Cùng với việc hiến định nguyên tắc
tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước với
đủ ba yếu tố phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp,
tư pháp, Hiến pháp năm 2013 khẳng định
sứ mệnh cao quý, riêng có của Tòa án - cơ
quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, đó là
“bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân” (Điều 102). Với các quy
định này, về mặt lý luận và thực tiễn, cần
có sự nhận thức lại cho chuẩn xác hơn và
xác định rõ ràng hơn vị trí, chức năng của
các cơ quan từ trước đến nay vẫn được gọi
chung là các cơ quan tư pháp (Điều tra,
Kiểm sát, Tòa án, Thi hành án) trong mối
quan hệ với Tòa án khi thực hiện quyền
lực nhà nước nói chung, quyền tư pháp nói
riêng, để từ đó phát huy tối đa vai trò bảo
vệ công lý của Tòa án, đồng thời đảm bảo
thực hiện quyền tiếp cận công lý cho mọi
người dân./.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thi hành quy định về nhiệm vụ bảo đảm công lý của tòa án nhân dân trong hiến pháp năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
50
Thi hành quy định về nhiệm vụ bảo đảm công lý của Tòa án...
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
I. Khái niệm công lý
Công lý là một khái niệm mang tính
lịch sử bởi nó đã được nhắc đến từ xa xưa.
Đây là phạm trù trừu tượng, vừa mang
tính chất của vật chất vừa mang yếu tố
của tinh thần; vừa mang tính thế tục,
vừa mang tính tôn giáo. Do đó, các nhà
triết học cả duy tâm lẫn duy vật ngay từ
thời cổ đại cho đến thời đương đại đã tốn
nhiều thời gian và công sức để bàn luận.
Dù vậy, từ phương Đông đến phương
Tây, khái niệm công lý thường được biểu
hiện như một khát vọng về tự do, công
bằng, chính nghĩa, lẽ phải, là phẩm hạnh
cao quý trong mỗi người hay mỗi xã hội.
Trong thời hiện đại, khái niệm công
lý đã được John Rawls (1921-2002), một
triết gia nổi tiếng người Mỹ phân tích và
nghiên cứu thông qua lý thuyết của ông
gọi là Lý thuyết Công lý như là Công bằng
(Justice as fairness)1. Rawls cho rằng, công
lý là chuẩn mực của xã hội, nó giúp cho
1 John Rawls (1971), Một lý thuyết về công lý (A
theory of justice), Nxb Trường Đại học Harvard.
pháp luật giữ gìn sự thanh bình của cuộc
sống, bảo đảm ổn định và phát triển kinh
tế. Công lý như là thế thăng bằng của xã
hội. Bản thân công lý, chính là ở giữa, nếu
thái quá sẽ là bất công, nếu thiếu sót sẽ
làm tổn hại xã hội, cho nên công lý như là
sự công bằng.2
Định nghĩa của Rawls đã phần nào
giải thích rõ ràng khái niệm về công lý:
Công lý như là sự công bằng. Nó được
dành cho tất cả mọi người, mọi tổ chức
nhưng khi có sự bất công thì nó trở thành
mục tiêu tìm kiếm hay đòi lại cho những
người hay những tổ chức gặp phải sự bất
công đó. Và Nhà nước chính là chủ thể
thực hiện nhiệm vụ giải quyết những sự
bất công đó, bởi không thể có một nhà
nước dân chủ, văn minh nếu như nhà
nước đó không thể duy trì được công lý
2 Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Đăng Duy (2018),
Bài viết Lịch sử tư tưởng về công lý, trong cuốn
Công lý và Quyền tiếp cận công lý do Đào Trí Úc
và Vũ Công Giao chủ biên, Nxb Hồng Đức, tr. 23.
THI HÀNH QUY ĐỊNH VỀ NHIỆM VỤ BẢO ĐẢM CÔNG LÝ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG HIẾN PHÁP NĂM 2013
* Thạc sĩ, Khoa pháp luật hình sự và kiểm sát hình
sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nhiệm vụ bảo vệ công lý cho Tòa án nhân
dân, đánh một dấu mốc quan trọng trong việc đảm bảo công lý trong lĩnh
vực tố tụng tư pháp nói riêng và trong xã hội nói chung. Bài viết phân tích về
nhiệm vụ bảo đảm công lý của Tòa án nhân dân theo Hiến pháp năm 2013 và
những thay đổi của pháp luật trong quá trình thi hành nhiệm vụ này.
Từ khóa: Công lý, Tòa án, Hiến pháp, quyền con người.
The Constitution in 2013 has supplemented justice protection mission for the
People’s Court which hit a vital milestone in ensuring justice in judicial proceedings
particularly and in society generally. The article analyses justice protection mission
of the People’s Court according to the Constitution in 2013 as well as legal changes
during the implementation of this mission.
Keywords: Justice, Courts, the Constitution, human rights.
Hoàng THị BíCH ngọC*
51Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Hoàng THị BícH ngọc
cho người dân và cho tổ chức.
Công lý chính là một tiêu chí quan
trọng đánh giá tính ưu việt của một chế
độ xã hội. Tính chính đáng, chính nghĩa
của sự xuất hiện và tồn tại của mỗi chính
quyền cũng thường được đánh giá thông
qua việc nhà nước đó có thừa nhận, bảo
vệ và bảo đảm việc thực thi công lý hay
không. Các cơ quan nhà nước khi thực
hiện quyền lực phải dựa vào công lý. Do
đó, công lý là phẩm hạnh quan trọng giữ
cho mỗi thành viên xã hội gắn kết chặt chẽ
vì lợi ích chung của toàn xã hội. Để đảm
bảo sự ổn định và phát triển những đức
hạnh tử tế, nhân văn và ấm áp, mà trong
đó công lý chiếm một vị trí đặc biệt ưu tiên,
cần phải được lan tỏa sâu rộng và mạnh
mẽ trong mỗi cộng đồng xã hội. Công lý
như là công bằng cũng gần tương tự như
quyền con người, nó phải được quy định
bằng pháp luật và phải được bảo đảm
thực hiện thông qua hệ thống tư pháp, cụ
thể trong bài viết này sẽ đề cập đến chức
năng bảo đảm công lý của cơ quan Tòa án.
II. nhiệm vụ bảo vệ công lý của Tòa
án nhân dân Việt nam
1. Nhiệm vụ bảo vệ công lý của Tòa
án nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam
năm 2013
Công lý không dựa vào quyền lực thì
bất lực; quyền lực không đi đôi với công
lý thì tàn bạo. Các cơ quan nhà nước khi
thực hiện quyền lực phải dựa vào công
lý. Vì vậy cần phải kết hợp công lý và
quyền lực, và nhằm mục đích này, phải
làm thế nào cho những điều hợp công lý
có đủ quyền lực; hay những điều dựa vào
quyền lực phải hợp với công lý. Chính
với vai trò to lớn trong việc tạo dựng tính
chính đáng, chính nghĩa, đạo lý, lòng nhân
ái và lẽ công bằng trong mỗi xã hội, ngày
nay nhiều quốc gia trên thế giới đã ghi
nhận công lý ngay tại Lời nói đầu trong
Hiến pháp của quốc gia mình, như Hiến
pháp Nhật Bản, Hiến pháp Cộng hòa Hàn
quốc, Hiến pháp Cộng hòa Ba Lan, Hiến
pháp nước Cộng hòa Nam Phi
Ở Việt Nam, những quy định của Hiến
pháp năm 2013 chính là cơ sở cho việc mở
rộng thẩm quyền của Tòa án nhân dân
trong xét xử các loại án, thể hiện xu thế
tất yếu của nhà nước pháp quyền, cụ thể:
Thứ nhất, Tòa án nhân dân là chủ thể
thực hiện quyền tư pháp theo quy định
tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
Theo định nghĩa của từ điển Black’s Law
Dictionary, quyền Tư pháp (judicial power)
là “thẩm quyền được trao cho Tòa án và các
thẩm phán xem xét và quyết định các vụ việc và
đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi Hành
đối với các vụ việc ấy; quyền giải thích và áp
dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ
việc một điều gì đó có phù hợp hay không phù
hợp với pháp luật điều chỉnh việc ấy3.”
Ở Việt Nam, theo một số nhà nghiên
cứu, quyền Tư pháp là: “quyền xét xử các
vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
tế, lao động, hành chính4”; “xét xử các hành vi
vi phạm hiến pháp, vi phạm pháp luật từ phía
công dân và các cơ quan nhà nước; bảo vệ pháp
luật, công lý, tự do của công dân và trật tự an
toàn xã hội5”; “phân xử và phán xét tính đúng
đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết
định pháp luật khi có sự tranh chấp về các
quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật6.”
3 Bryan Garner, Black’s Law Dictionary, 9th ed,
2009, trang 924.
4 Viện Khoa học pháp lý, Từ điển luật học, Nxb Từ
điển Bách Khoa, 2006, trang 657.
5 Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn, Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì
dân: Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia,
2008, trang 60.
6 Nguyễn Đăng Dung, Thể chế Tư pháp trong
Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
2005, trang 11.
52
Thi hành quy định về nhiệm vụ bảo đảm công lý của Tòa án...
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
Mặc dù còn nhiều quan điểm và cách
nhìn nhận khác nhau về quyền Tư pháp,
song nhận thức chung về quyền Tư pháp
cốt lõi vẫn là quyền xét xử, là việc nhân
danh nhà nước giải quyết tranh chấp, giải
quyết xung đột xã hội trên cơ sở pháp luật,
thông qua xét xử, theo các thủ tục tố tụng
luật định và có chức năng bảo vệ quyền
con người, bảo vệ công lý, lẽ công bằng.
Thứ hai, về tổ chức hệ thống Tòa án
nhân dân theo khoản 2 Điều 102 Hiến
pháp năm 2013 xác định tổ chức hệ thống
Tòa án theo cấp xét xử không phụ thuộc
vào địa giới hành chính mà để Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân quy định, làm cơ
sở cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động tư
pháp, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền. Điều này bảo đảm tính khái
quát, ổn định lâu dài của Hiến pháp và
tính linh hoạt của luật phù hợp nhu cầu
phát triển của đất nước trong từng thời
khác nhau. Quy định này phù hợp với
việc phân công thực hiện quyền lực trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Thứ ba, về nhiệm vụ của Tòa án nhân
dân: Để thực hiện “quyền tư pháp”, Hiến
pháp năm 2013 cũng đã bổ sung khoản 3
Điều 102 quy định về nhiệm vụ của Tòa
án nhân dân là bảo vệ công lý, quyền con
người, quyền công dân là những nhiệm vụ
đầu tiên của Tòa án nhân dân; sau đó mới
là nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân. Đó là nhiệm vụ
đặc trưng thể hiện cao nhất, tập trung nhất
đối với cơ quan xét xử, thực hiện quyền
tư pháp. Tòa án phải là nơi mà mọi con
người, mọi công dân tìm đến lẽ phải, tìm
đến sự thật. Khi quyền và lợi ích của mình
bị xâm hại hoặc bị tranh chấp, người dân
tìm đến Tòa án như là tìm đến công lý. Vì
vậy, theo Hiến pháp năm 2013, Tòa án là
biểu tượng của công lý và có nhiệm vụ
bảo vệ công lý.7 Đồng nghĩa với việc mỗi
khi người dân có tranh chấp và khởi kiện
đến Tòa án thì Tòa án không được từ chối
giải quyết vì bất cứ lý do gì, đây chính là
nội dung của nguyên tắc bất khẳng thụ lý,
nguyên tắc này đã được thừa nhận từ lâu
trên thế giới và cả ở Việt Nam.
Thứ tư, về nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân: Hiến pháp
năm 2013 cũng đã sắp xếp và bổ sung một
số nội dung quan trọng tại Điều 103 trên
tinh thần kế thừa và có bổ sung cho chính
xác, phù hợp với thực tiễn và tinh thần cải
cách tư pháp một số nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân - cơ
quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp ở
nước ta,8 đó là:
Nguyên tắc xét xử có Hội thẩm tham gia:
Hội thẩm chỉ tham gia trong xét xử ở cấp
sơ thẩm; còn việc xét xử ở cấp phúc thẩm
là không bắt buộc.
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét
xử độc lập: Nguyên tắc này có một bổ sung
quan trọng là: “Cấm cơ quan, tổ chức, cá
nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán,
Hội thẩm”. Bổ sung này nhấn mạnh tầm
quan trọng cũng như thái độ dứt khoát
của Nhà nước ta đối với việc can thiệp
vào hoạt động xét xử của Tòa án, bảo đảm
quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc
này trên thực tế.
Nguyên tắc xét xử tập thể: Để thực hiện
cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả của
việc xét xử, Hiến pháp năm 2013 quy định
ngoại lệ cho phép Tòa án xét xử bằng một
Thẩm phán trong trường hợp áp dụng
7 PGS. TS. Trần Văn Độ (2014), Bình luận khoa học
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Lao động xã hội, tr. 494-506.
8 PGS. TS. Trần Văn Độ (2014), Hiến pháp năm 2013
về Tòa án và yêu cầu sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân, Nghiên cứu lập pháp, Viện nghiên cứu
lập pháp, số 20 (276), tr. 9-15.
53Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Hoàng THị BícH ngọc
thủ tục rút gọn.
Nguyên tắc xét xử công khai: Thay cho
quy định trường hợp ngoại lệ do luật
định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến
pháp năm 2013 quy định cụ thể điều kiện
cho phép Tòa án xét xử kín. Đó là “Trong
trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà
nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc,
bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí
mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của
đương sự” thì Toà án phải xét xử kín.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp
của đương sự: Để thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ quyền con người một cách toàn diện,
công bằng, Hiến pháp năm 2013 ngoài
việc quy định quyền bào chữa của bị can,
bị cáo, còn bổ sung việc bảo đảm quyền
bảo vệ lợi ích hợp pháp của các đương sự
khác như người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong hoạt động xét
xử của Tòa án.
Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 bổ
sung một số nguyên tắc quan trọng, bảo
đảm sự phù hợp với tinh thần cải cách tư
pháp, bảo vệ quyền con người và thông lệ
quốc tế. Các nguyên tắc được bổ sung là:
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm: Đây là nguyên tắc thể hiện nội
dung rất quan trọng trong cải cách tư
pháp ở nước ta. Sự thật chỉ được xác định,
công lý chỉ được thiết lập khi có sự tranh
tụng giữa các bên trong tố tụng tư pháp,
nhất là trong xét xử các vụ án;
Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được
bảo đảm: Nguyên tắc hai cấp xét xử là
nguyên tắc được ghi nhận trong các văn
kiện quốc tế về quyền con người và pháp
luật của nhiều quốc gia. Thực hiện hai
cấp xét xử là một trong những biện pháp
bảo vệ quyền con người hữu hiệu; đồng
thời bảo đảm cho hoạt động tư pháp thận
trọng nhưng có điểm dừng, tránh kéo dài,
chậm trễ.
Trên đây là những nguyên tắc cơ bản
nhất, dựa trên cơ sở sửa đổi, bổ sung các
điều 129, 130, 131, 132 Hiến pháp năm
1992; tiếp thu những quy định về quyền
con người trong hoạt động tố tụng của
các bản Tuyên ngôn Thế giới về quyền
con người (Universal Declaration of
Human Rights – UDHR) năm 1948, Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị (International Covenant on Civil and
Political Rights) năm 1966 mà Việt Nam
là thành viên, cũng như tham khảo Hiến
pháp của các nước trên thế giới nhằm bảo
đảm quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự trong hoạt
động tố tụng, tăng cường hơn nữa tính
độc lập trong hoạt động của Tòa án. Có
thể nói, Hiến pháp năm 2013 đã tạo ra vị
thế mới, điều kiện mới cho sự phát triển
của nền tư pháp, nhưng cũng đòi hỏi các
Tòa án nhân dân nâng cao trách nhiệm,
khắc phục khó khăn, khắc phục những
hạn chế thời gian qua, tích cực đổi mới về
mọi mặt để đáp ứng tinh thần cải cách tư
pháp là xây dựng một nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Để các quy định của Hiến pháp năm
2013 đi vào cuộc sống và phát huy hiệu
lực, các quy định đó cần được cụ thể hóa
bằng việc ban hành các luật khác nhau,
mà trước hết là Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân, các luật Tố tụng tư pháp... và có các
biện pháp triển khai trên thực tế.
2. Nhiệm vụ bảo vệ công lý của Tòa
án nhân dân trong các văn bản quy phạm
pháp luật khác
Sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu
lực, một số văn bản luật được sửa đổi,
54
Thi hành quy định về nhiệm vụ bảo đảm công lý của Tòa án...
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
bổ sung, thay thế thể hiện sự thống nhất
quan điểm với Hiến pháp năm 2013, có
thể kế đến một số quy định mới như:
Bộ luật Dân sự năm 2015
Tại khoản 2 Điều 14 đã ghi nhận
nguyên tắc bất khẳng thụ lý9 bằng quy định:
“Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc
dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng;
trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và
Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng”; và
các quy định tại Điều 14, Điều 5 và Điều
6 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về
việc áp dụng tập quán pháp luật và tương
tự pháp luật (án lệ, lẽ công bằng). Tương
tự, trong khoản 2, Điều 4 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 cũng khẳng định “Tòa
án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ
việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp
dụng”; Như vậy, thông qua việc sửa đổi
và ban hành các điều luật trên ta nhận
thấy, ngoài nguồn pháp luật thành văn,
pháp luật dân sự Việt Nam còn thừa nhận
các nguồn khác như tập quán, các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công
bằng. Việc mở rộng nguồn pháp luật để
Tòa án tham chiếu là một bước tiến mang
tính cách mạng trong việc đảm bảo công
lý và quyền tiếp cận công lý của công dân.
Sự thay đổi trong các quy định ở Bộ luật
dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự nêu trên
đã bổ trợ và đưa các nhiệm vụ của Tòa
án được quy định trong khoản 3 Điều 102
Hiến pháp năm 2013 vào thực tiễn.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
Bên cạnh Bộ luật dân sự năm 2015,
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc
hội thông qua vào cuối năm 2014 cũng
có nhiều điểm mới nhằm cụ thể hóa các
nguyên tắc và các quy định hướng đến xây
dựng một hệ thống Tòa án độc lập theo
9 Nguyên tắc bất khẳng thụ lý là một nguyên tắc
cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự.
tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Một số
điểm mới liên quan đến chức năng, quyền
hạn của thẩm phán được thể hiện khá rõ
nét trong Điều 2 của Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014. Đáng chú ý những
điểm mới đó quy định như sau: “Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp” và tại khoản 3 Điều 2 Luật tổ chức
Tòa án nhân dân quy định khi thực hiện
nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có
quyền:
Một là, việc giao cho Tòa án xem xét, kết
luận tính hợp pháp của hành vi, quy định
tố tụng của Kiểm sát viên, Điều tra viên,
xem xét tính hợp pháp của chứng cứ, tài
liệu do Cơ quan điều tra, truy tố thu thập,
luật sư, bị can, bị cáo và những người khác
cung cấp là quy định rất hợp lý. Việc trao
cho Thẩm phán xem xét tính hợp pháp
của chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra,
truy tố thu thập, do luật sư và bị cáo cung
cấp thông qua thủ tục tố tụng là điều kiện
cần, điều kiện đủ là phải hình thành các
quy định để đảm bảo Thẩm phán hoàn
toàn độc lập và bình đẳng trong việc đánh
giá chứng cứ, cho dù đó là chứng cứ của
cơ quan nhà nước hay của luật sư, bị can
hay người khác đưa ra.10
Hai là, Tòa án có quyền trả hồ sơ và
yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung;
quan điểm cần ủng hộ là Bộ luật tố tụng
hình sự cần quy định việc trả hồ sơ yêu
cầu bổ sung chỉ trong những trường hợp
rất hạn chế và với những điều kiện chặt
chẽ, đồng thời trao cho Thẩm phán quyền
tuyên bố bị cáo vô tội nếu Hội đồng xét
xử thấy chứng cứ không đủ để buộc tội bị
cáo. Quy định này sẽ buộc Cơ quan điều
10 Lê Hồng Quang (2015), Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014 – Những điểm mới và yêu cầu
đặt ra đối với việc thực thi, Tạp chí Pháp luật và
Phát triển, số tháng 3.
55Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Hoàng THị BícH ngọc
tra, truy tố đặc biệt cẩn trọng khi chuẩn bị
hồ sơ, chứng cứ và giúp tránh được những
vụ án oan. Đồng thời, quy định này cũng
hạn chế được việc thẩm phán thiếu bản
lĩnh, sợ trách nhiệm, không dám phán
quyết theo đúng tình trạng hồ sơ và kết
quả tranh tụng, trả hồ sơ cho “an toàn”,
làm kéo dài vụ án, ảnh hưởng quyền lợi
của người tham gia tố tụng.
Ba là, việc quy định cho Tòa án quyền
kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung
chứng cứ; yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát
viên và những người khác trình bày về các
vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa
cũng là một trong những điểm mới nhằm
nâng cao vai trò của Tòa án trong thực thi
quyền lực tư pháp. Và để đảm bảo thực
hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân
theo quy định của Hiến pháp và Luật
tổ chức Tòa án nhân dân thì một trong
những nhiệm vụ quan trọng của Tòa án
là phải hoàn thiện cơ sở pháp lý, đề xuất
xây dựng thể chế để Tòa án thực hiện chức
năng xét xử, thực hiện quyền tư pháp và
như vậy, pháp luật tố tụng cần thiết phải
sửa đổi, bổ sung để Tòa án nhân dân bảo
vệ công lý.
Tóm lại, Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014 đã có những điểm mới tiến
bộ, tuy nhiên, yêu cầu phát huy giá trị
tối đa đối với những quy định mới đó lại
đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện các văn bản
pháp luật tố tụng liên quan để đảm bảo
tính thống nhất trong hệ thống tư pháp,
hướng đến một hệ thống tòa án độc lập,
thực thi nhiệm vụ bảo vệ công lý theo tinh
thần Hiến pháp năm 2013.
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
2015
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng
đã có những nội dung lớn được sửa đổi
bổ sung có sự liên hệ mật thiết tới nhiệm
vụ bảo đảm công lý của Tòa án như sau:
Một là, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung
quy định các nguyên tắc phù hợp với Hiến
pháp năm 2013 và thực tiễn. Theo đó,
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung các nguyên
tắc sau: nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều
13); nguyên tắc không ai bị kết án 02 lần vì
một tội phạm (Điều 14); nguyên tắc tuân
thủ pháp luật trong hoạt động điều tra
(Điều 19); nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được đảm bảo (Điều 26).
Hai là, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung
những quy định cụ thể quan trọng liên
quan đến trình tự, thủ tục và các hoạt
động tố tụng theo từng giai đoạn, bao
gồm: giai đoạn khởi tố; điều tra; truy tố và
xét xử; thực hiện nghiêm túc yêu cầu của
Hiến pháp năm 2013 về tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. BLTTHS năm 2015 đã cụ thể hóa quy
định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp thành
những quy định, yêu cầu cụ thể đối với:
quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong
áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng; bổ
sung các quyền và cơ chế bảo đảm quyền
của những người tham gia tố tụng. Đặc
biệt là, bổ sung quyền của bị can được
đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu
được số hóa liên quan đến việc buộc tội,
gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan
đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều
tra khi có yêu cầu; bổ sung và quy định
đầy đủ nội dung của nguyên tắc suy đoán
vô tội; rút ngắn thời hạn tạm giam; quy
định đầy đủ các cơ chế để người bị buộc
tội thực hiện tốt quyền “tự bào chữa” và
“nhờ người khác bào chữa”; bổ sung các
quy định nhằm đề cao trách nhiệm của
các cơ quan tố tụng trong việc tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, đồng thời, quy định nghiêm
khắc các chế tài áp dụng nếu cơ quan tố
tụng vi phạm quy định của luật.
Ba là, BLTTHS năm 2015 đặc biệt đã
bổ sung thêm một chương (Chương V)
56
Thi hành quy định về nhiệm vụ bảo đảm công lý của Tòa án...
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
liên quan đến bào chữa, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
theo Hiến pháp năm 2013. Theo đó, bổ
sung khái niệm người bào chữa; bổ sung
người bị bắt thuộc đối tượng được bảo
đảm quyền bào chữa; bổ sung quy định
Trợ giúp viên pháp lý có thể là người bào
chữa trong trường hợp người bị buộc tội
thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý; bổ
sung diện những người không được bào
chữa; bổ sung các quyền, nghĩa vụ của
người bào chữa; bổ sung các quy định liên
quan về lựa chọn người bào chữa; chỉ định
người bào chữa; thay đổi và từ chối người
bào chữa; thủ tục đăng ký bào chữa; trách
nhiệm thông báo cho người bào chữa; thu
thập, giao chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan đến bào chữa; đọc, ghi chép, sao
chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án và người
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
bị tố giác, kiến nghị khởi tố.
Bốn là, BLTTHS năm 2015 đã có những
đổi mới quan trọng khi quy định về chứng
cứ và chứng minh, đó là: bổ sung cho
người bào chữa có quyền thu thập chứng
cứ, người bị buộc tội có quyền đưa ra
chứng cứ; quy định cụ thể cách thức người
bào chữa thu thập chứng cứ; bổ sung và
quy định cụ thể trách nhiệm, trình tự, thủ
tục các cơ quan tố tụng tiếp nhận và đánh
giá chứng cứ do những người tham gia
tố tụng cung cấp; bổ sung vào hệ thống
nguồn chứng cứ gồm: dữ liệu điện tử; kết
quả định giá tài sản; quy định cụ thể trình
tự, thủ tục thu thập, phục hồi dữ liệu điện
tử nhằm bảo đảm tính khách quan, tính
nguyên trạng và tính có thể kiểm chứng
của loại chứng cứ đặc thù này; bổ sung
nguyên tắc loại trừ chứng cứ.
Năm là, đặt ra yêu cầu bảo đảm quá
trình giải quyết vụ án hình sự phải có sự
kiểm tra, giám sát chặt chẽ theo quy định
tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.
BLTTHS năm 2015 đã có sửa đổi và bổ
sung một số nội dung như: bổ sung nguyên
tắc kiểm tra, giám sát, kiểm soát trong tố
tụng hình sự vào hệ thống các nguyên tắc
cơ bản; quy định cụ thể việc giám sát của
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
cơ quan dân cử đối với hoạt động tố tụng
hình sự và trách nhiệm của các cơ quan tố
tụng trong việc trả lời yêu cầu, kiến nghị
của các cơ quan này; quy định cơ chế kiểm
soát lẫn nhau giữa các cơ quan tố tụng,
theo đó khâu sau có trách nhiệm giám sát
kết quả của khâu trước, loại bỏ chứng cứ
do khâu trước thu thập bằng các biện pháp
trái luật; đồng thời, quá trình tiến hành tố
tụng, khâu sau có trách nhiệm thông báo
các kết quả giải quyết vụ án cho các giai
đoạn tố tụng trước; quy định cụ thể, minh
bạch các thủ tục tố tụng, bổ sung trách
nhiệm và hình thức công khai các quyết
định tố tụng nhằm tạo điều kiện để người
dân dễ tiếp cận công lý và tăng khả năng
giám sát của xã hội đối với quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
BLTTHS năm 2015 nhìn chung đã thể
chế hóa đầy đủ các chủ trương cải cách tư
pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013,
bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải
được phát hiện và xử lý nghiêm minh,
chính xác, tránh làm oan người vô tội.
Tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các
cơ quan tố tụng trong việc bảo vệ quyền
con người, quyền công dân; cụ thể hóa
các trình tự, thủ tục để người tiến hành
tố tụng và tham gia tố tụng thực hiện đầy
đủ quyền và trách nhiệm theo luật định,
từ đó đảm bảo quyền tiếp cận công lý
cho nhân dân nói riêng, xây dựng một hệ
thống tư pháp công bằng nói chung.
Kết luận
Là đạo luật cơ bản của đất nước đang
chuyển sang giai đoạn phát triển mới,
Hiến pháp năm 2013 phản ánh những
bước tiến trong nhận thức lý luận và
kết quả thực tiễn của quá trình cải cách
57Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Hoàng THị BícH ngọc
bộ máy nhà nước, dân chủ hóa đời sống
chính trị - pháp lý nói chung, của công
cuộc cải cách tư pháp đầy khó khăn, thách
thức nói riêng trong suốt những năm qua
ở nước ta.
Cùng với việc hiến định nguyên tắc
tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước với
đủ ba yếu tố phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp,
tư pháp, Hiến pháp năm 2013 khẳng định
sứ mệnh cao quý, riêng có của Tòa án - cơ
quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, đó là
“bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân” (Điều 102). Với các quy
định này, về mặt lý luận và thực tiễn, cần
có sự nhận thức lại cho chuẩn xác hơn và
xác định rõ ràng hơn vị trí, chức năng của
các cơ quan từ trước đến nay vẫn được gọi
chung là các cơ quan tư pháp (Điều tra,
Kiểm sát, Tòa án, Thi hành án) trong mối
quan hệ với Tòa án khi thực hiện quyền
lực nhà nước nói chung, quyền tư pháp nói
riêng, để từ đó phát huy tối đa vai trò bảo
vệ công lý của Tòa án, đồng thời đảm bảo
thực hiện quyền tiếp cận công lý cho mọi
người dân./.
TàI LIỆU THAM KHẢo
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013.
2. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
3. Bộ luật hình sự năm 2015.
4. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
5. Bộ luật dân sự năm 2015.
6. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
7. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020.
8. Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/04/2016 về
việc công bố án lệ của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao và Quyết định số 698/QĐ-CA ngày
17/10/2016.
9. Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người (Uni-
versal Declaration of Human Rights – UDHR)
năm 1948.
10. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị (International Covenant on Civil and
Political Rights) năm 1966.
11. Bryan Garner, Black’s Law Dictionary, 9th ed,
2009, trang 924.
12. Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Đăng Duy
(2018), Bài viết Lịch sử tư tưởng về công lý, trong
cuốn Công lý và Quyền tiếp cận công lý do Đào
Trí Úc và Vũ Công Giao chủ biên, Nxb Hồng
Đức, tr. 23.
13. Nguyễn Đăng Dung, Thể chế Tư pháp trong Nhà
nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005,
trang 11.
14. PGS. TS. Trần Văn Độ (2014), Bình luận khoa
học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Lao động xã hội, tr. 494-506.
15. PGS. TS. Trần Văn Độ (2014), Hiến pháp năm
2013 về Tòa án và yêu cầu sửa đổi Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân, Nghiên cứu lập pháp, Viện nghiên
cứu lập pháp, số 20 (276), tr. 9-15.
16. John Rawls (1971), Một lý thuyết về công lý (A
theory of justice), Nxb Trường Đại học Harvard.
17. C.L. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 101.
18. Hoàng Thị Bích Ngọc, Nguyễn Thị Mai Trang
(2017), Án lệ - một số vấn đề về giải thích pháp
luật ở Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
7/2017, tr. 22.
19. Lê Hồng Quang (2015), Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014 – Những điểm mới và yêu cầu
đặt ra đối với việc thực thi, Tạp chí Pháp luật và
Phát triển, số tháng 3.
20. Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn, Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì
dân: Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc
gia, 2008, trang 60.
21. TS. Nguyễn Văn Quân (2018), Mối quan hệ giữa
nguồn pháp luật và đảm bảo quyền tiếp cận công lý
tại Việt Nam, trong cuốn sách Công lý và Quyền
tiếp cận công lý: Những vấn đề lý luận, thực tiễn,
Nxb Hồng Đức, tr.265.
22. Viện Khoa học pháp lý, Từ điển luật học, Nxb
Từ điển Bách Khoa, 2006, trang 657.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thi_hanh_quy_dinh_ve_nhiem_vu_bao_dam_cong_ly_cua_toa_an_nha.pdf