Xoay quanh những tình huống thực
tiễn, đối chất với quy định pháp luật về
sở hữu trí tuệ của Việt Nam và các quốc
gia khác, tác giả mạnh dạn nêu lên
những khiếm khuyết cũng như những đề
xuất xoay quanh đến những vấn đề:
- Rút gọn, tinh giản thời gian xử lý
tranh chấp và hướng đến việc lập những
toà án chuyên trách về lĩnh vực sở hữu
trí tuệ cũng như đào tạo đội ngũ chuyên
sâu nhằm hỗ trợ quá trình giải quyết
tranh chấp và đưa ra những quyết định
có tính chính xác, thoả đáng cao.
- Thời điểm áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời không chỉ phù hợp với
Hiệp định quốc tế mà Việt Nam là thành
viên, mà còn phù hợp với tình trạng thực
tiễn các doanh nghiệp kinh doanh, hoạt
động tại thị trường Việt Nam.
- Xác định thiệt hại, định giá tài sản
trí tuệ cần phải hợp lý, thoả đáng và
công bằng, tạo tâm lý an tâm cho các
doanh nghiệp và những cá nhân, tổ chức
có liên quan. Chính vì lẽ đó, thiết nghĩ
cần phải tạo hành lang pháp lý vững
chắc, hỗ trợ cho các bên hoặc bên thứ ba
độc lập trong quá trình định giá tài sản
trí tuệ.
- Xác định mức độ tham gia của luật
sư cũng như chi phí thích hợp theo từng
vụ án, mức độ phức tạp của vụ việc cũng
cần được quan tâm và hướng dẫn bởi
những văn bản pháp luật liên quan.
- Bồi thường thiệt hại về vật chất và
tinh thần, dựa theo tình trạng thực tiễn
và sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam, còn nhiều điểm bất cập trong việc
xác định và bị giới hạn bởi pháp luật về
sở hữu trí tuệ dẫn đến nhiều quyết định
không làm “thoả mãn” cũng như không
bù đắp được thiệt hại thực tế trong cả
trường hợp có hoặc không có hành vi
xâm phạm xảy ra. Do đó, việc tham
khảo pháp luật các quốc gia có cùng tình
trạng nền kinh tế là điều cần thiết để học
tập và áp dụng.
Từ những phân tích về mặt lý luận và
thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật
dân sự để bảo vệ chủ sở hữu quyền sở
hữu trí tuệ, chúng tôi chỉ ra những bất
cập, những hạn chế của pháp luật hiện
hành và đưa ra các giải pháp hoàn thiện
pháp luật nhằn bảo vệ triệt để hơn trật tự
xã hội trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, chế tài nghiêm khắc người có
hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ gây
hậu quả nghiệm trọng cho xã hội và
phòng ngừa chung, nhằm thúc đẩy quá
trình sản xuất kinh doanh và quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
phát triển sâu, rộng và bền vững.
15 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
105
THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ
Nguyễn Xuân Quang* và Đặng Nguyễn Phương Uyên
Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
(Email: nxquang@hcmulaw.edu.vn)
Ngày nhận: 15/03/2019
Ngày phản biện: 11/4/2019
Ngày duyệt đăng: 11/5/2019
TÓM TẮT
Trong nền kinh tế thị trường nhiều cơ hội và thách thức, năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp không chỉ đơn thuần căn cứ vào thước đo về tài sản là vật chất mà còn cả về
thước đo đối với tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ - một loại tài sản vô hình mà trong phạm vi
bài viết ở đây là nhãn hiệu, một trong những đối tượng quyền sở hữu công nghiệp dễ bị
xâm phạm. Để bảo vệ quyền sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp nói chung, nhãn
hiệu nói riêng và chống lại mọi sự xâm phạm, chủ thể quyền đã sử dụng các phương thức
pháp lý như tự bảo vệ mình hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Luật Sở
hữu trí tuệ Việt Nam cùng các văn bản liên quan cũng đã quy định cụ thể các chế tài dân
sự, hành chính, hình sự nhằm bảo vệ chủ thể quyền khi có xảy ra hành vi xâm phạm. Tuy
nhiên, dưới góc độ dân sự, có rất ít các trường hợp được giải quyết bằng biện pháp khởi
kiện tại Tòa án. Bài viết này chúng tôi phân tích những nguyên nhân, bất cập của biện
pháp dân sự trong việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và đưa ra một
số giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Từ khoá: Tài sản trí tuệ, nhãn hiệu, biện pháp dân sự, định giá tài sản trí tuệ, bồi thường
thiệt hại.
Trích dẫn: Nguyễn Xuân Quang và Đặng Nguyễn Phương Uyên, 2019. Thực thi quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự. Tạp chí Nghiên cứu
khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 06: 105-119.
*Tiến sĩ Nguyễn Xuân Quang - Phó Trưởng Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật TP. HCM
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
106
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu là một loại quyền sở hữu đối
với tài sản vô hình, đằng sau một nhãn
hiệu có uy tín, được nhiều người biết
đến là sự đầu tư lớn của chủ nhãn hiệu
về chất lượng, sự sáng tạo, nâng cao
năng suất của sản phẩm, là sự nghiên
cứu tìm tòi phát triển hàng hóa dịch vụ
để thỏa mãn nhu cầu, thị hiếu của người
tiêu dùng và các đầu tư khác về quảng
cáo, chăm sóc khách hàng; vì vậy, một
chủ thể có được một nhãn hiệu uy tín,
được biết đến rộng rãi sẽ chiếm ưu thế
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Một nhãn hiệu mạnh có thể đảm bảo
mức độ phát triển lâu dài, tốc độ phát
triển lớn, tỷ suất lợi nhuận cao cho
doanh nghiệp. Vì vậy, bảo hộ nhãn hiệu
chính là bảo vệ tài sản doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong các đối tượng của sở
hữu trí tuệ thì Nhãn hiệu bị xâm phạm
nhiều nhất chủ yếu dưới dạng hàng giả,
hàng tương tự bởi lợi nhuận cao, chi phí
ít... gây thiệt hại nghiêm trọng cho chủ
thể quyền, cho người tiêu dùng và gây
bất ổn cho nền kinh tế quốc gia, làm nản
lòng các nhà sáng tạo, các chủ đầu tư
trong và ngoài nước.
Do vậy, việc bảo vệ quyền sở hữu đối
với nhãn hiệu là một nhiệm vụ quan
trọng của các quốc gia nói chung và Việt
Nam nói riêng trong đó có biện pháp dân
sự. Thông qua biện pháp này, Nhà nước
bảo vệ chủ văn bằng, bảo vệ người tiêu
dùng và bảo vệ trật tự kinh doanh tạo ra
một sự cạnh tranh lành mạnh qua đó
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển
và thu hút đầu tư nước ngoài.
Theo báo cáo thường niên về hoạt
động sở hữu trí tuệ của Bộ Khoa học và
Công nghệ - Cục Sở hữu trí tuệ năm
2017, biện pháp xử lý xâm phạm quyền
SHCN được áp dụng nhiều và hiệu quả
nhất vẫn là biện pháp hành chính.1 Năm
2017, đã có 2.956 vụ xâm phạm quyền
SHCN bị xử lý hành chính với tổng số
tiền phạt là 20.393.432.000 đồng, tăng
50% số vụ và 33% tổng số tiền phạt so
với năm 2016, trong đó, đối tượng bị
xâm phạm nhiều vẫn là nhãn hiệu, chiếm
96,5% số vụ và 96,4% tổng số tiền phạt.
Gần đây nhất, theo báo cáo của Tổng
cục Quản lý thị trường trong năm 2017
và 9 tháng đầu năm 2018,2 lực lượng
quản lý thị trường đã phát hiện khoảng
35.000 vụ vi phạm, xử phạt hành chính
121 tỷ đồng nộp vào ngân sách nhà
nước, về giá trị hàng hóa vi phạm là 907
tỷ đồng. Trong đó có 458 vụ là hàng hóa
giả chất lượng, 6154 vụ giả mạo chỉ dẫn
địa lý, nhãn hiệu, bao bì, 690 vụ vi phạm
1 Bộ Khoa học và Công nghệ, Báo cáo thường niên
hoạt động sở hữu trí tuệ năm 2017,
/86BBBBF8742DE6D34725834600148D08/$FILE/
Bao%20cao%20SHTT%202017.pdf, truy cập ngày
03/05/2019.
2 Tuệ Diễm, Gần 35.000 vụ vi phạm về sản xuất,
buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng,
35000-vu-vi-pham-ve-san-xuat-buon-ban-hang-gia-
hang-kem-chat-luong, truy cập ngày 02/01/2019.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
107
về tem nhãn, 26300 vụ vi phạm nhãn
hàng hóa.3
Thông qua các báo cáo trên chúng ta
thấy số lượng vụ việc xâm phạm đối
tượng quyền sở hữu công nghiệp nhiều,
mà trong đó nhiều nhất là nhãn hiệu
nhưng chủ yếu chỉ xử lý hành chính mà
rất ít vụ việc nào được giải quyết tại Tòa
án bằng con đường khởi kiện dân sự
(một số vụ kiện có thể được tìm thấy
thông qua thông tin đại chúng như vụ
kiện tranh chấp nhãn hiệu “Sườn Cây”
giữa Công ty Viên Ngọc Mới và Công ty
Cổ phần Dịch vụ ăn uống và giải trí Anh
Em năm 20164, hay vụ kiện của Cơ sở
sản xuất mỹ phẩm Ngân Anh kiện
Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ về
quyết định xử phạt xoay quanh nhãn
hiệu “Bảo Xuân”5 năm 2017). Việc xử
lý hành chính có ưu điểm là nhanh gọn
nhưng không bảo vệ triệt để cho chủ sở
hữu nhãn hiệu, mức phạt thấp chưa đủ
sức răn đe, tiền phạt nộp vào ngân sách
nhà nước mà không phải là bồi thường
3 Báo cáo tại hội thảo “Thực trạng hàng giả, hàng
nhái tại Việt Nam, nguy cơ thách thức và giải pháp”
ngày 19-10-2018 tại thành phố Hồ Chí Minh.
4 Thanh Lan Nguyễn, “Sườn cây” và câu chuyện
tranh chấp nhãn hiệu,
truong/ban-doc/binh-duong-tranh-chap-nhan-hieu-
aardwolf-hon-10-nam-chua-hoi-ket_t114c49n36405,
truy cập ngày 04/04/2019.
5 Việt Hà, Toà bác yêu cầu khởi kiện quyết định xử
phạt của Chánh thanh tra Bộ Khoa học và Công
nghệ,
yeu-cau-khoi-kien-quyet-dinh-xu-phat-cua-Chanh-
thanh-tra-Bo-Khoa-hoc-va-Cong-nghe-449162/, truy
cập ngày 04/05/2019.
cho chủ sở hữu nhãn hiệu. Có nghĩa là
khi biện pháp hành chính được sử dụng,
chủ thể quyền bị xâm phạm không được
đền bù thiệt hại còn người thực hiện
hành vi xâm phạm thì chỉ chịu phạt mà
không chịu trách nhiệm vật chất đối với
hành vi xâm phạm của mình. Điều này
làm cho quan hệ xã hội về sở hữu trí tuệ
trở nên căng thẳng, ảnh hưởng xấu đến
hoạt động doanh nghiệp, gây ngờ vực
cho các chủ sở hữu trí tuệ đặc biệt là
người nước ngoài về tính “thoả đáng”,
“công bằng” của cơ chế thực thi của Việt
Nam, vậy đâu là nguyên nhân?
2. CƠ SỞ PHÁP LÝ
Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ
khi có yêu cầu Tòa án áp dụng những
biện pháp sau đây để xử lý tổ chức, cá
nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu:
Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm.
Buộc xin lỗi cải chính công khai.
Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Buộc bồi thường thiệt hại.
Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối
hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục
đích thương mại, đối với hàng hóa,
nguyên liệu và phương tiện được sử
dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh
hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
với điều kiện không làm ảnh hưởng đến
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
108
khả năng khai thác quyền của chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ.6
Trong đó biện pháp buộc bồi thường
thiệt hại có ý nghĩa quan trọng, nhằm
khôi phục lại tình trạng như ban đầu về
tài sản cho chủ sở hữu các đối tượng trí
tuệ. Đồng thời, đó còn là biện pháp chế
tài đối với chủ thể vi phạm nhằm khắc
phục hành vi vi phạm, bù đắp tổn thất
cho chủ thể quyền và răn đe người khác.
Theo quy định của pháp luật hiện hành,
thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ bao gồm vật chất và tinh
thần. Việc xác định thiệt hại về vật chất
do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ trong Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ
sung năm 2009 đưa ra khá linh hoạt bao
gồm ba cách tính:
Một là tính tổng thiệt hại vật chất tính
bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà
bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu
khoản lợi nhận bị giảm sút của nguyên
đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại
vật chất.
Hai là tính theo giá chuyển giao
quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ
với giả định bị đơn được nguyên đơn
chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở
hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với
hành vi xâm phạm đã thực hiện.
Ba là trong trường hợp không thể xác
định được thiệt hại vật chất như hai cách
trên thì mức bồi thường sẽ do Tòa án ấn
6 Điều 202 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung
2009.
định tùy thuộc vào mức độ thiệt hại
nhưng không quá năm trăm triệu đồng7.
3. THẢO LUẬN
Nguyên tắc xác định thiệt hại cũng
như hướng dẫn của Chính phủ về việc
xác định tổn thất về tài sản, mức giảm
sút thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ
hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn
chạn, khắc phục thiệt hại được quy định
chi tiết tại Mục 2 Nghị định số
105/2006/NĐ-CP8 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ và quản lý Nhà nước về sở hữu trí
tuệ. Như vậy việc bồi thường thiệt hại
khi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo
pháp luật Việt Nam nhìn chung tương
đồng với pháp luật nhiều nước tiên tiến
trên thế giới, đó là dựa trên mức thiệt hại
thực tế có tính đến sự hợp lý của các chi
phí cần thiết. Có thể thấy, việc bảo vệ
nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự cần
được đề cao và được đánh giá là có
nhiều ưu điểm hơn so với biện pháp
hành chính, hình sự, tuy nhiên các chủ
sở hữu nhãn hiệu không áp mặn mà với
biện pháp này vì.
Thứ nhất: từ thời gian thụ lý đến lúc
xét xử tranh chấp về nhãn hiệu được áp
dụng theo thủ tục tố tụng dân sự, các thủ
7 Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung
2009.
8 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
109
tục này thường kéo dài.9 Trong khi đó
tài sản trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nói
riêng thường gắn với hoạt động sản xuất
kinh doanh, do đó cần phải được giải
quyết nhanh chóng, nhằm đỡ tốn kém
thời gian, tiền bạc, công sức của đương
sự và của xã hội. Điều này là một bất lợi
cho các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ vì
quyền sở hữu trí tuệ của họ thường bị
giới hạn trong một thời gian nhất định,
do đó, việc chậm giải quyết sẽ không
đáp ứng kịp thời đối với hoạt động khai
thác quyền của chủ thể quyền. Đây
chính là một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến việc đương sự ít lựa chọn
Toà án là một giải pháp hữu hiệu hiện
nay.
Thứ hai: việc giải quyết kéo dài vì
chúng ta chưa có Tòa chuyên trách trong
hệ thống Tòa án nhân dân, đồng thời
cũng chưa có nhiều thẩm phán được đào
tạo chuyên sâu về lĩnh vực sở hữu trí
tuệ, vì vậy khi giải quyết tranh chấp về
lĩnh vực này Tòa án (thẩm phán) thường
phải trưng cầu giám định và xin ý kiến
của các cơ quan chuyên môn về sở hữu
trí tuệ do đó, Toà án rất bị động, khó
khăn trong quá trình tố tụng. Thực tế
thời gian xét xử sơ thẩm, phúc thẩm cho
đến khi kết thúc vụ án tranh chấp về sở
hữu trí tuệ kéo dài tới nhiều năm (Ví dụ
vụ tranh chấp nhãn hiệu
AARDWWOLF giữa công ty Kỹ Nghệ
Sói và Công ty cơ khí xây dựng STC do
Toà án TP Hồ Chí Minh thụ lý giải
9 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
quyết kéo dài hơn mười năm)10. Như
vậy, trong nhiều trường hợp, Toà án
chưa đủ khả năng đưa ra những nhận
định/phán quyết về hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ và còn phụ thuộc
nhiều vào kết luận của cơ quan chuyên
môn về kết luận có hay không hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ ba: theo quy định tại Khoản 2
Điều 111 Bộ luật tố tụng 2015 và Điều
206 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung
năm 2009 thì chủ thể có quyền sở hữu trí
tuệ bị xâm phạm chỉ có quyền yêu cầu
Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời khi họ khởi kiện hoặc sau khi đã
khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án. Đây
là một quy định không hợp lý, gây bất
lợi cho chủ thể quyền và cũng không
phù hợp với các quy định của Hiệp định
TRIPs cũng như các hiệp định song
phương khác mà Việt Nam đã ký kết hay
gia nhập. Thực tế có nhiều chủ doanh
nghiệp có tài sản trí tuệ bị xâm phạm
không muốn khởi kiện ra Tòa án bằng
con đường tố tụng, vì có thể làm ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh và uy
tín của mình trên thương trường, và để
đảm bảo bí mật kinh doanh do đó họ chỉ
muốn yêu cầu Tòa án áp dụng ngay lập
tức các biện pháp khẩn cấp tạm thời để
bảo vệ quyền lợi của mình, bảo vệ
chứng cứ cũng như ngăn chặn các hậu
10Bình Dương: Tranh chấp nhãn hiệu AARDWOLF
hơn 10 năm chưa hồi kết,
truong/ban-doc/binh-duong-tranh-chap-nhan-hieu-
aardwolf-hon-10-nam-chua-hoi-ket_t114c49n36405,
truy cập ngày 04/05/2019.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
110
quả xấu có thể xảy ra. Có như vậy mới
bảo vệ hiệu quả về quyền sở hữu trí tuệ
thông qua biện pháp tố tụng dân sự.
Thứ tư: việc xác định thiệt hại về vật
chất do hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ gây ra là khó khăn và phức tạp,
bởi đây là loại tài sản vô hình. Pháp luật
của nhiều nước cho thấy không có sự
phản ánh trực tiếp về trách nhiệm bồi
thường đối với “tổn thất tài sản” hay “cơ
hội kinh doanh” trong những vụ xâm
phạm sở hữu trí tuệ. Thường thì các yếu
tố này được xem xét, cân nhắc ở khía
cạnh khác của xác định thiệt hại như
trong pháp luật Mỹ là chi phí quảng cáo
cải chính nhằm khôi phục danh tiếng và
uy tín của chủ sở hữu quyền11 hoặc pháp
luật Nhật Bản là khoản tiền bồi thường
về uy tín, danh dự và tinh thần; những
loại “thiệt hại” này được xác định như
những thiệt hại không độc lập trong
trách nhiệm bồi thường của người vi
phạm. Cho đến thời điểm này hệ thống
pháp luật Việt Nam chưa có các quy
định về phương pháp xác định giá trị của
tài sản trí tuệ, một loại tài sản vô hình, vì
vậy hội đồng xét xử gặp rất nhiều khó
khăn khi xác định các thiệt hại và mức
bồi thường thiệt hại do hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra; các cơ
quan chức năng cũng chưa có văn bản
hướng dẫn cách xác định thiệt hại trên
cơ sở lợi nhuận thu được của bên xâm
phạm hoặc thu nhập hợp pháp bị giảm
sút của bên bị thiệt hại.
11 Xem Zazu Designs v. L’Oreal, S.A., 979 F.2d
499, 506 (7th Cir. 1992).
Thứ năm: về chi phí thuê Luật sư cho
chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ vị xâm
phạm như thế nào là phù hợp với pháp
luật và thực tế. Chỉ riêng đối với tranh
chấp quyền sở hữu trí tuệ, pháp luật mới
có quy định về việc thanh toán chi phí
hợp lý thuê luật sư của bên có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trú tuệ cho bên
chủ sở hữu trí tuệ bị xâm phạm (khác
với quy định tại Điều 168 Bộ luật TTDS
2015, chi phí cho luật sư do người có
yêu cầu chịu, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác. Chi phí thuê luật sư của
bên thắng kiện không nằm trong các chi
phí mà bên thua kiện phải chi trả). Như
vậy, như thế nào là chi phí thuê luật sư
phù hợp với tính chất, mức độ phức tạp
của vụ việc, kỹ năng, trình độ của luật sư
và lượng thời gian cần thiết để nghiên
cứu vụ việc? Ví dụ thù lao bình quân
tính theo giờ của Luật sư là khác nhau
giữa các cá nhân và giữa các khu vực.
Thứ sáu: việc quy định bồi thường
thiệt hại (kể cả chi phí luật sư) áp dụng
cho nguyên đơn là chủ thể quyền sở hữu
trí tuệ.12 Trong trường hợp bị đơn thắng
kiện nhưng thiệt hại do hành vi khởi
kiện của nguyên đơn sẽ được giải quyết
như thế nào, đặc biệt là chi phí thuê luật
sư. Vì về nguyên tắc, bên thắng kiện dù
là nguyên đơn hay bị đơn đều có thể
được xem xét để được bồi thường thiệt
hại do bên kia gây ra cho mình. Pháp
luật Mỹ đã quy định rõ việc chịu trách
nhiệm chi phí luật sự có thể xảy ra đối
12 Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ
sung 2009.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
111
với cả nguyên đơn trong trường hợp
nguyên đơn không có thiện chí hoặc chi
phí thuê luật sư là không cần thiết.13
Phải chăng các nhà làm luật Việt Nam
đã quá chú trọng vào việc bảo vệ quyền
lợi của chủ thể là chủ sở hữu quyền mà
bỏ qua quyền lợi của bị đơn trong những
trường hợp không có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ mà bị khiếu kiện là
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Thiệt hại về tinh thần theo quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 204 Luật sở hữu
trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm
2009) chưa bao quát hết các trường hợp
cá nhân, tổ chức kinh doanh có quyền sở
hữu trí tuệ bị xâm phạm như chủ nhãn
hiệu, quy định trên vô hình đã tước bỏ
quyền được yêu cầu bồi thường của chủ
sở hữu đối tượng này về tổn thất đối với
uy tín kinh doanh do hành vi xâm phạm
nhãn hiệu gây ra. Thiệt hại về tinh thần
sẽ không giống nhau giữa các đối tượng
của quyền sở hữu công nghiệp nói
chung, giữa nhãn hiệu thông thường và
nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng. Chính vì
lẽ đó, trên thực tế nếu có, việc bồi
thường giữa các đối tượng trên sẽ là
hoàn toàn khác nhau. Đồng thời việc
quy định mức bồi thường tối đa không
13 Xem vụ Central Mfg., Inc. v. Brett, 492 F.3d 876
(7th Cir. 2007) (finding attorney fee award to
prevailing defendant warranted in trademark
infringement action in which court found no
commercial use by plaintiff and no infringement;
plaintiff filed action without evidence of any sales to
support its claim, ignored requests to produce
documents to support its claim, and offered confused
and misleading deposition testimony featuring
unfulfilled promises of cooperation)
quá năm trăm triệu đồng (áp dụng cho cả
trường hợp mức bồi thường thiệt hại
chung cho tất cả các đối tượng bị xâm
phạm) quy định tại Điểm c Khoản 1
Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ và hướng
dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/200814 là
không thực sự phù hợp, đặc biệt đối với
trường hợp nhãn hiệu là những thương
hiệu có uy tín, có thị phần và có tính
cạnh tranh cao....
4. KIẾN NGHỊ
Từ những phân tích trên tác giả mạnh
dạn kiến nghị một số giải pháp sau đây:
4.1. Thời gian giải quyết tranh chấp
và thành lập toà án chuyên trách
Cần thiết phải có trình tự thủ tục
nhanh gọn trong quá trình giải quyết
tranh chấp sở hữu trí tuệ nói chung, nhãn
hiệu nói riêng đồng thời cần thành lập
Tòa chuyên trách giải quyết tranh chấp
về sở hữu trí tuệ trong hệ thống Tòa án
nhân dân. Cần tham khảo các mô hình
Toà chuyên trách về sở hữu trí tuệ ở Anh
(Toà Patent thuộc toà Dân sự tối cao –
Toà dân sự Patent ở địa phương), Thái
Lan (Toà Sở hữu trí tuệ và Thương mại
quốc tế Thái Lan), Nhật Bản (Toà SHTT
cấp tỉnh), Malysia (Toà chuyên trách
SHTT ở các bang) và gần đây nhất là
Trung Quốc (Toà án Quyền sở hữu trí
tuệ IPC trực thuộc Toà án nhân dân tối
14 Thông tư liên tịch giửa Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ văn hóa thể thao
và du lịch, Bộ khoa học và công nghệ, Bộ tư pháp
năm 2008 về Hướng dẫn áp dụng một số quy định
của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ tại Toà án nhân dân.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
112
cao Trung Quốc chính thức đi vào hoạt
động ngày 01.01.2019)15. Bên cạnh đó,
cũng cần có sự tham gia của các chuyên
gia trong quá trình xác định lợi nhuận
của người bị hại vì việc trưng cầu ý kiến
của chuyên gia trong lĩnh vực này là cần
thiết trong hoạt động hỗ trợ tài phán của
các cơ quan có thẩm quyền và cũng đảm
bảo tính hợp lý, quyền lợi của các bên
tranh chấp. Đồng thời kết hợp với Cục
Sở hữu trí tuệ đào tạo, huấn luyện những
thẩm phán chuyên sâu về sở hữu trí tuệ
để đảm nhận việc xét xử nhanh chóng,
chính xác, đúng pháp luật.
4.2. Đối với quy định về biện pháp
khẩn cấp tạm thời
Có thể thấy sự cần thiết trong việc sửa
đổi quy định về biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Theo quy định tại khoản 1 Điều
206 Luật sở hữu trí tuệ và khoản 2 Điều
111 Bộ luật tố tụng dân sự, chủ thể
quyền chỉ có quyền yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời “khi khởi
kiện hoặc sau khi khởi kiện”. Quy định
này không những chưa phù hợp với quy
định của Hiệp định TRIPs mà còn không
bảo đảm được yêu cầu bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ của chủ thể quyền. Lý do là
trên thực tế, nhiều trường hợp doanh
nghiệp không muốn khởi kiện (vì muốn
bảo vệ bí mật kinh doanh hoặc không
muốn ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp) mà họ
15 Trung Quốc lập toà cấp cao xử án về sở hữu trí
tuệ, 30.12.2018,
cap-cao-xu-an-ve-so-huu-tri-tue-
20181230161255995.htm, truy cập ngày 05.01.2019.
chỉ muốn Tòa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời để bảo vệ chứng cứ,
ngăn chặn hậu quả xấu do hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ xảy ra. Vì
vậy, chúng tôi kiến nghị nên bổ sung
trường hợp chủ thể quyền có thể yêu cầu
Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời trước khi khởi kiện hoặc ngay cả
khi đương sự không khởi kiện.
Cần bổ sung quy định Tòa án có
quyền cho phép nguyên đơn được kiểm
tra, tìm kiếm thu thập chứng cứ do bị
đơn lưu giữ hoặc tại các cơ sở của bị
đơn mà không thông báo trước cho bị
đơn (còn được gọi là lệnh Anton Piller16
được áp dụng tại Tòa án của nhiều quốc
gia) để bảo đảm ngăn chặn bị đơn tẩu
tán hoặc tiêu hủy hàng hóa xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ, tài liệu và những
chứng cứ có liên quan đến hành vi xâm
phạm quyền này.
4.3. Xác định thiệt hại và định giá
tài sản trí tuệ - nhãn hiệu
Pháp luật nói chung và luật sở hữu trí
tuệ nói riêng cần bổ sung quy định về
định giá tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ là
một loại tài sản vô hình, không thể định
lượng và không có vật so sánh do đó
16 Anton Piller K.G. & Manufactoring Process Ltd
[1976] RPC 791. Lệnh Anton Piller được đặt tên sau
vụ trong đó lần đầu Toà tối cao Anh sử dụng lệnh
này, lệnh mà toà án cho phép kiểm tra các cơ sở có
nghi vấn rằng tại đó đang thực hiện một hành vi vi
phạm bản quyền của nguyên đơn. Theo như lệnh
này, Hiệp định TRIPS quy định tại Điều 50.2 cho
phép các cơ quan xét xử được “ra lệnh áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu một bên,
nếu phù hợp... khi có thể thấy rằng chứng cứ đang có
nguy cơ bị thủ tiêu”.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
113
việc định giá tài sản trí tuệ là hoàn toàn
khác biệt và vô cùng khó khăn. Giá trị
nhãn hiệu không xuất hiện rõ ràng tại
thời điểm đăng ký bảo hộ, mà nó là cả
quá trình tích luỹ sử dụng. Sở dĩ việc
định giá tài sản trí tuệ là vấn đề rất quan
trọng vì nó liên quan đến rất nhiều hoạt
động như chuyển giao tài sản trí tuệ,
nhượng quyền thương mại; dùng tài sản
trí tuệ để góp vốn liên doanh, đầu tư,
hợp tác kinh doanh; dùng tài sản trí tuệ
để thế chấp, cầm cố và đặc biệt là
trong hoạt động tranh tụng và bồi
thường thiệt hại.
Việc xác định giá trị tài sản trí tuệ
không chỉ ở nội hàm của tài sản mà còn
bao gồm cả địa điểm và thời điểm, tức là
trong khoảng không gian và thời gian,
mức độ chấp nhận của xã hội đối với tài
sản trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nói
riêng nằm ở mức độ quan tâm như thế
nào. Cũng cần tham khảo thêm việc định
giá nhãn hiệu theo phương pháp
Interbrand17 trong việc thu thập và sử
dụng thông tin khác nhau trong các bối
cảnh khác nhau. Trong thực tế giải quyết
tranh chấp, xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ do thiếu những quy định hướng dẫn
cụ thể nên việc định giá tài sản trí tuệ
của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền gặp rất nhiều khó khăn. Nên hay
không nên xuất hiện một bên thứ ba độc
17 Năm 1988, hãng Interbrand – một tập đoàn nổi
tiếng trên toàn cầu trong lĩnh vực định giá, tư vấn
xây dựng thương hiệu, được thành lập năm 1974 tại
Anh – lần đầu tiên giới thiệu một phương pháp định
giá thương hiệu trên cơ sở kết hợp cả hai yếu tố thị
trường và tài chính.
lập trong việc định giá tài sản trí tuệ,
quyền và nghĩa vụ nếu có khi tổ chức
này tham gia quá trình định giá nhãn
hiệu khi xảy ra tranh chấp. Vì vậy, cần
sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể
về định giá tài sản trí tuệ.
4.4. Chi phí thuê luật sư
Thiết nghĩa việc người đi kiện có
quyền được luật sư bảo vệ và khi thắng
kiện không có lý do gì để họ chịu tổn
thất về chi phí hợp lý thuê luật sư. Toà
án nhân dân tối cao nên có văn bản chi
tiết hướng dẫn các chi phí hợp lý thuê
luật sư – khi nào là chi phí cần thiết phù
hợp với tính chất, mức độ phức tạp của
vụ việc, kỹ năng, trình độ và lượng thời
gian cần thiết để luật sư nghiên cứu vụ
việc18. Đồng thời, trong một số trường
hợp cụ thể, thẩm phán cũng nên có toàn
quyền quyết định chấp nhận hay từ chối
yêu cầu bồi hoàn chi phí của các bên
đương sự.19
4.5. Quy định về bồi thường thiệt
hại
Việc pháp luật ấn định mức bồi
thường tối đa không quá năm trăm triệu
chưa thực sự hợp lý, vì nhiều trường hợp
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ,
gây ra những thiệt hại rất lớn cho chủ
thể quyền có, đó là sự e ngại của khách
18 Điều 55 Luật Luật sư.
19 Tham khảo thêm Pháp luật của Hoa Kỳ, Quan tòa
được toàn quyền chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu này
của đương sự, tùy vào từng vụ việc cụ thể, trong các
lĩnh vực cụ thể như sở hữu trí tuệ, chống cạnh tranh,
xâm hại quyền dân sự, quyền tự do về thông tin, kiện
tập thể
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
114
hàng, bạn hàng, đối tác, sự giảm sút
doanh thu, mất thị phần....đồng thời bên
xâm phạm cũng có thể thu được khoản
lợi lớn từ hành vi xâm phạm của mình
như sản xuất hàng giả hàng tương tự, sản
xuất sản phẩm theo sáng chế đã được
bảo họ... Vì vậy, mức bồi thường tổn
thất về vật chất do Tòa án ấn định theo
quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 205
Luật sở hữu trí tuệ không quá năm trăm
triệu đồng là chưa phù hợp, nói cách
khác, Luật sở hữu trí tuệ tuy có quy định
rõ ràng về nguyên tắc tính thiệt hại và
mức bồi thường nhưng vẫn chưa đủ sức
răn đe trên thực tế theo tinh thần các quy
định tại TPP20 (sau đổi thành Hiệp định
CPTPP21). Ngoài ra, tại hướng dẫn ở
Thông tư liên tịch số 02/200822 thì nếu
trong vụ tranh chấp có nhiều đối tượng
của quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm,
thì mức bồi thường thiệt hại chung cho
tất cả các đối tượng đó cũng không được
vượt quá mức năm trăm triệu đồng lại
càng bất hợp lý hơn vì khi có nhiều đối
tượng bị xâm phạm, thì mức độ thiệt hại
của từng đối tượng phải được xem xét
20 Trans-Pacific Strategic Economic Partnership
Agreement (TPP) - Hiệp định đối tác kinh tế xuyên
Thái Bình Dương là thoả thuận thương mại tự do.
21 Comprehensive & Progressive Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement (CPTPP)
- Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương – quy định cụ thể tại Điều 18.74.
22 Thông tư liên tịch giữa Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ văn hóa thể thao
và du lịch, Bộ khoa học và công nghệ, Bộ tư pháp
năm 2008 về Hướng dẫn áp dụng một số quy định
của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ tại Toà án nhân dân.
riêng rẽ và không nên bị khống chế ở
mức năm trăm triệu đồng. Với cách quy
định mức trần trong bồi thường thiệt hại
như hiện nay, ở một mức độ nào đó,
quyền sở hữu trí tuệ của chủ thể quyền
không được bảo vệ một cách triệt để.
Việc quy định trách nhiệm bồi thường
không chỉ nhằm mục đích khôi phục lại
những thiệt hại đã xảy ra, mà còn phải
có tính mục răn đe, phòng ngừa các hành
vi vi phạm. Vì vậy, tác giả cho rằng,
pháp luật không nên quy định “mức
trần” trong bồi thường thiệt hại mà nên
áp dụng mức bồi thường theo nguyên tắc
thiệt hại tới đâu bồi thường tới đó. Nghĩa
là chủ sở hữu nhãn hiệu chứng minh
được thiệt hại mà mình phải gánh chịu là
bao nhiêu, thì người xâm phạm phải bồi
thường bấy nhiêu. Với cách quy định
chế tài dân sự như hiện nay có thể thấy
rằng chế tài chưa đủ mạnh, chưa đủ sức
răn đe cũng như ngăn chặn hành vi xâm
phạm.23 Và cũng không phù hợp với tinh
thần của Bộ luật dân sự năm 2015 là xét
xử theo lẽ công bằng và thừa nhận án lệ.
Để đảm bảo sự công bằng, khách
quan và bình đẳng giữa quyền và nghĩa
vụ của các bên tham gia tố tụng; thiết
nghĩ cần bổ sung những quy định đáp
ứng yêu cầu của các nguyên tắc quốc tế
như ghi nhận tại Mục F, Điều 12
Chương 2 Hiệp định thương mại Việt-
23 Xem thêm Những điểm nổi bật của CPTPP về Sở
hữu trí tuệ đối với Việt Nam, 25/01/2019,
https://lawfirmelite.com/nhung-diem-noi-bat-cua-
cptpp-ve-so-huu-tri-tue-doi-voi-viet-nam/, truy cập
ngày 30/1/2019.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
115
Mỹ24 và Điều 48 Hiệp định TRIPs25. Các
biện pháp chế tài hay bồi thường thiệt
hại cũng nên được xem xét khi bị đơn
thắng kiện nhưng bị thiệt hại do hành vi
khởi kiện của nguyên đơn. Tác giả cho
rằng bên cạnh việc bảo hộ một cách tốt
nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của
bên chủ sở hữu quyền, các nhà làm luật
cũng nên quan tâm đến quyền lợi hợp
pháp của bị đơn khi không có hành vi
xâm phạm nhưng bị khiếu kiện là xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Bên cạnh việc bồi thường thiệt hại về
vật chất cần bổ sung việc bồi thường
thiệt hại tinh thần đối với những tổn thất
về uy tín kinh doanh do hành vi xâm
phạm nhãn hiệu, tên thương mại và
những tổn thất khác về tinh thần gây ra
cho chủ sở hữu. Quy định tại khoản 1
Điều 204 của Luật SHTT hiện nay
không bao gồm trường hợp một chủ thể
kinh doanh bị tổn thất uy tín kinh doanh
24 Mục F Điều 12 Chương 2 Hiệp định Thương mại
Việt – Mỹ yêu cầu các bên tham gia hiệp định phải
đảm bảo để: “buộc một bên tham gia vụ kiện, mà
theo yêu cầu của bên đó các biện pháp thực thi đã
được áp dụng và bên đó đã lạm dụng những thủ tục
thực thi, phải bồi thường thoả đáng cho bất kì bên
nào đã bị cưỡng chế hoặc bị ngăn cản một cách sai
trái, những thiệt hại mà bên đó đã phải chịu do sự
lạm dụng trên gây ra và phải trả các chi phí của bên
bị thiệt hại đó, trong đó có thể bao gồm cả chi phí
hợp lý thuê luật sư.”
25 Điều 48 Hiệp định TRIPs quy định “Các cơ quan
xét xử phải có quyền ra lệnh buộc bên đã đưa ra yêu
cầu thực hiện các biện pháp chế tài và đã lạm dụng
các thủ tục thực thi thì phải trả cho bên bị áp dụng
các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái
khoản bồi thường tương xứng với thiệt hại do sự lạm
dụng đó gây ra các chi phí, trong đó có thể bao gồm
cả chi phí đại diện thích hợp”.
do các chủ thể khác sản xuất hàng hóa
xâm phạm nhãn hiệu của chủ thể quyền.
Nếu như Tòa án có thể ra quyết định
buộc chủ thể xâm phạm nhãn hiệu, tên
thương mại phải xin lỗi, cải chính công
khai thì điều đó có nghĩa là việc xin lỗi
cải chính công khai đó nhằm mục đích
khôi phục lại tổn thất về mặt uy tín kinh
doanh của chủ sở hữu nhãn hiệu, tên
thương mại. Mặc dù áp dụng biện pháp
xin lỗi cải chính công khai, uy tín kinh
doanh hay tổn thất về mặt tinh thần của
chủ sở hữu nhãn hiệu được phần nào
khôi phục, tuy nhiên để khắc phục một
cách triệt để thì tổn thất về mặt tinh thần
của chủ sở hữu nhãn hiệu phải được bồi
thường. Quy định tại điểm b khoản 1
Điều 204 Luật sở hữu trí tuệ hiện nay đã
tước bỏ quyền được yêu cầu bồi thường
của chủ sở hữu nhãn hiệu đối với những
tổn thất về uy tín kinh doanh do hành vi
xâm phạm nhãn hiệu gây ra. Tham khảo
pháp luật Nhật Bản, cụ thể tại Điều 38
Luật Nhãn hiệu hàng hoá, chủ nhãn hiệu
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về
tinh thần khi việc xâm phạm đã gây ảnh
hưởng xấu đến uy tín của họ; tuỳ những
trường hợp cụ thể mà thẩm phán sẽ
quyết định chủ sở hữu hàng hoá có được
bồi thường hay không.26 Vì vậy, tác giả
26 Xem thêm Chanel SA v. Hanako Kono,
Vì Chanel không kinh doanh vũ trường nên không
thể xác định được thiệt hại thực tế của họ theo Điều
38 Luật Nhãn hiệu hàng hoá Nhật Bản, Toà án phải
tính theo cách thức bồi thường thiệt hại về tinh thần
vì xâm phạm này đã gây ảnh hưởng xấu đến uy tín
của họ.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
116
kiến nghị Luật sở hữu trí tuệ cần bổ sung
quy định bồi thường tổn thất về tinh thần
đối với tổn thất về uy tín kinh doanh của
các cá nhân, tổ chức bị xâm phạm nhãn
hiệu, tên thương mại.
5. KẾT LUẬN
Xoay quanh những tình huống thực
tiễn, đối chất với quy định pháp luật về
sở hữu trí tuệ của Việt Nam và các quốc
gia khác, tác giả mạnh dạn nêu lên
những khiếm khuyết cũng như những đề
xuất xoay quanh đến những vấn đề:
- Rút gọn, tinh giản thời gian xử lý
tranh chấp và hướng đến việc lập những
toà án chuyên trách về lĩnh vực sở hữu
trí tuệ cũng như đào tạo đội ngũ chuyên
sâu nhằm hỗ trợ quá trình giải quyết
tranh chấp và đưa ra những quyết định
có tính chính xác, thoả đáng cao.
- Thời điểm áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời không chỉ phù hợp với
Hiệp định quốc tế mà Việt Nam là thành
viên, mà còn phù hợp với tình trạng thực
tiễn các doanh nghiệp kinh doanh, hoạt
động tại thị trường Việt Nam.
- Xác định thiệt hại, định giá tài sản
trí tuệ cần phải hợp lý, thoả đáng và
công bằng, tạo tâm lý an tâm cho các
doanh nghiệp và những cá nhân, tổ chức
có liên quan. Chính vì lẽ đó, thiết nghĩ
cần phải tạo hành lang pháp lý vững
chắc, hỗ trợ cho các bên hoặc bên thứ ba
độc lập trong quá trình định giá tài sản
trí tuệ.
- Xác định mức độ tham gia của luật
sư cũng như chi phí thích hợp theo từng
vụ án, mức độ phức tạp của vụ việc cũng
cần được quan tâm và hướng dẫn bởi
những văn bản pháp luật liên quan.
- Bồi thường thiệt hại về vật chất và
tinh thần, dựa theo tình trạng thực tiễn
và sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam, còn nhiều điểm bất cập trong việc
xác định và bị giới hạn bởi pháp luật về
sở hữu trí tuệ dẫn đến nhiều quyết định
không làm “thoả mãn” cũng như không
bù đắp được thiệt hại thực tế trong cả
trường hợp có hoặc không có hành vi
xâm phạm xảy ra. Do đó, việc tham
khảo pháp luật các quốc gia có cùng tình
trạng nền kinh tế là điều cần thiết để học
tập và áp dụng.
Từ những phân tích về mặt lý luận và
thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật
dân sự để bảo vệ chủ sở hữu quyền sở
hữu trí tuệ, chúng tôi chỉ ra những bất
cập, những hạn chế của pháp luật hiện
hành và đưa ra các giải pháp hoàn thiện
pháp luật nhằn bảo vệ triệt để hơn trật tự
xã hội trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, chế tài nghiêm khắc người có
hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ gây
hậu quả nghiệm trọng cho xã hội và
phòng ngừa chung, nhằm thúc đẩy quá
trình sản xuất kinh doanh và quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
phát triển sâu, rộng và bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản do cơ quan có thẩm quyền
ban hành
1. Anton Piller K.G. & Manufactoring
Process Ltd, 1976. RPC 791.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
117
2. Central Mfg., Inc. v. Brett, 492
F.3d 876 (7th Cir. 2007).
3. Chanel SA v. Hanako Kono – xử
tại Toà tối cao Nhật Bản ngày
10/9/1998.
Chính phủ, 2006. Nghị định số
105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước
về sở hữu trí tuệ, Truy cập ngày
20/12/2018. Địa chỉ truy cập:
0bn%20php%20lut/view_detail.aspx?ite
mid=15238.
4. Hiệp định về các khía cạnh liên
quan tới thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ TRIPS.
5. Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP).
6. Hiệp định đối tác toàn diện và tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
7. Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ
(BTA).
8. Quốc hội, 2015. Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015 ngày 25/11/2015 có hiệu
lực ngày 01/07/2006. Truy cập ngày
20/12/2018. Địa chỉ truy cập:
ottal/chinhphu/hethongvanban?class_id=
1&_page=1&mode=detail&document_i
d=183189.
9. Quốc hội, 2005. Luật Sở hữu trí tuệ
ngày 29/11/2005 có hiệu lực ngày
01/7/2006. Truy cập ngày 20/12/2018.
Địa chỉ truy cập:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/So-
huu-tri-tue/Luat-So-huu-tri-tue-2005-50-
2005-QH11-7022.aspx.
10. Quốc hội, 2009. Luật số
36/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung một số
điều Luật Sở hữu trí tuệ 2005 ngày
19/6/2009 có hiệu lực ngày 01/01/2010.
Truy cập ngày 20/12/2018. Địa chỉ truy
cập: https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/So-huu-tri-tue/Luat-so-huu-tri-tue-
2009-sua-doi-36-2009-QH12-
90634.aspx.
11. Quốc hội, 2012. Luật số
20/2012/QH13 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật luật sư 2006 ngày
20/11/2012, có hiệu lực ngày 01/7/2013.
Truy cập ngày 20/12/2018. Địa chỉ truy
cập: https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Dich-vu-phap-ly/Luat-Luat-su-sua-
doi-2012-152713.aspx.
12. Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ văn hóa
thể thao và du lịch, Bộ khoa học và công
nghệ, Bộ tư pháp, 2008. Thông tư liên
tịch số 02/2008 ngày 03/04/2008 giữa về
Hướng dẫn áp dụng một số quy định của
pháp luật trong việc giải quyết các tranh
chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Toà án
nhân dân, có hiệu lực ngày 18/04/2008.
Truy cập ngày 22/12/2018. Địa chỉ truy
cập:
https://www.most.gov.vn/vn/Pages/ChiT
ietVanBan.aspx?vID=28498&TypeVB=
1.
13. Zazu Designs v. L’Oreal, S.A.,
979 F.2d 499, 506 (7th Cir. 1992).
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
118
Sách, tạp chí, tài liệu hội thảo, trích
từ website
1. Báo cáo tại hội thảo “Thực trạng
hàng giả, hàng nhái tại Việt Nam, nguy
cơ thách thức và giải pháp” ngày 19-10-
2018 tại thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ, Báo
cáo thường niên hoạt động sở hữu trí tuệ
năm 2017,
ResourceList/86BBBBF8742DE6D3472
5834600148D08/$FILE/Bao%20cao%2
0SHTT%202017.pdf, truy cập ngày
03/05/2019.
3. Cẩm Bình, 2019. Trung Quốc lập
toà cấp cao xử án về sở hữu trí tuệ,
30.12.2018,
lap-toa-cap-cao-xu-an-ve-so-huu-tri-tue-
20181230161255995.html, truy cập
ngày 05/01/2019.
4. C. Hoan, 2019. Một nông dân
thắng kiện về quyền sở hữu trí tuệ,
19/06/2010,
thang-kien-ve-quyen-so-huu-tri-tue-
325926.html, truy cập ngày 05/01/2019.
5. Những điểm nổi bật của CPTPP về
Sở hữu trí tuệ đối với Việt Nam,
25/01/2019,
https://lawfirmelite.com/nhung-diem-
noi-bat-cua-cptpp-ve-so-huu-tri-tue-doi-
voi-viet-nam/, truy cập ngày 30/1/2019.
6. Thanh Lan Nguyễn, 2019. “Sườn
cây” và câu chuyện tranh chấp nhãn
hiệu,
luat-thuong-truong/ban-doc/binh-duong-
tranh-chap-nhan-hieu-aardwolf-hon-10-
nam-chua-hoi-ket_t114c49n36405, truy
cập ngày 04/04/2019.
7. T. Oanh và T. Anh, 2019. Bình
Dương: Tranh chấp nhãn hiệu
AARDWOLF hơn 10 năm chưa hồi kết,
thuong-truong/ban-doc/binh-duong-
tranh-chap-nhan-hieu-aardwolf-hon-10-
nam-chua-hoi-ket_t114c49n36405, truy
cập ngày 04/05/2019.
8. Tuệ Diễm, Gần 35.000 vụ vi phạm
về sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng
kém chất lượng,
te/916227/gan-35000-vu-vi-pham-ve-
san-xuat-buon-ban-hang-gia-hang-kem-
chat-luong, truy cập ngày 02/01/2019.
9. Việt Hà, Toà bác yêu cầu khởi kiện
quyết định xử phạt của Chánh thanh tra
Bộ Khoa học và Công nghệ,
bac-yeu-cau-khoi-kien-quyet-dinh-xu-
phat-cua-Chanh-thanh-tra-Bo-Khoa-hoc-
va-Cong-nghe-449162/, truy cập ngày
04/05/2019.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019
119
USING CIVIL REMEDIES ON ENFORCEMENT OF INDUSTRIAL
PROPERTY RIGHTS OF TRADEMARK
Nguyen Xuan Quang and Dang Nguyen Phuong Uyen
Faculty of Civil Law, Ho Chi Minh University of Law
(Email: nxquang@hcmulaw.edu.vn)
ABSTRACT
In a market economy, existed numerous opportunities and challenges; the competitiveness
of business is scaled not only on the measure of tangible assets but also on intellectual
property. Intellectual property – type of intangible asset, which will be mentioned as
trademark within the scope of this paper, has its industrial property rights vulnerable. In
order to protect the ownership of the industrial property rights, especially trademark, and
prevent them from the infringement, the right holder has used legal means such as self-
protection or requesting the protection from the authorised state agencies. Should this
protection be under concerned of both the right holder and the authorised state agencies.
So far, we have known different methods used by the authorised agencies for protecting the
right holder from the infringements however, in practice; their sufficiency is still debatable.
However, under civil perspective, no so many cases were brought into Court. In this paper,
we analysed the reasons, inadequacy of Civil Law in protection of industrial ownership of
trademark and point out some solutions to complete the Civil Law.
Keywords: Intellectual property, trademark, civil remedy, intellectual property appraise,
compensation.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_thi_quyen_so_huu_cong_nghiep_doi_voi_nhan_hieu_bang_bie.pdf