dụng chức năng tư vấn pháp lý
của ITLOS, cần phải có một điều ước quốc
tế có nội dung liên quan đến mục đích của
UNCLOS và điều ước quốc tế này công
nhận thẩm quyền tư vấn pháp lý của ITLOS,
đồng thời chỉ định cơ quan đại diện đệ trình
các câu hỏi pháp lý lên trước Toà án. Hiện
nay, các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN)42 và Trung Quốc
đang trong quá trình soạn thảo Bộ Quy tắc
ứng xử ở Biển Đông (gọi tắt là COC). Vì
vậy, các bên cần cân nhắc một số điểm quan
trọng sau đây:
(1) Tính chất pháp lý của COC: COC
cần thoả mãn các điều kiện theo luật quốc tế
để được công nhận là một điều ước quốc tế
và mang tính ràng buộc về mặt pháp lý;
(2) Nội dung điều chỉnh của COC cần
phải phù hợp với mục đích của UNCLOS:
điều này đã được thể hiện khá rõ nét trong
các tuyên bố của các quốc gia tham gia quá
trình soạn thảo. Cụ thể vào ngày 6/8/2017,
Ngoại trưởng Trung Quốc và ASEAN đã
thông qua dự thảo khung về COC. Theo
nhận định của các bên liên quan, dự thảo
khung này hy vọng sẽ là “một văn kiện quan
trọng vì có thể cho rằng nó đại diện cho sự
đồng thuận và, quan trọng hơn, cho một cam
kết để tạo tiến triển cho vấn đề kéo dài từ
lâu này: vấn đề thông qua một văn bản pháp
lý điều chỉnh các hành vi của các quốc gia
tại biển Đông"43 và đem lại sự ổn định cho
khu vực, làm giảm căng thẳng trong tranh
chấp ở Biển Đông, thể hiện một động lực
tích cực.
(3) Công nhận thẩm quyền tư vấn
pháp lý của ITLOS: trong các điều khoản
của COC cần phải ghi nhận một cách rõ
ràng việc công nhận thẩm quyền của ITLOS
trong việc đưa các ý kiến tư vấn pháp lý cho
các quốc gia này. Bên cạnh đó, cần phải cử
một cơ quan đại diện để thực hiện các thủ
tục cần thiết theo quy định của Nguyên tắc
làm việc của ITLOS, cụ thể là theo quy định
của các điều từ 130 đến 138 của bộ Nguyên
tắc này
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 199 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thẩm quyền tư vấn pháp lý của các cơ quan tài phán quốc tế và sự lựa chọn cho vấn đề đảo nhân tạo tại biển Đông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phạm Ngọc Minh Trang*
* ThS. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.
THẨM QUYỀN TƯ VẤN PHÁP LÝ CỦA CÁC CƠ QUAN TÀI PHÁN QUỐC TẾ
VÀ SỰ LỰA CHỌN CHO VẤN ĐỀ ĐẢO NHÂN TẠO TẠI BIỂN ĐÔNG1
1 Tác giả xin chân thành cảm ơn những đóng góp của các bạn sinh viên Nguyễn Đức Hải, Lê Ngọc Khánh Ngân và Chu
Minh Phương của Khoa Quan hệ quốc tế trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp. HCM cho bài viết này.
1. Khái quát về chức năng tư vấn pháp lý
của Toà án quốc tế
Chức năng tư vấn pháp lý của Toà án
quốc tế đã xuất hiện từ sau chiến tranh thế giới
thứ nhất và độ phổ biến của nó cũng tăng dần
lên theo sự phát triển của luật pháp quốc tế.
Tóm tắt:
Việc xây dựng đảo nhân tạo của các quốc gia tuy không mới trong
thực tiễn cũng như trong luật pháp quốc tế, nhưng các vấn đề pháp
lý xoay quanh hoạt động này vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng
trong hệ thống luật biển nói riêng và luật quốc tế nói chung. Bên
cạnh đó, việc Trung Quốc tiến hành xây dựng và trang bị các thiết
bị quân sự trên các đảo nhân tạo của mình tại biển Đông phát sinh
thêm nhiều câu hỏi pháp lý cần phải làm rõ cho hành động này.
Trước tình hình đó, cần cân nhắc việc vận dụng thẩm quyền tư vấn
pháp lý của Toà án quốc tế, mà cụ thể ở đây là Toà án quốc tế về
Luật biển (ITLOS), để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến
các hoạt động xây dựng đảo nhân tạo.
Abstract
The development of artificial islands by the nations is not a new
event in practice as well as in the international laws, but the legal
rationale concerned to such activity are still vague and unclear
in the law of the sea in particular and the international laws in
general. In addition, China's construction of and installation of
the military equipment on its artificial islands in the South China
Sea raises more legal questions that need to be clarified for such
action. Under this situation, it is needed to consider the use of the
legal advisory jurisdiction of the International Court of Justice,
namely the International Tribunal for the Law of the Sea (ITLOS),
to deal with relevant legal issues to the construction activities of
the artificial islands.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: đảo nhân tạo, biển Đông,
thẩm quyền tư vấn pháp lý, toà án
quốc tế
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 06/02/2018
Biên tập : 02/03/2018
Duyệt bài : 02/04/2018
Article Infomation:
Keywords: artificial islands; the South
China Sea; legal advisory jurisdiction;
International Court of Justice
Article History:
Received : 06 Feb. 2018
Edited : 02 Mar. 2018
Approved : 02 Apr. 2018
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 23(375) T12/2018
Chức năng này đã được Liên hiệp quốc
(LHQ) xác định ngay từ lúc thành lập Toà
án thường trực Công lý quốc tế (Permanent
Court of International Justice, PCIJ). Điều
14 Hiến chương LHQ cho phép Toà PCIJ
trả lời các tranh chấp hoặc các câu hỏi pháp
lý được đệ trình lên trước Toà bởi Đại hội
đồng hoặc Hội đồng của tổ chức này2. Theo
thời gian, với sự phát triển của luật quốc tế
và thực tiễn hoạt động của các Toà án quốc
tế, chức năng này dần trở nên phổ biến. Ví
dụ, Điều 96 Hiến chương LHQ trao thẩm
quyền tư vấn pháp lý cho Toà án Công lý
quốc tế (International Court of Justice, ICJ),
hay Toà án Công lý của Liên minh châu Âu
(European Court of Justice, ECJ) được trao
chức năng này thông qua Điều 218 Hiệp ước
Lisbon. Đặc biệt, Công ước của LHQ về Luật
biển năm 1982 (United Nations Convention
on the Law of the Sea, UNCLOS) cho phép
Viện Giải quyết tranh chấp liên quan đến
Đáy biển (Seabed Disputes Chamber, SDC)
đưa ra ý kiến tư vấn đối với các câu hỏi pháp
lý do Cơ quan quốc tế quản lý đáy đại dương
(International Seabed Authority, ISA) đệ
trình. Đồng thời, trên cơ sở giải thích một
số quy định của UNCLOS, Toà án quốc tế
về Luật biển (International Tribunal for Law
2 Điều 14, Hiến chương Hội Quốc liên: “Hội đồng đề xuất thành lập và đưa ra cho các Thành viên của Hội để thông qua
kế hoạch thành lập một Toà án Thường trực Công lý Quốc tế. Toà án có thẩm quyền nghe và quyết định tất cả các tranh
chấp mang tính chất quốc tế mà thành viên đệ trình đến Toà. Toà án cũng có thể đưa ra ý kiến pháp lý đối với các tranh
chấp hoặc câu hỏi trình lên Toà bởi Hội đồng hoặc bởi Đại hội đồng”.
3 Thẩm quyền đưa ra các lời khuyên pháp lý của SDC được nêu rõ tại Điều 159 và Điều 191 trong UNCLOS. Thẩm
quyền tư vấn của ITLOS có nhiều tranh cãi sẽ được làm rõ trong phần sau của bài viết.
4 García, Miguel, Thẩm quyền giải quyết tranh chấp và tư vấn pháp lý của Toà án quốc tế về Luật biển, (The Contentious
and Advisory Jurisdiction of the International Tribunal for Law of the Sea), Nxb. Brill Nijhoff, Leiden, năm 2015, tr. 288.
5 Xem thêm đề xuất của Tổng Thư ký Boutros-Ghali (1992) rằng, Tổng Thư ký cần được trao quyền lực yêu cầu tư vấn
khi các bên của một tranh chấp mong muốn: Kế hoạch vì Hòa bình (Agenda for Peace).
6 Vụ kiện lãnh thổ và biên giới biển giữa Cameroon và Nigeria, Toà án Công lý quốc tế (ICJ), năm 2002, xem thêm tại
truy cập ngày 16/1/2018.
7 Tafsir Malick Ndiaye (2010), Chức năng Tư vấn của Tòa án Quốc tế về Luật biển (The Advisory Function of the
International Tribunal for the Law of the Sea), Tạp chí Chinese Journal of International Law, quyển 9, số 3, tr. 566.
of the Sea, ITLOS) cũng cho rằng, mình có
thẩm quyền cho ý kiến tư vấn pháp lý3.
Chức năng tư vấn pháp lý của Toà án
quốc tế có thể được hiểu là việc Toà án đưa
ra các ý kiến và câu trả lời đối với các câu
hỏi pháp lý được đệ trình lên Tòa án và các
ý kiến tư vấn này của Toà án không mang
tính chất ràng buộc về mặt pháp lý4. Mặc
dù không trực tiếp giải quyết các tranh chấp
quốc tế, nhưng trên thực tế, ý kiến tư vấn
vẫn có ý nghĩa trong việc gián tiếp hỗ trợ
giải quyết tranh chấp quốc tế5. Bên cạnh đó,
ý kiến tư vấn còn có ưu điểm là ít tốn kém về
chi phí, thời gian và thủ tục. Thông thường,
thời gian tiêu tốn của các Toà án quốc tế
đối với các tranh chấp song phương giữa
các quốc gia là từ 3 đến 4 năm, thậm chí có
trường hợp Toà án phải mất 9 năm để giải
quyết tranh chấp này6. Đối với việc đưa ra
các ý kiến tư vấn pháp lý, các Toà án quốc
tế thường chỉ mất từ 1 đến 2 năm. Đặc biệt,
nó còn mang tính chất thiện chí và hoà bình
hơn vì nó không đi kèm theo rủi ro thua kiện
so với việc giải quyết tranh chấp trực tiếp
qua con đường tố tụng7. Hơn nữa, ý kiến tư
vấn có thể là bước đệm chuẩn bị cho việc
tố tụng vì các tuyên bố chính thức của Toà
án (dictum) có thể là cơ sở cho những lập
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 23(375) T12/2018
luận cho những thủ tục tố tụng tiếp theo8.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với những
tranh chấp có ít hoặc không có án lệ như
tranh chấp về đảo nhân tạo.
Hiện nay có các cơ quan sau có chức
năng cho ý kiến tư vấn đối với các câu hỏi
pháp lý liên quan đến luật biển quốc tế: Tòa
Công lý Quốc tế (ICJ)9, Viện Giải quyết các
tranh chấp liên quan đến Đáy biển (SDC)10
và Toà án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS)11.
Điều 191 UNCLOS quy định SDC có quyền
cho ý kiến tư vấn đối với các câu hỏi pháp
lý do ISA đệ trình liên quan đến hoạt động
của Cơ quan này. Do vậy, về nguyên tắc,
SDC không có thẩm quyền cho ý kiến tư
vấn đối với vấn đề xây dựng đảo nhân tạo
trừ khi việc xây dựng này gây ảnh hưởng
đến hoạt động của ISA và Đại hội đồng hoặc
Hội đồng của Cơ quan này yêu cầu SDC cho
ý kiến tư vấn12. Trong bối cảnh đó, nếu các
quốc gia muốn tìm kiếm ý kiến tư vấn của
các cơ quan tài phán quốc tế về vấn đề xây
dựng đảo nhân tạo, các nước này nên yêu
cầu ICJ hoặc ITLOS. Giữa hai chọn lựa này,
ITLOS là sự lựa chọn khả thi hơn bởi các lý
do sau:
Thứ nhất, mục đích và chuyên môn
8 Điều 38 Quy chế Toà án Công lý quốc tế quy định nguồn của luật pháp quốc tế bao gồm cả án lệ của các Toà án quốc
tế. Theo quy định tại Điều 38 của Quy chế ICJ, quyết định của các cơ quan tài phán, bao gồm cả cơ quan tài phán quốc
tế và các tòa án trong nước đều có thể được sử dụng như một loại nguồn bổ trợ cho việc giải thích và nhận diện các quy
định của luật pháp quốc tế. Việc các cơ quan tài phán quốc tế đưa ra các ý kiến tư vấn cũng là một hình thức giải thích
và làm sáng tỏ một số vấn đề pháp lý, đặc biệt là các vấn đề pháp lý mới như tính hợp pháp và hệ quả của việc xây dựng
các đảo nhân tạo. Các giải thích này sẽ giúp các quốc gia có cơ sở để tính toán việc sử dụng các thủ tục pháp lý quốc tế
để giải quyết các tranh chấp có liên quan.
9 Quy chế Tòa án ICJ (Statute of the Court), Điều 65.
10 UNCLOS, Điều 191.
11 Bộ Thủ tục hoạt động của ITLOS, Điều 138.
12 Như trên, Điều 191.
13 Quy chế Tòa án ICJ (Statute of the Court), Điều 36, khoản 1.
14 UNCLOS, Phụ lục VI, Điều 21.
15 Điều 96 Hiến chương LHQ quy định rằng, ICJ chỉ có chức năng tư vấn nếu như Đại hội đồng hoặc Hội đồng Bảo an
LHQ hoặc tất cả các cơ quan khác của LHQ và các tổ chức chuyên môn mà đã được Đại hội đồng cho phép yêu cầu.
của ITLOS liên quan mật thiết đến Luật biển
quốc tế hơn ICJ. Cụ thể, ICJ có thẩm quyền
giải quyết tất cả tranh chấp và vấn đề được
đệ trình13, trong khi đó ITLOS là Tòa án
quốc tế chuyên biệt được thành lập để giải
quyết “tất cả các vụ tranh chấp và tất cả các
yêu cầu được đưa ra Toà án theo đúng Công
ước (Luật biển)”14.
Thứ hai, quy trình yêu cầu tư vấn của
ITLOS trong một chừng mực nào đó có thể
nói là đơn giản hơn thủ tục của ICJ. Theo
quy định tại Điều 96 Hiến chương LHQ, ICJ
chỉ có thẩm quyền cho ý kiến tư vấn đối với
các câu hỏi pháp lý của Đại hội đồng hoặc
Hội đồng bảo an LHQ hoặc các câu hỏi pháp
lý của các tổ chức chuyên môn khác của
LHQ liên quan đến hoạt động của tổ chức
này và trên cơ sở chấp thuận của Đại hội
đồng15. Theo quy định này, việc xin ý kiến
tư vấn của ICJ về vấn đề xây dựng đảo nhân
tạo sẽ phải được đưa ra thảo luận và thông
qua tại Đại hội đồng hoặc Hội đồng bảo an
LHQ. Trong trường hợp đưa vấn đề này ra
Hội đồng bảo an, việc thông qua nghị quyết
về việc yêu cầu ICJ cho ý kiến tư vấn sẽ phải
thực hiện theo quy định của Điều 27 Hiến
chương LHQ. Theo đó, trước hết Hội đồng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 23(375) T12/2018
bảo an sẽ xem xét đây là “vấn đề thủ tục”
hay là “vấn đề khác” theo quy định tại Điều
27. Việc đưa ra quyết định về vấn đề này sẽ
được thông qua nếu không nước thành viên
thường trực nào của Hội đồng bảo an sử
dụng quyền phủ quyết. Trung Quốc là một
Ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an
nên nhiều khả năng Trung Quốc sẽ sử dụng
quyền phủ quyết đối với tất cả các đề xuất
coi việc xin ý kiến tư vấn của ICJ về vấn đề
đảo nhân tạo tại biển Đông là “vấn đề thủ
tục”. Nếu vấn đề này được coi là “vấn đề
khác”, việc bỏ phiếu sẽ tuân thủ quy định tại
Điều 27(3) và nhiều khả năng Trung Quốc sẽ
tiếp tục sử dụng quyền phủ quyết để không
thông qua yêu cầu xin ý kiến tư vấn của
ICJ. Do Trung Quốc có thể sử dụng “quyền
phủ quyết kép”16 việc xin ý kiến tư vấn của
ICJ chỉ có thể đưa ra Đại hội đồng LHQ và
phải được đa số các nước thành viên Đại
hội đồng tham dự cuộc họp bỏ phiếu thông
qua17. Tuy nhiên, việc vận động các thành
viên Đại hội đồng ủng hộ một nghị quyết về
việc xin ý kiến tư vấn của ICJ trong vấn đề
xây dựng đảo nhân tạo không dễ dàng, đòi
hỏi các quốc gia đề xuất phải tìm cách gắn
vấn đề này với lợi ích của phần lớn các nước
16 Kolcher, Hans (1991), Thủ tục bỏ phiếu trong Hội đồng bảo an LHQ - xem xét sự mâu thuẫn về các quy chuẩn trong
Hiến chương LHQ và các hệ quả của nó đối với quan hệ quốc tế (the Voting Procedurein the United Nations Security
Council - Examining aNormative Contradiction in the UN Charter and itsConsequences on International Relations),
xem thêm qua đường dẫn truy cập ngày
25/01/2018.
17 Rosenne, Shabtai (2006), Luật và thực hành của Toà án quốc tế 1920-2005, Nxb. Martinus Nijhoff (Leiden/Boston), số
1 - Toà án và LHQ, tr. 294-297.
18 Điều 138.1 Quy chế ITLOS quy định quyền yêu cầu ITLOS tư vấn dành cho các cơ quan được ủy quyền yêu cầu tư vấn
bởi một điều ước quốc tế có mục đích liên quan đến mục đích của UNCLOS và cho phép các bên ký kết sử dụng chức
năng tư vấn của ITLOS
19 Điều 138.2 Quy chế ITLOS: "Một yêu cầu về một ý kiến tư vấn phải được chuyển đến Toà án bởi bất cứ "đại diện"
(body) được uỷ quyền bởi hoặc căn cứ theo hiệp ước [nêu ra tại Điều 138.1] để đệ trình lên trước Toà".
20 ITLOS, Các Vụ việc đang được giải quyết (Pending Cases), truy cập ngày
8/10/2017.
21 ITLOS, Danh sách và Trạng thái vụ việc đang được giải quyết (List of pending cases and current status), https://www.
itlos.org/cases/docket/, truy cập ngày 8/10/2017.
thành viên Đại hội đồng LHQ.
Trong khi đó, ITLOS có thể cho ý kiến
tư vấn đối với một câu hỏi pháp lý được các
quốc gia thống nhất đưa lên Tòa án trên cơ
sở một điều ước quốc tế nội dung phù hợp
với mục đích của UNCLOS18. Trong điều
ước quốc tế này, các quốc gia thành viên cần
nêu rõ việc đề nghị ITLOS cho ý kiến tư vấn
và cử một "đại diện" để đệ trình yêu cầu lên
Toà án19.
Điều này rất có lợi cho việc yêu cầu
tư vấn từ ITLOS về các vấn đề pháp lý xung
quanh đảo nhân tạo tại biển Đông. Các quốc
gia trực tiếp liên quan đến vấn đề này có thể
tự ký kết các Hiệp ước trao thẩm quyền cho
ITLOS. Bên cạnh đó, các quốc gia Đông
Nam Á xung quanh khu vực biển Đông có
thể tận dụng tổ chức ASEAN để yêu cầu
ITLOS thực hiện chức năng này.
Cuối cùng, thời gian giải quyết yêu
cầu tư vấn của ITLOS có thể ngắn hơn so
với ICJ vì ICJ có thẩm quyền rộng hơn
nên tiếp nhận số lượng vụ việc nhiều hơn
ITLOS. Hiện nay, ICJ đang giải quyết 19 vụ
việc20 còn ITLOS chỉ đang giải quyết một
vụ việc21.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 23(375) T12/2018
2. Nguồn của thẩm quyền tư vấn pháp lý
Thẩm quyền tư vấn pháp lý của
ITLOS đã từng là một vấn đề gây tranh cãi
do có nhiều cách diễn giải khác nhau về
các điều khoản trong UNCLOS về thẩm
quyền của các cơ quan tài phán trong Công
ước. Trước khi có một cách giải thích cụ
thể và chính thức từ một cơ quan có thẩm
quyền, việc diễn giải các điều khoản trong
UNCLOS về thẩm quyền này của ITLOS có
hai luồng ý kiến trái ngược nhau.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, thẩm quyền
của ITLOS chỉ gói gọn trong việc giải quyết
các tranh chấp mang tính chất tố tụng. Việc
đưa ra các tư vấn pháp lý, tương tự như chức
năng của ICJ được thành lập bởi LHQ hay
ECJ của Liên minh châu Âu, được cho là
một hành động ultra vires (hành động vượt
quá thẩm quyền) của ITLOS. Lập luận
chính của nhận định này chủ yếu dựa vào
việc không có một điều khoản nào trong
UNCLOS quy định cụ thể về thẩm quyền tư
vấn pháp lý của ITLOS; Công ước chỉ trao
thẩm quyền này cho Viện Giải quyết tranh
chấp liên quan đến Đáy biển (SDC).
Ý kiến thứ hai, trong đó có ý kiến của
GS. Phillipe Gautier, Lục sự tại ITLOS, cho
rằng, ITLOS có thể mở rộng thẩm quyền
của mình và cho ý kiến tư vấn pháp lý vì
UNCLOS không có điều khoản nào cấm
Tòa án thực hiện chức năng này22.
Thẩm quyền của ITLOS được quy
định tại một số điều của UNCLOS sau đây:
22 Diễn giải Nguyên tắc làm việc của Tòa án Quốc tế về Luật Biển (The Rules of International Tribunal on the Law of the
Sea: A Commentary), chỉnh sửa bởi P. Chandrasekhara Rao và Philippe Gautier, Nxb. Martinus Nijhoff (2006), tr. 393.
23 Án lệ: Yêu cầu ITLOS tư vấn của Uỷ ban Thủy sản Tiểu vùng, ITLOS, 2015. Tham khảo thêm tại https://www.itlos.
org/en/cases/list-of-cases/case-no-21/
24 Như trên, đoạn 52
- Điều 21 Phụ lục VI: “Toà án có thẩm
quyền đối với tất cả các vụ tranh chấp và tất
cả các yêu cầu được đưa ra Toà theo đúng
Công ước, và đối với tất cả các trường hợp
được trù định rõ trong mọi thoả thuận khác,
giao thẩm quyền cho Toà án”.
- Điều 288 “Một Tòa án đã nêu ở Điều
287 (trong đó có ITLOS) có thẩm quyền xét
xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc
giải thích hay áp dụng Công ước đã được
đưa ra cho mình theo đúng phần này”.
Dựa vào quy định nêu trên, đặc biệt
là từ "tranh chấp" (dispute), một số ý kiến
cho rằng, thẩm quyền của ITLOS chỉ giới
hạn trong việc giải quyết các tranh tụng giữa
các chủ thể của mình (đa phần là các quốc
gia), và thẩm quyền đưa ra các ý kiến tư vấn
pháp lý của ITLOS không được quy định
trong UNCLOS. Tuy nhiên, nhận định này
đã bị bác bỏ trong Án lệ: Yêu cầu ITLOS tư
vấn của Uỷ ban Thủy sản Tiểu vùng23. Ngoài
việc cho rằng không có một điều khoản nào
trong UNCLOS loại bỏ thẩm quyền tư vấn
pháp lý của ITLOS, Toà án còn đưa ra các
lập luận sau:
Thứ nhất, Toà cho rằng Điều 288 của
UNCLOS và Điều 21 của Phụ lục VI trong
UNCLOS có giá trị pháp lý tương đương
nhau24. Cho nên, không thể lập luận rằng
thẩm quyền của ITLOS chỉ được nêu trong
Điều 288, hay chỉ dựa vào điều này mà kết
luận rằng ITLOS chỉ có thẩm quyền duy
nhất trong việc giải quyết các tranh tụng
giữa các bên tranh chấp. Điều 21 Phụ lục VI
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 23(375) T12/2018
có thể xem là đã mở rộng thêm chức năng
của ITLOS.
Thứ hai, trong án lệ yêu cầu ITLOS
tư vấn của Uỷ ban Thủy sản Tiểu vùng, Tòa
cũng nhận thấy cụm từ “các trường hợp”
trong Điều 21 Phụ lục VI ám chỉ thẩm quyền
của ITLOS không những đối với các tranh
tụng pháp lý mà còn đối với "các trường
hợp khác" trong đó có những yêu cầu tư vấn
pháp lý. Làm rõ hơn lập luận này, ITLOS
giải thích thêm rằng nếu như Điều 21 chỉ
đưa ra thẩm quyền đối với các tranh chấp
kiện tụng thì cụm từ “các trường hợp” đã
được thay thế bằng “các tranh chấp”25. Như
vậy, Điều 21 Phụ lục VI có thể được hiểu
rằng ITLOS có thẩm quyền đưa ra ý kiến tư
vấn nếu như thẩm quyền tư vấn này được
“trù định rõ ràng trong thỏa thuận khác”.
Tiếp theo đó, Điều 138(1) Quy chế
của Tòa giúp làm rõ điều kiện về “thỏa
thuận khác” trong Điều 21 Phụ lục VI và
cũng chính là điều khoản quy định những
điều kiện khác cần thỏa mãn để ITLOS có
thẩm quyền đưa ra ý kiến tư vấn26.
Điều 138(1) Quy chế ITLOS quy
định: “Tòa án có thể đưa ra ý kiến tư vấn đối
với một câu hỏi pháp lý nếu như một điều
ước quốc tế liên quan đến các mục đích của
Công ước quy định cụ thể việc cho phép đệ
trình lên Tòa án một yêu cầu tư vấn đối với
câu hỏi đó”.
25 Như trên, đoạn 56.
26 Điều 138(1) Quy chế của ITLOS
27 Yoshifumi Tanaka (2015), Luật Biển quốc tế (The International law of the sea), Nxb. Đại học Cambridge, tr. 417; Ki-
Jun You (2008), Chức năng tư vấn của Tòa án Quốc tế về Luật Biển: Xét lại Điều 138 của Quy chế Tòa án (Advisory
Opinions of the International Tribunal for the Law of the Sea: Article 138 of the Rules of the Tribunal, Revisited), Tạp
chí Ocean Development & International Law, quyển 39, số 4, tr. 365.
28 Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước Quốc tế, Điều 2, khoản 1, điểm a.
29 Như trên.
Như vậy, thẩm quyền tư vấn pháp lý
của ITLOS đầu tiên phải được nêu rõ trong
một điều ước quốc tế giữa chủ thể của luật
quốc tế.
Thứ nhất, điều ước quốc tế được nhắc
đến trong Điều 138 phải phù hợp với Công
ước Viên 1969 về Luật Điều ước Quốc tế27.
Theo đó, một điều ước quốc tế là “một thỏa
thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa
các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều
chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện
duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện
có quan hệ với nhau và với bất kể tên gọi
riêng của nó là gì”28. Từ điều khoản này, có
thể thấy rằng, một văn bản cần thoả mãn bốn
điều kiện cơ bản sau để có thể được xem là
một điều ước quốc tế, là: đây phải là một
thoả thuận quốc tế, được ký kết và thông qua
giữa các quốc gia, thể hiện dưới hình thức
văn bản và phải được điều chỉnh bởi luật
pháp quốc tế. Trong đó, yếu tố quan trọng
nhất là được luật pháp quốc tế điều chỉnh, do
đây là yếu tố thể hiện quyền và nghĩa vụ của
các bên phát sinh do ký kết điều ước quốc tế
này. Ngoài ra, trong vụ kiện Biển Đông giữa
Philippines và Trung Quốc, Toà án Trọng
tài Phụ lục VII đưa ra những nhận định về
"điều ước quốc tế" rằng điều ước quốc tế có
thể được thực hiện dưới nhiều dạng và có
nhiều tên gọi khác nhau29, nó có thể có tên
là một Công ước, Hiệp ước hay một Bản ghi
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 23(375) T12/2018
nhớ. Trong vụ kiện về tranh chấp lãnh thổ và
phân định biển giữa Qatar và Bahrain, ICJ
đã kết luận rằng, ngay cả Biên bản cuộc họp
năm 1990 được ký giữa Bộ trưởng Ngoại
giao của hai nước này cũng được coi là một
điều ước quốc tế30.
Thứ hai, điều ước quốc tế này cần
phải có nội dung phù hợp với mục đích của
UNCLOS. Nhiệm vụ này sau đó đã được
truyền tải trong Lời nói đầu của Công ước:
Công ước với sự quan tâm đúng mức đến
chủ quyền của tất cả các quốc gia, thiết lập
được một trật tự pháp lý trên các vùng biển
và đại dương giúp cho việc sử dụng công
bằng và hiệu quả những tài nguyên, việc bảo
tồn những nguồn lợi sinh vật của các biển và
các đại dương, việc nghiên cứu, bảo vệ và
gìn giữ môi trường biển dễ dàng hơn. Việc
thực hiện các mục tiêu này sẽ góp phần thiết
lập nên một trật tự kinh tế quốc tế đúng đắn
và công bằng, trong đó có tính đến các lợi
ích và nhu cầu của toàn thể loài người và đặc
biệt là các lợi ích và nhu cầu riêng của các
nước đang phát triển, dù có biển hay không
có biển.
Trên thực tế, chúng ta có thể thấy mục
đích và phạm vi của UNCLOS được thể
hiện rõ ràng hơn thông qua nội dung chính
của Công ước này. Những điều khoản của
UNCLOS nhằm điều chỉnh hầu hết những
vấn đề trên biển như: quyền đi lại trên biển,
30 Vụ kiện Phân định biển và các câu hỏi về lãnh hải giữa Qatar và Bahrain, Phán quyết về thẩm quyền và khả năng thụ
lý, Toà án Công lý quốc tế, 1994, đoạn 26.
31 United Nations Division for Ocean Affairs and the Law of the Sea, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển – một góc
nhìn lịch sử (The United Nations Convention on the Law of the Sea - A historical perspective),
Depts/los/convention_agreements/convention_historical_perspective.htm#, truy cập ngày 07/10/2017.
32 Như trên, đoạn 60.
giới hạn lãnh thổ trên biển, các quy định
pháp lý về tài nguyên trên đáy biển vượt
quá giới hạn thẩm quyền quốc gia, việc di
chuyển qua các eo biển hẹp, bảo tồn và quản
lý các tài nguyên sinh vật biển, bảo vệ môi
trường biển, cơ chế nghiên cứu biển và đặc
biệt nhất là cơ chế giải quyết tranh chấp trên
biển giữa các quốc gia31.
Như vậy có thể nói rằng, mục đích của
UNCLOS chính là điều chỉnh tất cả mọi khía
cạnh liên quan đến việc sử dụng biển cả và
các nguồn tài nguyên trên biển nhằm mang
lại một trật tự pháp lý công bằng và phù hợp
với quyền lợi, nguyện vọng của tất cả các
quốc gia. Vì vậy, những điều ước quốc tế
nào có những thỏa thuận liên quan đến một
hay một vài khía cạnh của việc sử dụng biển
và các nguồn tài nguyên trên biển với thiện
chí thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi giữa các
quốc gia, giữ gìn an ninh trên biển đều phù
hợp với mục đích của UNCLOS.
Thứ ba, điều ước quốc tế nói trên phải
quy định rõ ràng về việc cho phép đệ trình
yêu cầu tư vấn lên ITLOS trong các điều
khoản của mình. Điều khoản này sẽ chỉ định
một cơ quan được thành lập dựa trên chính
hiệp định có thẩm quyền gửi yêu cầu tư vấn
pháp lý đến ITLOS32. Tính hợp pháp của
việc một cơ quan có khả năng chuyển yêu
cầu tư vấn được dựa trên thẩm quyền được
trao theo hiệp định mà không bị ảnh hưởng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 23(375) T12/2018
bởi tên gọi, bản chất hoặc bất kỳ sự xem xét
về cấu trúc hoặc thể chế của cơ quan này.33
Đây cũng là bộ phận sẽ trực tiếp gửi đệ
trình cùng những văn bản minh chứng thẩm
quyền của mình đến Tòa. Trong án lệ yêu
cầu tư vấn của Uỷ ban Thủy sản Tiểu vùng,
cơ quan đăng ký (the Registry) đã nhận được
đệ trình gửi bởi Thư ký thường trực của Uỷ
ban vào ngày 28/03/2013. Đây cũng chính là
bộ phận được trao thẩm quyền gửi các câu
hỏi pháp lý cần tư vấn lên ITLOS theo Điều
33 của Công ước MCA và nghị quyết được
thông qua tại phiên họp bất thường lần thứ
mười bốn của các bộ trưởng Uỷ ban34.
Thứ tư, các bên cần phải trình bày rõ
“câu hỏi pháp lý” trong hồ sơ yêu cầu tư vấn
của mình. Các câu hỏi này cần được trình
bày dưới dạng các câu hỏi mang bản chất
pháp lý (legal nature). Thẩm quyền tư vấn
pháp lý của Toà án quốc tế nói chung và của
ITLOS nói riêng không phải nhằm mục đích
giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia35;
do đó, các câu hỏi tư vấn trước Toà cần tránh
đề cập các sự kiện và các vụ việc liên quan
đến việc trình bày các bằng chứng pháp lý.
Các câu hỏi này cần mang tính chất lý thuyết
pháp lý trừu tượng nhiều hơn là giải quyết
các thực tế tranh chấp. Vì vậy, có tác giả cho
33 Diễn giải Nguyên tắc làm việc của Tòa án Quốc tế về Luật Biển (The Rules of International Tribunal on the Law of the
Sea: A Commentary), chỉnh sửa bởi P. Chandrasekhara Rao và Philippe Gautier, Nxb. Martinus Nijhoff, tr. 394.
34 Án lệ: Yêu cầu ITLOS tư vấn của Uỷ ban Thủy sản Tiểu vùng, số 2015-21, đoạn 62.
35 Wood, Michael (2012), "Thẩm quyền tư vấn: những bài học từ thực tiễn gần đây", trong Wolfrum, Rudiger (2012),
Cùng tồn tại, cùng hợp tác và thống nhất (Coexist, cooperation and sodalirity), Nxb. Brill/ Nijhoff, 2012, tr. 1383.
36 Như trên.
37 Án lệ: Yêu cầu ITLOS tư vấn của Uỷ ban Thủy sản Tiểu vùng, số 2015-21, đoạn 65.
38 Như trên, đoạn 68.
39 Yoshifumi Tanaka (2015), Luật Biển quốc tế (The International law of the sea), Nxb. Đại học Cambridge.
40 Diễn giải Nguyên tắc làm việc của Tòa án quốc tế về Luật Biển (The Rules of International Tribunal on the Law of the
Sea: A Commentary), chỉnh sửa bởi P. Chandrasekhara Rao và Philippe Gautier, Nxb. Martinus Nijhoff, tr. 394. Xem
thêm: Vukas, Budislav, Luật Biển: Một số bài viết tham khảo chọn lọc (The Law of the Sea: Selected Writings), Nxb.
Martinus Nijhoff, Leiden/Boston, năm 2004, tr .301-315.
rằng, việc Toà án quốc tế đưa ra ý kiến tư
vấn của mình giúp phát triển hệ thống pháp
luật quốc tế hơn cả những phán quyết trong
các vụ tranh tụng giữa các quốc gia36.
Bên cạnh đó, câu hỏi về luật quốc tế
đệ trình lên ITLOS phải được diễn đạt một
cách khái quát và có nội dung thuộc phạm
vi điều chỉnh của điều ước quốc tế có quy
định yêu cầu Tòa cho ý kiến tư vấn37. Tuy
nhiên, các câu hỏi pháp lý cũng không nhất
thiết phải giới hạn trong việc giải thích và áp
dụng bất cứ điều khoản cụ thể nào trong điều
ước quốc tế này38. Mặc dù không được quy
định rõ ràng nhưng câu hỏi pháp lý đó phải
nằm ngoài thẩm quyền giải quyết của SDC,
tức các hoạt động của Chế độ Đáy biển quốc
tế (International Seabed Regime)39. Bởi lẽ,
theo Công ước, SDC có thẩm quyền độc
quyền về việc giải đáp các vấn đề này40.
3. Triển trọng cho việc tìm kiếm ý kiến tư
vấn từ Toà án quốc tế về Luật biển của
các quốc gia tại khu vực biển Đông
Trung Quốc đã tiến hành xây dựng,
mở rộng và quân sự hoá các đảo nhân tạo ở
biển Đông từ năm 2013. Cho đến nay, các
tác động tiêu cực của nó đến môi trường
biển và tình hình quan hệ quốc tế tại khu
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 23(375) T12/2018
vực đều có thể được chứng minh qua các
báo cáo và các bài nghiên cứu của các học
giả41. Về mặt pháp lý, xung quanh vấn đề
này vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Trong
tình hình hiện nay, khi Trung Quốc, chủ thể
quan trọng nhất trong vụ việc này, thể hiện
quan điểm không hợp tác đối với phương
pháp tranh tụng, việc sử dụng các biện pháp
tố tụng theo Phần XV của UNCLOS tỏ ra
không phù hợp. Do đó, theo chúng tôi, các
nước trong khu vực biển Đông cần xem xét
đến khả năng vận dụng chức năng tư vấn
pháp lý của ITLOS.
Dựa vào phân tích trên, về mặt thủ
tục, để sử dụng chức năng tư vấn pháp lý
của ITLOS, cần phải có một điều ước quốc
tế có nội dung liên quan đến mục đích của
UNCLOS và điều ước quốc tế này công
nhận thẩm quyền tư vấn pháp lý của ITLOS,
đồng thời chỉ định cơ quan đại diện đệ trình
các câu hỏi pháp lý lên trước Toà án. Hiện
nay, các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN)42 và Trung Quốc
đang trong quá trình soạn thảo Bộ Quy tắc
ứng xử ở Biển Đông (gọi tắt là COC). Vì
vậy, các bên cần cân nhắc một số điểm quan
trọng sau đây:
(1) Tính chất pháp lý của COC: COC
cần thoả mãn các điều kiện theo luật quốc tế
để được công nhận là một điều ước quốc tế
và mang tính ràng buộc về mặt pháp lý;
(2) Nội dung điều chỉnh của COC cần
41 Xem thêm, Joel Guinto (19/06/2014), Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo tại Biển Đông (China Builds Artificial
Islands in South China Sea), Bloomberg Business, www.bloomberg.com/bw/articles/2014-06-19/china-builds-artifi-
cial-islands-in-south-china-sea, truy cập ngày 05/03/2017; Katie Hunt (18/02/2015), Báo cáo về việc Trung Quốc xây
thêm những đảo mới tại vùng nước tranh chấp (Report: China Building New Islands in Disputed Waters), đăng trên
CNN, truy cập ngày 05/03/2017. Yi-Hsuan
Chen (2015), Căng thẳng nảy lửa ở Biển Đông: Những động thái gần đây của Trung Quốc trong việc xây dựng đảo
nhân tạo tại các vùng biển tranh chấp và Ý nghĩa của chúng trong Luật Biển (South China Sea Tension on Fire: China's
Recent Moves on Building Artificial Islands in Troubled Waters and Their Implications on Maritime Law), tr. 9.
42 ASEAN (Association of South East Asian Nations - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) là tổ chức lớn nhất khu vực
Đông Nam Á bao gồm 10 quốc gia thành viên, bao gồm Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar,
Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Trong đó, 5 trong 10 thành viên này là các quốc gia có vị trí địa lý bao
quanh biển Đông, bao gồm Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Brunei và Philippines.
43 Straits Times (07/08/2017), Dự thảo Khung về Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông (Deal on framework of South China
Sea code), truy cập ngày 26/09/2017
44 Như trên.
phải phù hợp với mục đích của UNCLOS:
điều này đã được thể hiện khá rõ nét trong
các tuyên bố của các quốc gia tham gia quá
trình soạn thảo. Cụ thể vào ngày 6/8/2017,
Ngoại trưởng Trung Quốc và ASEAN đã
thông qua dự thảo khung về COC. Theo
nhận định của các bên liên quan, dự thảo
khung này hy vọng sẽ là “một văn kiện quan
trọng vì có thể cho rằng nó đại diện cho sự
đồng thuận và, quan trọng hơn, cho một cam
kết để tạo tiến triển cho vấn đề kéo dài từ
lâu này: vấn đề thông qua một văn bản pháp
lý điều chỉnh các hành vi của các quốc gia
tại biển Đông"43 và đem lại sự ổn định cho
khu vực, làm giảm căng thẳng trong tranh
chấp ở Biển Đông, thể hiện một động lực
tích cực44.
(3) Công nhận thẩm quyền tư vấn
pháp lý của ITLOS: trong các điều khoản
của COC cần phải ghi nhận một cách rõ
ràng việc công nhận thẩm quyền của ITLOS
trong việc đưa các ý kiến tư vấn pháp lý cho
các quốc gia này. Bên cạnh đó, cần phải cử
một cơ quan đại diện để thực hiện các thủ
tục cần thiết theo quy định của Nguyên tắc
làm việc của ITLOS, cụ thể là theo quy định
của các điều từ 130 đến 138 của bộ Nguyên
tắc này■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 23(375) T12/2018
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Quốc phòng Mỹ (2016), Những phát triển về an ninh và quân sự liên quan đến Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Trung Hoa năm 2016 (Military and Security Developments Involving the People’s Republic of China
2016.
2. Boutros, Ghali - Nguyên Tổng Thư ký LHQ (1992), Kế hoạch vì Hòa bình (Agenda for Peace).
3. García, Miguel (2015), Thẩm quyền giải quyết tranh chấp và tư vấn pháp lý của Toà án quốc tế về Luật biển,
(The Contentious and Advisory Jurisdiction of the International Tribunal for Law of the Sea), Nxb. Brill
Nijhoff, Leiden, năm 2015.
4. Kolcher, Hans (1991), Thủ tục bỏ phiếu trong Hội đồng bảo an LHQ - xem xét sự mâu thuẫn về các quy chuẩn
trong Hiến chương LHQ và các hệ quả của nó đối với quan hệ quốc tế (the Voting Procedurein the United
Nations Security Council - Examining a Normative Contradiction in the UN Charter and itsConsequences
on International Relations), xem thêm qua đường dẫn
UN_Security_Council.pdf, truy cập ngày 25/01/2018.
5. Matthew Southerland (2016), Hành động xây đảo của Trung Quốc tại Biển Đông: Thiệt hại về môi trường
biển, Những ẩn ý và Luật Quốc tế (China's Island Buidling in the South China Sea: Damage to the Marine
Environment, Implications, and International Law), US-China Economic and Security Review Commission,
2016.
6. Nikos Papadakis (1975), Đảo nhân tạo trong Luật Quốc tế (Artificial Island in International Law), Tạp chí
Maritime Policy and Management, quyển 3, số 1.
7. P. Chandrasekhara Rao và Philippe Gautier (2006), Diễn giải Nguyên tắc làm việc của Tòa án Quốc tế về Luật
Biển (The Rules of International Tribunal on the Law of the Sea: A Commentary), Nxb. Martinus Nijhoff,
năm 2016.
8. Rosenne, Shabtai (2006), Luật và thực hành của Toà án quốc tế 1920-2005, Nxb. Martinus Nijhoff (Leiden/
Boston), số 1 - Toà án và LHQ, 2006.
9. Tafsir Malick Ndiaye (2010), Chức năng Tư vấn của Tòa án Quốc tế về Luật Biển (The Advisory Function
of the International Tribunal for the Law of the Sea), Tạp chí Chinese Journal of International Law, quyển
9, số 3, trang 566.
10. Wood, Michael (2012), "Thẩm quyền tư vấn: những bài học từ thực tiễn gần đây", trong Wolfrum, Rudiger
(2012), Cùng tồn tại, cùng hợp tác và thống nhất (Coexist, cooperation and sodalirity), Nxb Brill/ Nijhoff,
2012.
11. Yoshifumi Tanaka (2015), Luật Biển quốc tế (The International law of the sea), Nxb. Đại học Cambridge,
trang 417; Ki-Jun You (2008), Chức năng tư vấn của Tòa án Quốc tế về Luật Biển: Xét lại Điều 138 của Quy
chế Tòa án (Advisory Opinions of the International Tribunal for the Law of the Sea: Article 138 of the Rules
of the Tribunal, Revisited), Tạp chí Ocean Development & International Law, quyển 39, số 4, năm 2015./.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 23(375) T12/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tham_quyen_tu_van_phap_ly_cua_cac_co_quan_tai_phan_quoc_te_v.pdf