Kiến nghị bảo đảm thực hiện các
quy định của pháp luật
Một là, thực hiện và kiểm tra, giám sát
chặt chẽ việc thực hiện quy định về trách
nhiệm giải trình, kê khai tài sản, thu nhập và
kiểm soát chặt chẽ việc kê khai tài sản đối
với cán bộ, công chức được bổ nhiệm vào
chức vụ lãnh đạo. Cơ quan có thẩm quyền
phải xác minh bản kê khai tài sản, thu nhập
của người được giới thiệu bổ nhiệm trước
khi tiến hành làm quy trình bổ nhiệm, cần
phải xem đây là điều kiện về hồ sơ bổ nhiệm
cán bộ, công chức (theo điểm b, khoản 1
Điều 40 Nghị định số 24).
Hai là, tăng cường trách nhiệm người
đứng đầu và phân định rõ ràng trách nhiệm
NĐĐ với Ban lãnh đạo, với tập thể cơ quan,
đơn vị trên nguyên tắc đề cao trách nhiệm
của NĐĐ, quyền hạn gắn với trách nhiệm
theo chế độ cá nhân thủ trưởng chịu trách
nhiệm trong việc thực hiện quy định về đánh
giá, thực hiện quy trình bổ nhiệm cán bộ,
công chức lãnh đạo trong cơ quan, đơn vị.
Ba là, người đứng đầu cơ quan, đơn vị
thực hiện đồng bộ các khâu bổ nhiệm cán
bộ, công chức vào vị trí lãnh đạo từ khâu
chuẩn bị hồ sơ, tiến hành làm quy trình bổ
nhiệm cán bộ, đúng, đầy đủ các bước trên
nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch;
phân định rõ trách nhiệm của NĐĐ với Ban
lãnh đạo, tập thể cơ quan đơn vị trong từng
bước của quy trình bổ nhiệm cán bộ.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 352 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực hiện quy định của pháp luật về bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo trong cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
43Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1. Thực trạng quy định của pháp luật về
bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo trong
cơ quan nhà nước ở nước ta hiện nay
Công tác cán bộ là tổng thể các biện
pháp của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn
thể như xây dựng những tiêu chuẩn về cán
bộ; quy hoạch cán bộ; tuyển dụng, sử dụng,
đánh giá; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân
chuyển, điều động cán bộ; bổ nhiệm, đề bạt,
khen thưởng, kỷ luật cán bộ nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ có cơ cấu hợp lý, đáp
ứng những yêu cầu về phẩm chất chính trị,
đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ. Các quy
định về bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh
đạo là một bộ phận của pháp luật về cán bộ,
công chức; bao gồm các quy định của pháp
luật về tiêu chuẩn bổ nhiệm, về quy trình bổ
nhiệm, về đánh giá, về trách nhiệm của
người đứng đầu (NĐĐ), về chế tài áp dụng
đối với hành vi vi phạm pháp luật trong công
tác bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo.
Về hình thức, quy định của pháp luật có
liên quan đến công tác bổ nhiệm cán bộ,
công chức lãnh đạo được thể hiện trong
THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỔ NHIỆM
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC LÃNH ĐẠO TRONG CƠ QUAN NHà NƯớC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Hoàng Minh Hội *
* TS. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Bổ nhiệm cán bộ, công chức
lãnh đạo; pháp luật về cán bộ, công
chức.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 29/03/2020
Biên tập : 11/042020
Duyệt bài : 14/04/2020
Article Infomation:
Key words: Appointment of cadres,
leading officials, legal regulations on
cadres, governmental officials.
Article History:
Received : 29 Mar. 2020
Edited : 11 Apr. 2020
Approved : 14 Apr. 2020
Tóm tắt:
Thời gian qua, có xảy ra hiện tượng chạy chức, chạy quyền và
những tiêu cực trong công tác bổ nhiệm cán bộ, công chức ở một
số địa phương đã gây bất bình trong nhân dân và dư luận. Một
trong những nguyên nhân của thực trạng này là do nhiều quy
định của pháp luật có liên quan còn bất cập, hạn chế. Bài viết
này phân tích thực trạng pháp luật, thực trạng tổ chức thực hiện
quy định của pháp luật về bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo
trong cơ quan nhà nước ở nước ta và đề xuất một số giải pháp.
Abstract:
There recently years happened a phenomenon of illegal lobbying
for position and power and negativenessess in the appointment
of cadres and governmental officials in localities, which has
caused discontent among the people and public opinion. One of
the causes of this situation is that relevant laws contain several
inadequacies and shortcomings. This article provides analysis of
the current status of the laws, the enforcement of the provisions
of law on the appointment of leading cadres and governmental
officials in public agencies and recommended solutions.
Số 8(408) - T4/202044
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
nhiều văn bản quy phạm pháp luật có hiệu
lực pháp lý khác nhau nhưng chủ yếu là Luật
Tổ chức Chính phủ; Luật Cán bộ, công chức;
Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Bộ
luật Hình sự; Luật Phòng, chống tham nhũng
và các văn bản dưới luật. Đó là các pháp
lệnh, nghị định, quyết định, thông tư
Các quy định về tiêu chuẩn, quy trình,
thẩm quyền, bổ nhiệm cán bộ, công chức
lãnh đạo được quy định Luật Cán bộ, công
chức năm 2008 (Điều 51), được hướng dẫn
chi tiết tại Nghị định số 24/2010/NĐ-CP của
Chính phủ (Nghị định số 24) và Quyết định
số 27/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Quy chế bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm
cán bộ, công chức lãnh đạo (Quyết định số
27). Theo Báo cáo số 330/BC-CP năm 2016
của Chính phủ về Tổng kết 10 năm thực hiện
Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN)
năm 2005, thời gian qua “các bộ, ngành, địa
phương đã bổ sung, hoàn thiện quy định về
công tác cán bộ, bảo đảm công khai, minh
bạch, nhất là trong bổ nhiệm, tuyển dụng cán
bộ, công chức, giới thiệu cán bộ ứng cử vào
các vị trí lãnh đạo, quản lý của các cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội; công tác
thi tuyển, tiếp nhận cán bộ, công chức đã
được quan tâm chấn chỉnh”1.
Nhóm quy định trách nhiệm của người
đứng đầu (NĐĐ) trong công tác cán bộ như
Nghị định số 157/2007/NĐ-CP (khoản 5
Điều 7, khoản 1 Điều 6), Nghị định
56/2015/NĐ-CP (Điều 6, Điều 24). Theo đó,
NĐĐ và cấp phó của NĐĐ cơ quan, tổ chức,
đơn vị của Nhà nước nếu vi phạm chế độ
trách nhiệm tùy theo tính chất và mức độ của
hành vi vi phạm, phải chịu một hoặc nhiều
hình thức trách nhiệm kỷ luật; trách nhiệm
dân sự; trách nhiệm vật chất; trách nhiệm
hình sự và trách nhiệm khác theo quy định
của pháp luật.
Luật PCTN năm 2018 đã mở rộng đối
tượng phải kê khai tài sản, thu nhập; yêu cầu
kê khai tài sản để phục vụ công tác cán bộ
được thực hiện đối với những người khi dự
kiến bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại,
cử giữ chức vụ khác (Điều 36, Điều 42).
Luật yêu cầu NĐĐ, cấp phó của NĐĐ cơ
quan không được bố trí người thân trong gia
đình của mình giữ chức vụ quản lý về tổ
chức nhân sự. Người có chức vụ, quyền hạn
không được trực tiếp hoặc gián tiếp nhận quà
tặng dưới mọi hình thức (khoản 2 Điều 22).
Luật cũng đã bổ sung các biện pháp phòng,
ngừa hành vi tiêu cực trong công tác cán bộ
như “không bố trí, đề bạt, bổ nhiệm những
người có quan hệ gia đình cùng làm một số
công việc, lĩnh vực nhạy cảm dễ xảy ra tham
nhũng, tiêu cực”2 (Điều 20). Người đứng
đầu, cấp phó của NĐĐ cơ quan, tổ chức, đơn
vị không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ,
con, anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ
quản lý về tổ chức nhân sự trong cơ quan,
đơn vị (Khoản 3 Điều 20).
Một số văn bản quy phạm pháp luật quy
định những chế tài áp dụng nghiêm khắc
nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi
tham nhũng trong công tác cán bộ. Cụ thể,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm
2019 quy định biện pháp xử lý mọi hành vi
vi phạm trong thời gian công tác của cán bộ,
công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu (khoản 5
Điều 84). Luật PCTN năm 2018 quy định
người có hành vi tham nhũng giữ bất kì chức
vụ, vị trí công tác nào đều phải bị xử lý
nghiêm minh theo quy định của pháp luật,
kể cả người đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển
công tác (Điều 92). Bộ luật Hình sự năm
2015 quy định về “Tội nhận hối lộ” (Điều
354), “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành công vụ” (Điều 356), “Tội
lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng
1 Chính phủ (2016), Báo cáo số 330/BC-CP về tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, tr.8.
2 Chính phủ (2017), Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 29/11/2017 của Chính phủ về Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng đến năm 2020.
45Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
đối với người khác để trục lợi (Điều 358),
“Tội đưa hối lộ” (Điều 364), “Tội môi giới
hối lộ” (Điều 364)
Bên cạnh những kết quả đạt được trên
đây, các quy định của pháp luật về bổ nhiệm
cán bộ, công chức lãnh đạo tồn tại những bất
cập sau:
Thứ nhất, các quy định về tiêu chuẩn bổ
nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo chưa
thống nhất. Hiện nay, tiêu chuẩn và điều kiện
bổ nhiệm công chức được quy định tại Điều
40 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP của Chính
phủ. Trên cơ sở đó các đơn vị, địa phương
căn cứ vào phân cấp về quản lý cán bộ ban
hành quy chế bổ nhiệm nhưng trên thực tế
“xảy ra tình trạng cùng một chức vụ như
nhau nhưng tiêu chuẩn ở mỗi địa phương lại
khác nhau”3. Tiêu chuẩn bổ nhiệm và quy
trình thực hiện do nhiều cơ quan ban hành
như tiêu chuẩn về chức danh trưởng cơ quan
chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện theo Luật
Cán bộ, công chức năm 2008 và Quyết định
số 27/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ. Trong khi đó, tiêu chuẩn và quy trình
bổ nhiệm Ủy viên Ủy ban nhân dân (UBND)
theo hướng dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc
hội nhưng lại “chưa có hướng dẫn thực hiện
chức danh nào trước, chức danh nào sau;
trường hợp đã bầu mà không trúng vào Ủy
viên UBND thì có tiếp tục giữ chức vụ thủ
trưởng cơ quan chuyên môn không; thời
gian giữ chức vụ theo thời gian bổ nhiệm
hay theo nhiệm kỳ bầu HĐND, UBND”4.
Thứ hai, quy định về quy trình bổ nhiệm
cán bộ lãnh đạo, quản lý với nhiều bước được
kiểm soát chặt chẽ, với nhiều chủ thể tham
gia đã góp phần tăng cường kiểm soát quyền
lực trong công tác cán bộ; góp phần chống
chạy chức chạy quyền. Tuy nhiên, các quy
định của pháp luật về quy trình bổ nhiệm cán
bộ lãnh đạo, quản lý còn thiếu các công cụ
đánh giá về năng lực công tác, hoặc kinh
nghiệm của người được bổ nhiệm. Hơn nữa,
quy định pháp luật chưa thật sự đề cao vai trò,
trách nhiệm của NĐĐ trong việc bổ nhiệm
công chức lãnh đạo, quản lý nên khi có hành
vi vi phạm xảy ra khó xác định trách nhiệm
thuộc về cá nhân NĐĐ hay tập thể. Khi quy
trình bổ nhiệm “có quá nhiều người tham gia
và kết quả là khi xảy ra sai sót sẽ không có ai
chịu trách nhiệm cá nhân, mà là “cộng đồng
trách nhiệm”5. Quy trình tuyển dụng, bổ
nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý “chưa hơp̣
lý, chưa lựa chọn được đúng người, dùng vào
đúng việc, chưa tạo điều kiện để cán bộ, công
chức, viên chức phát huy hết năng lực, sở
trường”6. Ngày càng nhiều cán bộ, công chức
lãnh đạo, thậm chí cán bộ cấp cao vi phạm
pháp luật bị xử lý thậm chí xử lý hình sự liên
quan đến công tác cán bộ cho thấy quy định
pháp luật về lĩnh vực này cần phải khẩn
trương hoàn thiện.
Thứ ba, quy định về đánh giá người
được bổ nhiệm, đánh giá cán bộ, công chức
lãnh đạo chưa cụ thể, chưa sát với các nhóm
đối tượng. Các quy định này còn nặng nề
thành tích và văn bằng chứng chỉ, chưa chú
trọng nhiều đến năng lực thực thi công vụ
của cán bộ, công chức. Tại Tờ trình dự án
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm
2019, Bộ Nội vụ nhận định “các quy định về
đánh giá, phân loại còn thiếu sự gắn kết giữa
các tiêu chí đánh giá, phân loại với kết quả
thực hiện công việc theo vị trí việc làm. Các
quy định về đánh giá, phân loại cán bộ, công
chức, viên chức còn có sự khác nhau giữa
quy định của Đảng với quy định của Nhà
3 Bộ Nội vụ: Báo cáo số 4201/BC-BNV về tổng kết thi hành Luật Cán bộ, công chức, tr.10.
4 Bộ Nội vụ, Báo cáo số 4201/BC-BNV về tổng kết thi hành Luật Cán bộ, công chức, tr.10.
5 https://viettimes.vn/ban-ve-do-tuoi-va-quy-trinh-lua-chon-can-bo-382441.html.
6 Quốc hội Khóa XIV (2017): Báo cáo số 08/BC-ĐGS về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp
luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2016, tr.46.
Nguồn:
Số 8(408) - T4/202046
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
nước”7. Trong khi đó, một số địa phương
“chưa xây dựng được tiêu chí đánh giá tiêu
chuẩn, điều kiện và mức độ hoàn thành
nhiệm vụ công việc cụ thể. Việc đánh giá chỉ
dựa trên tình cảm, chung chung với nhau,
thậm chí có tình trạng nể nang”8.
Thứ tư, pháp luật chưa phân định rõ
trách nhiệm của NĐĐ với tập thể cơ quan,
đơn vị. Trên thực tế ở nhiều địa phương, thời
gian qua có hiện tượng bổ nhiệm sai, bổ
nhiệm rồi dư thừa cấp phó rất nhiều nhưng
NĐĐ không chịu trách nhiệm. Thời gian vừa
qua, việc thực hiện quy định pháp luật về bổ
nhiệm cán bộ có nhiều sai phạm, “cá biệt có
địa phương có tình trạng bổ nhiệm nhiều
người nhà vào các chức danh lãnh đạo, gây
bức xúc trong dư luận xã hội”9. Pháp luật
cũng chưa có biện pháp để NĐĐ thực sự có
những giải pháp chủ động, mạnh dạn trong
sử dụng và quản lý cán bộ thuộc quyền.
Thực trạng này được Bộ trưởng Bộ Nội vụ
nhận định trong phiên trả lời chất vấn tại kỳ
họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII, ngày
18/10/2014: “ một số cơ quan, tổ chức có
quá nhiều cấp phó mà không thực sự xuất
phát từ nhu cầu, thậm chí đây là hậu quả của
việc bổ nhiệm bởi một lý do nào đó”10.
Thứ năm, chưa có đầy đủ các quy định
về xử lý đối với những người lạm quyền,
lộng quyền khi ban hành các quyết định bổ
nhiệm sai quy định hoặc có nhưng chưa đủ
sức răn đe đối với hành vi lạm quyền, lộng
quyền, chạy chức, chạy quyền. Trước khi
được sửa đổi, bổ sung năm 2018, Luật
PCTN năm 2012 “chưa ghi nhận chế tài thu
hồi quyết định bổ nhiệm sai đối với NĐĐ”11.
Một số quy định của pháp luật không thống
nhất, đồng bộ với các quy định của Đảng nên
khó xử lý đối với những hành vi vi phạm
pháp luật của cán bộ, công chức là đảng
viên. Cụ thể, trước khi sửa đổi, bổ sung một
số điều, Luật Cán bộ, công chức năm 2008
quy định “thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng
kể từ thời điểm có hành vi vi phạm và khi
hết thời hiệu thì không bị xử lý vi phạm. Tuy
nhiên, trong thực tế, qua việc thanh tra, kiểm
tra, tố giác của quần chúng nhân dân, có
nhiều trường hợp đã bị xử lý kỷ luật về Đảng
hoặc đã bị xử lý hình sự nhưng không chịu
hình thức phạt tù, khi xét kỷ luật theo quy
định của Luật thì đã hết thời hiệu nên không
xử lý được”12. Nhiều quy định hướng dẫn
thực hiện Luật Cán bộ, công chức nhưng
thiếu tính thống nhất, đồng bộ với Luật nên
khó thực hiện. Một số quy định chậm được
ban hành nên nguyên tắc hành vi vi phạm
phải bị xử lý “chưa được quy định. Các quy
định về áp dụng hình thức kỷ luật còn chung
chung, khó áp dụng”13.
Thứ sáu, biện pháp chế tài hình sự áp
dụng đối với hành vi vi phạm pháp luật trong
công tác cán bộ cũng chưa hợp lý. Thực chất
những hành vi chạy chức, chạy quyền là
hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ.
Tuy nhiên, hành vi này có những đặc điểm
riêng, tinh vi hơn. Xu hướng hiện nay, nếu
hành vi này đến mức xử lý trách nhiệm hình
sự thì thường bị xem xét ở các tội “Tội nhận
hối lộ” (Điều 354), “Tội đưa hối lộ” (Điều
364), “Tội môi giới hối lộ” (Điều 364) trong
Bộ luật Hình sự năm 2015 mà chưa được ghi
nhận thành một điều độc lập, hay chưa được
coi là tình tiết tăng nặng của các tội này.
7 Chính phủ (2019), Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật
Viên chức, tr.3.
8 https://plo.vn/thoi-su/bo-nhiem-5-buoc-7-bang-lieu-co-chon-dung-nguoi-868897.html.
9 Quốc hội Khóa XIV (2017): Báo cáo số 08/BC-ĐGS về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp
luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011- 2016, tr.49.
Nguồn:
10
11
12
13 Bộ Nội vụ (2018), Báo cáo số: 4201/BC-BNV về tổng kết thi hành Luật Cán bộ, công chức.
47Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Trong khi đó, có ý kiến cho rằng, khi áp
dụng Bộ luật Hình sự về các nhóm tội hối lộ
“nhìn chung còn hai khuynh hướng xử lý: xử
quá nhẹ và xử quá nặng, nhưng khuynh
hướng xử phạt nhẹ hơn so với tội đang có vẻ
chủ đạo. Không ít trường hợp, một vụ án
nhận hối lộ có tính chất nghiêm trọng, lẽ ra
phải áp dụng hình phạt nặng theo đúng trách
nhiệm hình sự, song kẻ phạm tội lại được áp
dụng hình phạt nhẹ hơn, không tương xứng
với hành vi phạm tội”14.
2. Thực trạng thực hiện quy định của
pháp luật về bổ nhiệm cán bộ, công chức
lãnh đạo trong cơ quan nhà nước ở nước
ta hiện nay
Quốc hội, với chức năng của mình, đã
thực hiện nhiệm vụ giám sát việc thực hiện
chính sách, pháp luật trong công tác tuyển
dụng, đào tạo, bổ nhiệm đối với đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức. Qua thực hiện
nhiệm vụ giám sát công tác cán bộ của Quốc
hội cho thấy “công tác đánh giá cán bộ, công
chức, viên chức còn mang tính hình thức,
thiếu thực chất, vẫn còn tình trạng nể nang,
cào bằng trong đánh giá. Chưa có cơ chế bảo
đảm gắn quyền hạn với trách nhiệm để NĐĐ
có thể thực hiện mạnh mẽ việc đổi mới tổ
chức bộ máy và tinh giản biên chế”15. Đồng
thời, Quốc hội yêu cầu “không để tình trạng
tỷ lệ cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý
ngang bằng hoặc nhiều hơn số công chức
thừa hành. Các quyết định thành lập đơn vị,
bổ nhiệm cán bộ không đúng tiêu chí phải bị
thu hồi, hủy bỏ”16, bảo đảm mọi hành vi vi
phạm phải được xử lý nghiêm minh.
Chính phủ thực hiện tốt chức năng quản
lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức
và công vụ trong các cơ quan nhà nước, đơn
vị sự nghiệp công lập; quản lý biên chế công
chức, số lượng người làm việc trong các cơ
quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp
công lập từ trung ương đến địa phương. Nhiều
địa phương, cơ quan, đơn vị, các cơ quan có
thẩm quyền đã tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát, thanh tra công tác bổ nhiệm cán bộ,
công chức lãnh đạo; xử lý kịp thời, nghiêm
minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật
của Đảng, pháp luật của Nhà nước có những
hành vi vi phạm trong công tác cán bộ, có
những hành vi chạy chức, chạy quyền. Các cơ
quan có thẩm quyền đã hủy bỏ, thu hồi nhiều
quyết định không đúng về công tác cán bộ.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên
đây, thực hiện quy định của pháp luật về bổ
nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo còn tồn
tại những bất cập:
Năm 2018, Báo cáo tổng kết thi hành
Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Bộ Nội
vụ nhận định “việc xử lý kỷ luật cán bộ đối
với cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận khác
nhau nhưng chưa có những hướng dẫn cụ
thể Ủy ban thường vụ Quốc hội chưa ban
hành văn bản quy định cụ thể việc áp dụng
hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục xử lý kỷ
luật đối với cán bộ theo quy định của Luật
Cán bộ, công chức”17. Trong thực tiễn thực
hiện pháp luật về xử lý hành vi vi phạm
trong công tác cán bộ gặp nhiều khó khăn
đối với các đối tượng đã nghỉ hưu, hoặc
chuyển công tác, nghỉ việc, hoặc do thời hiệu
đã hết. Nguyên nhân là do nhiều quy định
“chưa thống nhất, áp dụng vào thực tiễn còn
nhiều khoảng trống, ảnh hưởng đến hiệu quả
quản lý cán bộ, công chức”18.
14
15 Quốc hội Khóa XIV (2017), Báo cáo số 08/BC-ĐGS về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp
luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2016, tr.47. Nguồn:
16 Quốc hội Khóa XIV (2017), Báo cáo số 08/BC-ĐGS về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp
luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2016, tr.66. Nguồn:
17 Bộ Nội vụ (2018), Báo cáo số: 4201/BC-BNV về tổng kết thi hành Luật Cán bộ, công chức, tr.11.
18 Bộ Nội vụ (2018), Báo cáo số: 4201/BC-BNV về tổng kết thi hành Luật Cán bộ, công chức, tr.11.
Số 8(408) - T4/202048
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Một số địa phương chưa ban hành các
văn bản hướng dẫn về tiêu chuẩn cụ thể khi
đánh giá cán bộ, công chức nên dẫn đến tình
trạng đối tượng được đánh giá chung chung,
nể nang. Việc chậm ban hành các văn bản
hướng dẫn thực hiện pháp luật trong công
tác cán bộ làm cho công tác quản lý cán bộ
và xử lý trách nhiệm cán bộ, công chức khi
có vi phạm “còn gặp khó khăn, lúng túng
trong việc xử lý khi có vụ việc tham nhũng,
tiêu cực xảy ra”19. Một số địa phương có
hành vi vi phạm trong công tác cán bộ như
lợi dụng quyền lực của mình để tác động,
can thiệp, chi phối, thao túng công tác cán
bộ nhưng cơ quan có thẩm quyền chưa quyết
tâm chỉ đạo hoặc thu hồi theo thẩm quyền
các quyết định về công tác cán bộ không
đúng, không phù hợp. Nhiều đơn vị, địa
phương chưa kịp thời kiểm điểm, làm rõ
trách nhiệm tổ chức, cá nhân có liên quan
đến những vi phạm trong bổ nhiệm cán bộ.
Cùng với những bất cập trên, việc phân
công, phân cấp, phân quyền giữa các cấp,
các cơ quan chưa đi kèm với “ràng buộc
trách nhiệm, với tăng cường kiểm tra, giám
sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát
chặt chẽ quyền lực. Chưa có biện pháp hữu
hiệu để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực
trong công tác cán bộ. Thiếu chặt chẽ, hiệu
quả trong phối hợp kiểm tra, thanh tra, giám
sát và xử lý vi phạm”20. Từ những bất cập
trong các quy định của pháp luật, thực hiện
pháp luật về bổ nhiệm cán bộ, công chức
lãnh đạo có thể khẳng định rằng: “hệ quả của
việc thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu
quả là đã xảy ra tình trạng lợi dụng chức vụ
để tham nhũng, lộng quyền dẫn tới gây thiệt
hại tài sản của Nhà nước, lợi ích nhóm, ồ ạt
bổ nhiệm người nhà, người thân vào các vị
trí quan trọng... gây ảnh hưởng lớn đến uy
tín của Đảng, Nhà nước”21 trong công tác bổ
nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo.
Tồn tại những bất cập, hạn chế về thực
hiện các quy định của pháp luật về bổ nhiệm
cán bộ, công chức lãnh đạo ở nước ta là do
nhiều nguyên nhân. Trước hết là do những
hạn chế trong các quy định của pháp luật
chưa được khắc phục. Một số văn bản quy
phạm pháp luật mới được ban hành chưa có
văn bản hướng dẫn thực hiện. Bên cạnh đó,
chưa có cơ chế phân địch rõ ràng thẩm
quyền và trách nhiệm giữa NĐĐ cơ quan,
đơn vị với NĐĐ cấp ủy; giữa cá nhân NĐĐ
cơ quan, đơn vị với tập thể đơn vị trong quy
trình bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo.
Ngoài ra, hoạt động kiểm tra, giám sát việc
thực hiện pháp luật chưa thường xuyên, khi
phát hiện sai phạm trong công tác bổ nhiệm
cán bộ, công chức lãnh đạo, cơ quan có thẩm
quyền chưa nhanh chóng xử lý.
3. Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện
pháp luật và bảo đảm thực hiện các quy
định của pháp luật về bổ nhiệm cán bộ,
công chức lãnh đạo trong cơ quan nhà
nước ở nước ta hiện nay
3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, khẩn trương rà soát, sửa đổi,
bổ sung, thể chế hóa nội dung và nguyên tắc
kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác
cán bộ (được quy định tại Nghị quyết số
26-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII; Quy định
số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ
Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong
công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy
quyền) vào các văn bản pháp luật liên quan
19
20 Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
21
%E2%80%9Cchay-chuc%2C-chay-quyen%E2%80%9D—van-de-cap-bach-hien-nay.aspx.
49Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
đến công tác bổ nhiệm cán bộ, công chức
lãnh đạo nhất là các văn hướng dẫn thực hiện
Luật PCTN năm 2018, Luật Cán bộ, công
chức năm 2008, Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật
Viên chức năm 2019.
Thứ hai, các cơ quan có thẩm quyền cần
sớm ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng
thống nhất, kịp thời và đầy đủ các hình thức
trách nhiệm (bao gồm trách nhiệm kỷ luật;
trách nhiệm dân sự; trách nhiệm vật chất;
trách nhiệm hình sự và trách nhiệm khác
theo quy định của pháp luật) đối với các
hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm
quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
những việc phải làm trên cương vị được giao
trong công tác cán bộ” được quy định trong
Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019
của Bộ Chính trị.
Thứ ba, ban hành văn bản mới quy định
về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức.
Hiện nay, Dự thảo Nghị định quy định
về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức
(Dự thảo Nghị định)22 đang được hoàn hiện
để thay thế Nghị định số 24 và Quyết định
số 27. Theo đó, cần bổ sung nguyên tắc phân
định rõ hơn thẩm quyền của cá nhân NĐĐ
với thẩm quyền của cấp ủy, Ban lãnh đạo cơ
quan, đơn vị (Điều 48 Dự thảo Nghị định);
cần bổ sung khoản 3 Điều 47 Dự thảo Nghị
định về bản kê khai, tài sản thu nhập trước
khi bổ nhiệm; theo đó “bản kê khai, tài sản
thu nhập phải được chính quyền địa phương
nơi cư trú và cơ quan có thẩm quyền xác
minh”. Để thể chế hóa nguyên tắc kiểm soát
quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ và
chống chạy chức, chạy quyền, cần bổ sung
một điều ghi nhận nguyên tắc xử lý sai phạm
trong công tác cán bộ.
Thứ tư, ban hành văn bản quy định về
tiêu chí, quy trình đánh giá mức độ hoàn
thành nhiệm vụ đối với cán bộ, công chức
lãnh đạo. Ngoài các tiêu chuẩn chung (lập
trường tư tưởng, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ) tùy từng vị trí công tác, người
được đánh giá cần những kết quả cụ thể, sát
thực trong quá trình hoạt động và phải công
khai hóa việc đánh giá.
Thứ năm, trong phạm vi thẩm quyền
phân cấp, các cơ quan, đơn vị, địa phương
ban hành các tiêu chí cụ thể phù hợp với các
nhóm đối tượng cán bộ, công chức được bổ
nhiệm vào các vị trí tương ứng; cần quy định
rõ ràng trình tự, thủ tục; phân định rõ thẩm
quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan đến hoạt động bổ
nhiệm, tăng cường kiểm soát chặt chẽ quy
trình bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo.
Thứ sáu, tổng kết, nhân rộng hình thức
bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo thông
qua hình thức thi tuyển, bảo đảm tính cạnh
tranh, chống chạy chức, chạy quyền. Việc thi
tuyển được tiến hành khách quan, được ghi
hình phát trực tiếp trên website của cơ quan,
đơn vị; bảo đảm kết quả thi không bị chi
phối, bị làm sai lệnh.
Thứ bảy, tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân
định rõ ràng thẩm quyền và trách nhiệm giữa
NĐĐ với cấp ủy; giữa cá nhân NĐĐ với tập
thể cơ quan, đơn vị trong công tác bổ nhiệm
cán bộ, công chức lãnh đạo; rà soát, sửa đổi,
bổ sung những quy định mâu thuẫn, bất cập
về trách nhiệm của NĐĐ trong công tác cán
bộ và quản lý cán bộ tại Nghị định số
157/2007/NĐ-CP của Chính phủ phù hợp
với Luật PCTN năm 2018, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Cán bộ, công
chức và Luật Viên chức năm 2019.
3.2. Kiến nghị bảo đảm thực hiện các
quy định của pháp luật
Một là, thực hiện và kiểm tra, giám sát
chặt chẽ việc thực hiện quy định về trách
22 Dự thảo Nghị định quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức (Bản dự thảo ngày 17/2/2020)
được đăng tải trên Cổng thông tin điên tử của Bộ Nội vụ. Nguồn: https://www.moha.gov.vn/van-ban-du-
thao.html?id=42871
Số 8(408) - T4/202050
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
nhiệm giải trình, kê khai tài sản, thu nhập và
kiểm soát chặt chẽ việc kê khai tài sản đối
với cán bộ, công chức được bổ nhiệm vào
chức vụ lãnh đạo. Cơ quan có thẩm quyền
phải xác minh bản kê khai tài sản, thu nhập
của người được giới thiệu bổ nhiệm trước
khi tiến hành làm quy trình bổ nhiệm, cần
phải xem đây là điều kiện về hồ sơ bổ nhiệm
cán bộ, công chức (theo điểm b, khoản 1
Điều 40 Nghị định số 24).
Hai là, tăng cường trách nhiệm người
đứng đầu và phân định rõ ràng trách nhiệm
NĐĐ với Ban lãnh đạo, với tập thể cơ quan,
đơn vị trên nguyên tắc đề cao trách nhiệm
của NĐĐ, quyền hạn gắn với trách nhiệm
theo chế độ cá nhân thủ trưởng chịu trách
nhiệm trong việc thực hiện quy định về đánh
giá, thực hiện quy trình bổ nhiệm cán bộ,
công chức lãnh đạo trong cơ quan, đơn vị.
Ba là, người đứng đầu cơ quan, đơn vị
thực hiện đồng bộ các khâu bổ nhiệm cán
bộ, công chức vào vị trí lãnh đạo từ khâu
chuẩn bị hồ sơ, tiến hành làm quy trình bổ
nhiệm cán bộ, đúng, đầy đủ các bước trên
nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch;
phân định rõ trách nhiệm của NĐĐ với Ban
lãnh đạo, tập thể cơ quan đơn vị trong từng
bước của quy trình bổ nhiệm cán bộ.
Bốn là, cơ quan có thẩm quyền, các đơn
vị, địa phương xây dựng và hoàn thiện các
tiêu chuẩn cụ thể đối với từng chức danh
lãnh đạo được phân cấp; hoàn thiện các quy
định về trách nhiệm giải trình, kê khai tài
sản, thu nhập và kiểm soát chặt chẽ việc kê
khai tài sản, thu nhập đối với cán bộ, công
chức được bổ nhiệm vào chức vụ lãnh đạo.
Năm là, cơ quan có thẩm quyền các cấp,
đơn vị, địa phương phải thường xuyên tiến
hành kiểm tra, giám sát hoạt động thực hiện
quy định về bổ nhiệm cán bộ, lãnh đạo quản
lý. Nếu phát hiện hiện có hành vi vi phạm
pháp luật trong việc thực hiện quy định về
đánh giá, bổ nhiệm cán bộ, cơ quan, người
có thẩm quyền phải nhanh chóng kiểm tra,
thanh tra và thu hồi quyết định bổ nhiệm
không đúng; đồng thời tiến hành kiểm điểm
để làm rõ trách nhiệm của các cá nhân, tổ
chức có liên quan n
Tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung
ương khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Kết luận số 80-KL/TW ngày 25/12/2013 của Bộ Chính trị về việc đẩy mạnh thực hiện
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008.
3. Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ
cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
4. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ Sáu Ban chấp hành Trung
ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
5. Hồ sơ dự án Luật Thanh niên (sửa đổi) của Chính phủ trình Quốc hội khóa XIV.
6. Đinh Công sỹ, Luật Thanh niên một số nước trên thế giới và gợi ý sửa đổi Luật thanh
niên Việt Nam.
BÀN VỀ TƯ TƯỞNG... (Tiếp theo trang 37)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_hien_quy_dinh_cua_phap_luat_ve_bo_nhiem_can_bo_cong_chu.pdf