Thời điểm ăn bổ sung ở trẻ từ 6 -24 tháng tuổi đến khám dinh dưỡng tại bệnh viện Nhi đồng 2
Nhận xét: Các trẻ trên 9 tháng tuổi đã có sự
phát triển về vận động và ngôn ngữ nhiều hơn
nên nhu cầu dinh dưỡng đòi hỏi cao hơn. Hơn
nữa, trẻ đã có mọc răng và có thể ăn được một
vài thức ăn lơn cợn khác ngoài bột để tập nhai,
giúp không biếng ăn về sau. Đây là thời điểm
có thể tập cho trẻ ăn cháo. Thời điểm ăn cháo
của trẻ cũng đóng một vai trò không nhỏ đối
với tình trạng dinh dưỡng. Nếu ăn cháo quá
sớm cũng có thể chậm lên cân do đậm độ năng
lượng thấp hơn trong bột.
Có 221/252 trẻ đã được cho ăn cháo
(87,7%). Trong đó, đa số trẻ được cho ăn cháo
trước 9 tháng tuổi (81,9%), số trẻ được cho ăn
cháo đúng thời điểm hiện nay đang khuyến
nghị chỉ chiếm 18,1% và không có trẻ nào bị
bắt đầu cho ăn cháo trễ (từ sau 18 tháng tuổi).
Biểu đồ 5. Thời điểm ăn cơm
Nhận xét: Cần thiết cho trẻ ở lứa tuổi từ 18
tháng tuổi trở lên. thời điểm thích hợp cho trẻ
ăn cơm là khi trẻ đã có răng hàm và có khả
năng nhai cơm. Do đó, khi trẻ có 4 răng hàm
(18 – 24 tháng tuổi) có thể cho ăn cơm nát và
khi trẻ có 8 răng hàm (24 – 36 tháng tuổi) là lúc
cho ăn cơm hạt như người lớn. Nếu ăn cơm
quá sớm sẽ gây cho trẻ bị rối loạn tiêu hóa,
kém hấp thu, biếng ăn dẫn đến SDD vì hệ tiêu
hóa của trẻ chưa hoàn thiện. Còn nếu ăn cơm
trễ trẻ sẽ bị thiếu chất và SDD.
Có 62/252 trẻ trong khảo sát đã được cho ăn
cơm. Trong đó, tỷ lệ được cho ăn cơm đúng theo
thời điểm hiện nay đang khuyến nghị chỉ có
19,4% và tỷ lệ trẻ được cho ăn cơm sớm (dưới 18
tháng tuổi) chiếm phần lớn (80,6%), điều này
cũng giải thích cho kết quả tỷ lệ SDD và dọa
SDD cao ở nhóm trẻ này.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 193 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thời điểm ăn bổ sung ở trẻ từ 6 -24 tháng tuổi đến khám dinh dưỡng tại bệnh viện Nhi đồng 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 1
THỜI ĐIỂM ĂN BỔ SUNG Ở TRẺ TỪ 6 -24 THÁNG TUỔI
ĐẾN KHÁM DINH DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Nguyễn Thị Thu Hậu*,Nguyễn Hoàng Nhựt Hoa*, Trần Hồng Nhân**, Trần Thị Hoài Phương*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tình trạng dinh dưỡng và thời điểm ăn bổ sung ở trẻ em từ 6 – 24 tháng tuổi đến khám
tại phòng khám Dinh Dưỡng bệnh viện Nhi Đồng 2 năm 2010.
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả.
Kết quả: Từ tháng 6-8/2010, nghiên cứu thực hiện trên 252 bệnh nhân từ 6-24 tháng tuổi đến khám Dinh
dưỡng tại bệnh viện Nhi Đồng 2, trong đó 33,3% trẻ bị suy dinh dưỡng và 36,1% trẻ bị dọa suy dinh dưỡng. Trẻ
đến khám nhiều nhất là từ 6-9 tháng tuổi(33,3%) và 13-18 tháng tuổi (28,6%). Nhóm trẻ có bất thường về dinh
dưỡng cao nhất là 13-18 tháng tuổi (31,4%). Đa số trẻ được ăn bổ sung trong thời điểm từ 4 – 6 tháng tuổi, vẫn
còn 10,7% trẻ ăn bổ sung quá sớm (dưới 4 tháng tuổi). 81,9% trẻ được cho ăn cháo từ dưới 9 tháng tuổi. Chỉ có
19,4% trẻ được ăn cơm đúng theo thời điểm khuyến nghị hiện nay.
Kết luận: Công tác tuyên truyền giáo dục dinh dưỡng cho cộng đồng đã có kết quả tốt, tuy nhiên cần quan
tâm đến nhóm trẻ 6-9 tháng tuổi và đặc biệt là nhóm 13-18 tháng tuổi vì dễ bị các vấn đề dinh dưỡng và bất
thường về phát triển thể chất. Thời điểm cho ăn bổ sung thích hợp cần được giáo dục cho phụ huynh thường
xuyên và tích cực hơn.
Từ khóa: suy dinh dưỡng, ăn dặm, ăn bổ sung.
ABSTRACT
TIMING OF COMPLEMENTARY FOODS INTRODUCTION IN CHILDREN 6-24 MONTHS
AT NUTRITIONAL CONSULTATION UNIT OF CHILDREN’S HOSPITAL 2
Nguyen Thi Thu Hau, Nguyen Hoang Nhut Hoa, Tran Hong Nhan, Tran Thi Hoai Phuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 4 - 2010: 272 – 276
Objectives: To investigate the nutritional status and timing of introduce complementary food for children
aged 6-24 months who come to nutritional consultation unit of Children’s Hospital 2.
Methods: Descriptive cross-sectional study.
Results: From June to August, 2010, 252 patients of Nutritional Consultation Unit of Children’s Hospital
were enrolled in this study. 33.3% of them were malnutrition and 36.1% at risk of malnutrition. The most
popular patients were in 6-9 months group (33.3%) and 13-18 months group (28.6%). The highest portion of
under-nutrition were the group of 13-18 months (31.4%). Majority of children were introduced complementary
food at time of 4-6 months-old, but still 10.7% of children began too early (before 4 months), 81.9% of children
had started rice soup before age of 9 months. Only 19.4% of children started feeding rice at current
recommendation.
Conclusions: There were great achievement in public nutritional communication, but it is still necessary to
pay more attention to children of 6-9 months and especially 13-18 months of age because of risks of malnutrition
and feeding problems. The appropriate time to introduce complementary food for children should be held more
effectively and more regularly.
* Bệnh viện Nhi Đồng 2, ** Trường Cao đẳng Kinh tế công nghệ
Tác giả liên lạc: KS. Nguyễn Hoàng Nhựt Hoa, ĐT: 0918028153, Email: nhlucky1@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 2
Key words: c.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dinh dưỡng hợp lý vô cùng quan trọng
trong việc giúp trẻ có thể phát triển được hết
tiềm năng của cơ thể(1,2). Hai năm đầu đời của trẻ
là giai đoạn cao điểm của tình trạng chậm tăng
trưởng, thiếu vi chất dinh dưỡng, và các bệnh
nhiễm khuẩn(2) .Có rất nhiều vấn đề cần quan
tâm, đặc biệt là vấn đề cho trẻ ăn bổ sung (ăn
dặm) đúng lúc và đúng cách. Phòng Khám Dinh
Dưỡng của bệnh viện Nhi đồng 2 tiếp nhận rất
nhiều thân nhân bệnh nhi đến tham vấn về vấn
đề nuôi dưỡng trẻ, trong đó có khá nhiều bệnh
nhi ở lứa tuổi từ 6 – 24 tháng tuổi. Chúng tôi tiến
hành nghiên cứu: “Khảo sát thời điểm thực hành
ăn bổ sung cho trẻ từ 6 – 24 tháng tuổi đến khám
tại Phòng Khám Dinh Dưỡng Bệnh Viện Nhi
Đồng 2”. Trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp
can thiệp để cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho
trẻ nhóm tuổi ăn bổ sung.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung
Tìm hiểu về tình trạng dinh dưỡng và thời
điểm ăn bổ sung ở trẻ em từ 6 – 24 tháng tuổi
đến khám tại Phòng Khám Dinh Dưỡng Bệnh
Viện Nhi Đồng 2.
Mục tiêu chuyên biệt
Xác định đặc điểm dịch tễ học của các trẻ từ
6 – 24 tháng tuổi đến khám tại Phòng Khám
Dinh Dưỡng Bệnh Viện Nhi Đồng 2.
Xác định tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
Xác định tỉ lệ các thời điểm thực hành ăn bổ
sung cho trẻ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Trẻ em từ 6 – 24 tháng tuổi và người trực
tiếp nuôi dưỡng trẻ đến khám tại Phòng khám
dinh dưỡng Bệnh Viện Nhi Đồng 2.
Thời gian nghiên cứu
Tháng 6-8/2010.
Phương pháp lấy mẫu
Thuận tiện.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Trẻ 6-24 tháng tuổi đến khám Dinh dưỡng,
không mắc các bệnh mạn tính, bẩm sinh, có
người chăm sóc trực tiếp đi cùng, đồng ý trả lời
phỏng vấn.
Tiêu chuẩn loại trừ
Ngoài lứa tuổi trên, không có người chăm
sóc trực tiếp đi cùng, có bệnh lý mạn tính bẩm
sinh, không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu
Tính theo công thức
Z2 1-α/2 P(1-P)
N= ------------------------ = 297
d2
Với α: xác suất sai lầm loại 1, α =0.05
P: trị số mong muốn của tỉ lệ, theo NC tại
Phú thọ, lấy P=0.737 (tỉ lệ trẻ cho ăn bổ sung sớm
trước 4 tháng tuổi)(3).
d: sai số cho phép, d= 0.05
Thu thập số liệu
Phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi.
Xử lý số liệu
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS
11.5 for Windows.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Có 252 trẻ đủ tiêu chuẩn được nhận vào lô
nghiên cứu trong đó có 122 nam (48,4%), 130 nữ
(51,6%).
Lứa tuổi: 6 – 9 tháng tuổi :84 trẻ (33,3%); 10–
12 tháng: 57 trẻ (22,6%); 13 – 18 tháng tuổi: 72 trẻ
( 28,6%), 19 – 24 tháng: 39 trẻ (15,5%).
Như vậy, trẻ càng nhỏ càng được sự quan
tâm của phụ huynh. Trẻ gặp nhiều vấn đề về
nuôi dưỡng hơn vào giai đoạn tập ăn dặm (6-9
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 3
tháng tuổi) và giai đoạn tập đi tập nói (13-18
tháng tuổi) nên cần đến tham vấn dinh dưỡng.
Biểu đồ 1: Đặc điểm dịch tễ học
Thành phố Hồ Chí Minh: 36,9. Tỉnh khác là
63,1%.
Điều này cho thấy các trẻ ở Tỉnh có vấn đề
về dinh dưỡng cao hơn các trẻ ở Thành phố Hồ
Chí Minh (TPHCM). Điều này phù hợp với báo
cáo của Trung tâm Dinh Dưỡng TPHCM: tỉ lệ
SDD ở trẻ < 5 tuổi tại TPHCM thấp nhất trong cả
nước.
Nguyên nhân đến khám: phần lớn vì lý do
dinh dưỡng (biếng ăn, không lên cân, chậm lên
cân) hoặc vì các rối loạn ăn uống khi mắc bệnh
cấp tính (hô hấp, tiêu hóa,).
Tất cả trẻ đều đã được cho ăn dặm.
Bảng 1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ
Tình trạng DD Số lượng trẻ Tỷ lệ %
Bình thường 77 30,6
Dọa SDD 91 36,1
SDD1 61 27,0
SDD2 16 6,3
Tổng cộng 252 100%
Nhận xét: Tỷ lệ SDD độ 1, SDD độ 2 cao hơn
nhiều so với tổng kết năm 2009 về SDD ở
TPHCM (5,9%), vì đây là nhóm bệnh nhi có vấn
đề về dinh dưỡng nên mới đến khám tại bệnh
viện. Tuy nhiên, từ con số 33,3% trẻ bị SDD và
36,1% trẻ bị dọa SDD cho thấy tình trạng của trẻ
em dưới 2 tuổi và các khu vực lân cận còn nhiều
vấn đề cần giải quyết. Hiện nay, tỉ lệ SDD ở trẻ
dưới 5 tuổi của Việt Nam đã giảm nhiều, từ
38,7% năm 1999 còn 18,9% năm 2009. Tuy nhiên,
tỷ lệ trẻ SDD mạn (thấp còi) vẫn còn rất cao
31,9% năm 2009. Để giảm tỷ lệ SDD thấp còi, cần
có can thiệp dinh dưỡng đúng đắn từ rất sớm, từ
lúc mang thai, cho con bú và ăn bổ sung đúng.
Nếu khảo sát tỉ lệ trẻ có bất thường dinh
dưỡng theo lứa tuổi, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ
cao vẫn là ở nhóm 6-9 tháng tuổi và 13-18 tháng
tuổi tuy nhiên bất thường nhiều nhất là ở nhóm
13-18 tháng tuổi. Đây là lứa tuổi bắt đầu làm
quen với nhiều loại thức ăn, lại hay biếng ăn do
ham chơi. Vì vậy. trong kế hoạch chống SDD trẻ
em nên chú ý hơn đến nhóm tuổi này.
Biểu đồ 2: Tỉ lệ trẻ có vấn đề tình trạng dinh dưỡng
theo từng lứa tuổi
Biểu đồ 3. Thời điểm cho ăn bổ sung
Nhận xét: Đa số trẻ được ăn bổ sung trong
thời điểm từ 4 – 6 tháng tuổi, vẫn còn 10,7% trẻ
ăn bổ sung quá sớm (dưới 4 tháng tuổi) và chỉ có
4,4% trẻ được cho ăn bổ sung vào đúng thời
điểm khuyến cáo hiện nay (trên 6 tháng tuổi).
Hiện nay các bà mẹ phải đi làm lại sau 4
tháng nghỉ hậu sản, do đó trẻ cũng thường được
cho ăn dặm khi tròn 4 tháng. Theo khuyến nghị
mới nhất của Hội dinh dưỡng, tiêu hóa và gan
mật Châu Âu và Châu Mỹ nên cho trẻ bú mẹ
hoàn toàn đến 6 tháng tuổi. Còn đối với trẻ bú
sữa công thức thì thời điểm cho ăn dặm thích
hợp nhất là 16 – 27 tuần, để đảm bảo cung cấp
đủ nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ và hạn chế nguy
cơ mắc các bệnh dị ứng.
Trong nghiên cứu còn 10,7% trẻ được cho ăn
dặm quá sớm (trước 4 tháng tuổi). Như vậy, cần
tuyên truyền rộng rãi hơn trong cộng đồng để
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 4
giảm tỷ lệ cho trẻ ăn dặm quá sớm. Và ăn dặm
quá sớm cũng là lý do làm trẻ rối loạn tiêu hóa,
kém hấp thu và có thể gây ra suy dinh dưỡng
cho trẻ về sau.[1,2] Nghiên cứu tại Phú thọ cho
thấy: Hết tháng thứ 3 có 73,7% số trẻ đã được
cho ăn bổ sung. Ngoài ra, so với kết quả Khảo
sát thực hành chăm sóc dinh dưỡng ở trẻ dưới 6
tháng tuổi đến khám lần đầu tại PKDD BVNĐ2
năm 2008 – 2009, có 32% trẻ được cho ăn quá
sớm (trước 4 tháng tuổi) (3) tỉ lệ cho trẻ ăn bổ
sung quá sớm hiện nay đã thấp hơn nhiều,
chứng tỏ công tác truyền thông dinh dưỡng đã
có hiệu quả hơn so với 2 năm trước.
Biểu đồ 4. Thời điểm cho ăn cháo
Nhận xét: Các trẻ trên 9 tháng tuổi đã có sự
phát triển về vận động và ngôn ngữ nhiều hơn
nên nhu cầu dinh dưỡng đòi hỏi cao hơn. Hơn
nữa, trẻ đã có mọc răng và có thể ăn được một
vài thức ăn lơn cợn khác ngoài bột để tập nhai,
giúp không biếng ăn về sau. Đây là thời điểm
có thể tập cho trẻ ăn cháo. Thời điểm ăn cháo
của trẻ cũng đóng một vai trò không nhỏ đối
với tình trạng dinh dưỡng. Nếu ăn cháo quá
sớm cũng có thể chậm lên cân do đậm độ năng
lượng thấp hơn trong bột.
Có 221/252 trẻ đã được cho ăn cháo
(87,7%). Trong đó, đa số trẻ được cho ăn cháo
trước 9 tháng tuổi (81,9%), số trẻ được cho ăn
cháo đúng thời điểm hiện nay đang khuyến
nghị chỉ chiếm 18,1% và không có trẻ nào bị
bắt đầu cho ăn cháo trễ (từ sau 18 tháng tuổi).
Biểu đồ 5. Thời điểm ăn cơm
Nhận xét: Cần thiết cho trẻ ở lứa tuổi từ 18
tháng tuổi trở lên. thời điểm thích hợp cho trẻ
ăn cơm là khi trẻ đã có răng hàm và có khả
năng nhai cơm. Do đó, khi trẻ có 4 răng hàm
(18 – 24 tháng tuổi) có thể cho ăn cơm nát và
khi trẻ có 8 răng hàm (24 – 36 tháng tuổi) là lúc
cho ăn cơm hạt như người lớn. Nếu ăn cơm
quá sớm sẽ gây cho trẻ bị rối loạn tiêu hóa,
kém hấp thu, biếng ăn dẫn đến SDD vì hệ tiêu
hóa của trẻ chưa hoàn thiện. Còn nếu ăn cơm
trễ trẻ sẽ bị thiếu chất và SDD.
Có 62/252 trẻ trong khảo sát đã được cho ăn
cơm. Trong đó, tỷ lệ được cho ăn cơm đúng theo
thời điểm hiện nay đang khuyến nghị chỉ có
19,4% và tỷ lệ trẻ được cho ăn cơm sớm (dưới 18
tháng tuổi) chiếm phần lớn (80,6%), điều này
cũng giải thích cho kết quả tỷ lệ SDD và dọa
SDD cao ở nhóm trẻ này.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát trên 252 trẻ chúng tôi nhận
thấy:
Tỷ lệ trẻ có vấn đề về tình trạng dinh dưỡng
chiếm 69,4%, cao ở lứa tuổi từ 6 – 18 tháng tuổi,
cao nhất là ở lứa tuổi 13 – 18 tháng tuổi.
Thời điểm ăn bổ sung: Có 10,7% trẻ được
cho ăn sớm (dưới 4 tháng tuổi).
Thời điểm ăn cháo: 81,9% trẻ được cho ăn
cháo từ dưới 9 tháng tuổi.
Thời điểm ăn cơm: có 19,4% trẻ được ăn
đúng theo thời điểm khuyến nghị .
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 5
KIẾN NGHỊ
Tăng cường các lớp tập huấn về thực hành
ăn bổ sung cho trẻ từ 6 – 24 tháng tuổi: ăn đúng
thời điểm khuyến nghị, khẩu phần ăn đủ bốn
nhóm chất .
Cần chú trọng giáo dục dinh dưỡng nhiều
hơn cho nhóm trẻ 13-18 tháng tuổi.
Các can thiệp trên cộng đồng cần chú trọng
hơn nữa đến các vấn đề về dinh dưỡng có liên
quan đến ăn bổ sung để thiết kế thông điệp
truyền thông phù hợp, tăng cường phương pháp
tư vấn trực tiếp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 American Academy of Pediatrics. Complementary feeding
(2009). Pediatric Nutrition Hanbook. P113-144.
2 Hendricks KM (2003). Weaning: Pathophysiology, Practice,
and Policy. Nutrition in Pediatrics. BC Decker Inc. p.528-538..
3 Trần Thị Hoài Phương, Nguyễn Thị Kim Hoàng, Nguyễn Thị
Kiều Thu, Mai Quang Huỳnh Mai, Nguyễn Thị Thu Hậu
(2010). Khảo sát thực hành chăm sóc dinh dưỡng ở trẻ dưới 6
tháng tuổi đến khám lần đầu tại Phòng khám dinh dưỡng
Bệnh viện Nhi Đồng 2 năm 2008 – 2009. Y học Thành Phố Hồ
Chí Minh.13(5): p.98-104
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 6
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 7
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thoi_diem_an_bo_sung_o_tre_tu_6_24_thang_tuoi_den_kham_dinh.pdf