Tỷ lệ số cán bộ y tế được đào tạo về
chăm sóc sức khỏe bà mẹ còn chưa cao do
chế độ đãi ngộ đối với cán bộ y tế chưa phù
hợp, lương và phụ cấp cho cán bộ y tế quá
thấp, không tương xứng với thời gian học
tập, công sức lao động, môi trường lao động,
điều kiện làm việc vất vả, nhất là ở huyện
Mai Châu [10]. Trưởng trạm y tế chưa chủ
động tham mưu cho Ủy ban Nhân dân Xã khi
muốn phối hợp với các ban ngành đoàn thể
trong công tác tổ chức đào tạo. Kinh phí tổ
chức hạn chế, sự phối hợp với các ban
ngành đoàn thể chưa tốt [11]. Ngoài ra, số
lượng cán bộ y tế ở tuyến dưới đang còn
thiếu, nên nếu cử cán bộ đi học theo Quyết
định 225/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ, hoặc những chương trình đạo tạo khác,
thì không có người thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn [12]. Vì vậy, cần phải có chế độ
đầu tư đúng, đầy đủ; địa điểm, thời gian đào
tạo phải thuận lợi đối với người học.
Việc đào tạo lại cán bộ y tế là một trong
những nội dung chính của dự án giáo dục đào
tạo nhân lực y tế phục vụ cải cách hệ thống y
tế. Qua đó nhằm giúp cán bộ y tế xã có thêm
kiến thức và thực hành tốt trong các nội dung
trước, trong và sau sinh về chăm sóc sức
khỏe bà mẹ sẽ giúp giảm tải bệnh viện tuyến
trên, đồng thời đóng góp hiệu quả hơn cho
chính cộng đồng dân cư tại địa bàn họ công
tác. Đối với việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ
trước sinh, kết quả cho thấy trung bình số cán
bộ được đào tạo trong các nội dung chăm sóc
sức khỏe bà mẹ trước sinh đạt 77,4%. Trong
đó, những nội dung về tư vấn trong chăm sóc
sức khỏe sinh sản cho phụ nữ có thai và theo
dõi bà mẹ và thai nhi bằng biểu đồ chuyển dạ
là những nội dung được đào tạo nhiều nhất.
Tuy nhiên, nội dung phát hiện và xử trí bà mẹ
sản giật lại được đào tạo ít nhất. Mặc dù tình
trạng sản giật hiện được cho là biến chứng
phổ biến và có ý nghĩa nhất trong sản khoa,
gây biến chứng 3 - 5% trong số các trường
hợp mang thai [13]. Trong quá trình sinh đẻ,
kết quả cho thấy trung bình số cán bộ được
đào tạo trong các nội dung chăm sóc sức
khỏe bà mẹ đạt 69,5%. Trong đó, hơn ¾ số
cán bộ được đào tạo về các nội dung thực
hiện đỡ đẻ ngôi chỏm, phát hiện và xử trí chảy
máu sau đẻ và thực hiện cắt và khâu tầng
sinh môn. Các kỹ thuật bóc rau nhân tạo, thực
hiện đỡ đẻ tại nhà và xử trí đẻ rơi ít được đào
tạo nhất. Có sự chênh lệch này là do kĩ thuật
bóc rau nhân tạo là một kĩ thuật khó, nhiều
khâu, cần có giáo cụ trực quan. Trong khi các
kĩ thuật khác có thể học lý thuyết, học trên
sách vở. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, số
cán bộ trung bình được đào tạo trong các nội
dung chăm sóc sức khỏe bà mẹ sau sinh đạt
85,8%. Trong đó, trên 80% cán bộ y tế được
đào tạo các nội dung chăm sóc bà mẹ và trẻ
sơ sinh sau đẻ, tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ,
xử trí triệu chứng bất thường ở trẻ sơ sinh và
chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng đào tạo lại của cán bộ y tế xã về chăm sóc sức khỏe bà mẹ tại tỉnh Hòa Bình năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
116 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO LẠI CỦA CÁN BỘ Y TẾ XÃ
VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE BÀ MẸ TẠI TỈNH HÒA BÌNH NĂM 2017
Nguyễn Thị Thu Hà1, Nguyễn Hữu Thắng1, Võ Hoàng Long2,
Bùi Văn Tùng3, Nguyễn Hoàng Nguyên3, Phạm Văn Quyết3
1Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội
2Sinh viên bác sĩ Y học dự phòng khóa 2014 - 2020, Trường Đại học Y Hà Nội
3Sinh viên bác sĩ Y học dự phòng khóa 2013 - 2019, Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 236 cán bộ y tế xã nhằm mô tả thực trạng đào tạo lại
của cán bộ y tế xã về chăm sóc sức khỏe bà mẹ tại Hòa Bình năm 2017. Tỷ lệ cán bộ y tế được đào tạo về
chăm sóc sức khỏe bà mẹ chiếm 41,9% (99/236). Tỷ lệ cán bộ chuyên trách được đào tạo về chăm sóc sức
khỏe bà mẹ là 56,8% (42/74). Trong đó, trung bình số cán bộ được đào tạo trong các nội dung chăm sóc
sức khỏe bà mẹ trước sinh, trong sinh và sau sinh đạt lần lượt 77,4%, 69,5% và 85,8%.
Từ khóa: Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, đào tạo lại, cán bộ y tế xã, Hòa Bình
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Hữu Thắng, Viện đào tạo Y học
dự phòng và Y tế công cộng, trường đại học Y Hà Nội
Email: nguyenhuuthang@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 10/5/2018
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, cung cấp các dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ bà mẹ vẫn là một thách thức lớn đối
với hệ thống y tế ở các nước đang phát triển
[1]. Theo báo cáo của Quỹ Dân số Liên hợp
quốc (UNFPA) năm 2013, vẫn còn 289.000
phụ nữ tử vong trong thời gian mang thai hoặc
trong khi sinh đẻ. Hơn 3/4 số ca tử vong mẹ
trên thế giới được tìm thấy ở khu vực Châu
Phi và Đông Nam Á, lần lượt là 53% và 25%
[2]. Ở Việt Nam mỗi năm có khoảng 580 - 600
trường hợp tử vong mẹ, khoảng 3/4 các ca tử
vong mẹ xảy ra trong khi sinh hoặc ngay sau
khi sinh, tỷ số tử vong mẹ vẫn ở mức cao, đặc
biệt là các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu
số [3; 4]. Theo ý kiến của các chuyên gia, nếu
được đào tạo bài bản đội ngũ nhân viên y tế
có thể giúp giảm tới 2/3 số ca tử vong bà mẹ
và trẻ sơ sinh [5]. Tổ chức Y tế Thế giới
khuyến cáo các nước phải có trung bình 2,28
cán bộ chăm sóc sức khoẻ chuyên nghiệp
trên 1000 người dân thì mới đạt mức bình
quân theo yêu cầu về số lượng cán bộ y tế có
tay nghề làm công tác hộ sinh. Tại Việt Nam,
công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ nói chung
cũng như nâng cao đội ngũ nhân viên y tế về
công tác này nói riêng cũng luôn được các
cấp các ngành quan tâm rõ rệt, tuy nhiên, vẫn
tồn tại những bất cập về năng lực chuyên
môn của nhân viên y tế làm công tác chăm
sóc sản khoa, chăm sóc sơ sinh đặc biệt là ở
tuyến y tế cơ sở. Nghiên cứu về thực trạng
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ
trước và trong khi sinh tại trạm y tế một số tỉnh
Tây Nguyên năm 2004 cho thấy tại tỉnh Gia
Lai 100% các xã không có y sỹ sản nhi và bác
sỹ chuyên khoa phụ sản, các tỉnh còn lại cũng
thiếu rất nhiều nhân lực [6]. Nghiên cứu của
Trần Thị Mai Oanh cho thấy tỷ lệ các ca sinh
tại trạm tương đối thấp, chỉ chiếm 24,4% tổng
số các ca sinh đẻ trong năm. Tỷ lệ các trạm y
tế có bác sỹ chiếm 42,3%, trong số này có
đến 90% là bác sỹ chuyên tu, điều này giải
TCNCYH 113 (4) - 2018 117
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
thích một phần cho việc tỷ lệ sinh con tại trạm
thấp như vậy [7]. Hòa Bình là tỉnh miền núi
khó khăn, mỗi trạm y tế có biên chế từ bốn
đến sáu cán bộ y tế; hơn 60% số trạm có bác
sĩ và hơn 2000 nhân viên y tế thôn, bản. Tuy
nhiên, chất lượng cán bộ y tế tại địa phương
còn nhiều hạn chế, theo nghiên cứu của
Nguyễn Hoàng Long và các cộng sự thực
hiện tại 8 vùng sinh thái năm 2014, trong đó
có tỉnh Hòa Bình thì 64,4% trạm y tế chưa đạt
chuẩn Quốc gia về nhân lực: 40,4% trạm y tế
chưa có bác sĩ, 37,8% trạm y tế có y sĩ sản
nhi, cán bộ y tế chưa được đào tạo đầy đủ,
44,4% trạm y tế chưa được tập huấn về chăm
sóc trước sinh [8]. Nhằm cung cấp một phần
thông tin giúp tỉnh Hòa Bình nắm bắt được
công tác đào tạo cán bộ y tế về chăm sóc sức
khỏe bà mẹ tại địa bàn, từ đó có những biện
pháp, chính sách hợp lí nhằm cải thiện chất
lượng đội ngũ cán bộ y tế. Vì vậy, chúng tôi
thực hiện đề tài với mục tiêu mô tả thực trạng
đào tạo lại của cán bộ y tế xã về chăm sóc
sức khỏe bà mẹ tại tỉnh Hòa Bình năm 2017.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả
cắt ngang.
2. Thời gian và địa điểm
Nghiên cứu được tiến hành từ 12/2016
đến 06/2017 tại tất cả các trạm y tế xã (58 xã/
phường/thị trấn) trong 3 khu vực của tỉnh Hòa
Bình: thành phố Hòa Bình, huyện Mai Châu,
huyện Lương Sơn.
3. Đối tượng
Chọn toàn bộ cán bộ trạm y tế xã trực tiếp
tham gia công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ
thuộc 3 khu vực để nghiên cứu thực trạng đào
tạo lại cán bộ về chăm sóc sức khỏe bà mẹ tại
trạm y tế ở thời điểm nghiên cứu.
4. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu:
4.1. Cỡ mẫu: Tổng cộng 236 cán bộ y tế
trực tiếp tham gia chăm sóc sức khỏe bà mẹ
bao gồm bác sĩ, y sỹ, nữ hộ sinh, điều dưỡng.
4.2. Chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện toàn
bộ y, bác sỹ, nữ hộ sinh thuộc 58 trạm y tế xã
trong 3 khu vực nghiên cứu.
5. Kỹ thuật thu thập thông tin: Phỏng
vấn cán bộ y tế bằng bộ câu hỏi có cấu trúc.
6. Phân tích và xử lý số liệu
Các số liệu sau khi thu thập được kiểm tra,
làm sạch, mã hoá và nhập bằng phần mềm
Epidata 3.2 sau đó xử lý thống kê bằng phần
mềm Stata12.0. Các số liệu được trình bày
dưới dạng biểu đồ và bảng biểu.
7. Đạo đức nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được giải thích về
mục đích của nghiên cứu, sự tham gia là tự
nguyện. Thông tin cá nhân được giữ bí mật và
được mã hóa.
III. KẾT QUẢ
Kết quả của chúng tôi trên 236 cán bộ y tế
tại các trạm y tế xã thuộc 3 khu vực của tỉnh
Hòa Bình cho thấy: tuổi trung bình của cán bộ
y tế được khảo sát là 41 tuổi, tỷ lệ nam nhân
viên y tế thấp chiếm 23,3%. Cán bộ y tế là dân
tộc Mường chiếm tỷ lệ cao nhất 42,8%, dân
tộc Thái chiếm 20,8%, dân tộc Kinh chiếm
31,8%. Chỉ có 37/58 (63,8%) trạm y tế có bác
sĩ đang làm việc. Trình độ chuyên môn khác
gồm: Điều dưỡng và nữ hộ sinh chiếm tỷ lệ
cao (31,8%). Tỷ lệ cán bộ chuyên trách chiếm
32,5% (74/236), cán bộ chuyên trách gồm nữ
hộ sinh, y sĩ sản nhi và các cán bộ khác được
giao nhiệm vụ phụ trách chăm sóc sức khỏe
bà mẹ.
118 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Biểu đồ 1. Tỷ lệ cán bộ y tế được đào tạo về chăm sóc sức khỏe bà mẹ
trong năm 2015 và 2016
Kết quả cho thấy có 41,9% số cán bộ y tế được đào tạo tại về chăm sóc sức khỏe bà mẹ tại
tỉnh Hòa Bình trong 2 năm gần đây. Trong đó, huyện Mai Châu có tỷ lệ cán bộ y tế được đào tạo
cao nhất (44%), thành phố Hòa Bình có tỷ lệ được đào tạo thấp nhất (38,6%). Nhóm cán bộ
chuyên trách chăm sóc sức khỏe bà mẹ được đào tạo trong 2 năm gần đây chiếm tỷ lệ cao hơn
các nhóm khác (56,8%).
Biểu đồ 2. Nội dung đào tạo về chuyên môn chăm sóc sức khỏe bà mẹ
trước sinh cho cán bộ y tế
Kết quả cho thấy trung bình số cán bộ được đào tạo trong các nội dung chăm sóc sức khỏe
bà mẹ trước sinh đạt 77,4%. Trong đó, nội dung về tư vấn về chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ có
thai và theo dõi bà mẹ và thai nhi bằng biểu đồ chuyển dạ được đào tạo nhiều nhất (đều đạt
82,8%), nội dung về phát hiện và xử trí sản giật được đào tạo ít nhất (62,6%).
TCNCYH 113 (4) - 2018 119
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Biểu đồ 3. Nội dung đào tạo về chuyên môn chăm sóc sức khỏe bà mẹ
trong sinh cho cán bộ y tế
Kết quả cho thấy, trung bình số cán bộ được đào tạo trong các nội dung chăm sóc sức khỏe
bà mẹ trong sinh đạt 69,5%. Trong đó, nội dung về thực hiện đỡ đẻ ngôi chỏm và phát hiện và xử
trí chảy máu sau đẻ được đào tạo nhiều nhất đều đạt trên 80% số cán bộ. Các kỹ thuật bóc rau
nhân tạo, thực hiện đỡ đẻ tại nhà và xử trí đẻ rơi ít được đào tạo nhất.
Biểu đồ 4. Nội dung đào tạo về chuyên môn chăm sóc sức khỏe bà mẹ
sau sinh cho cán bộ y tế
Kết quả cho thấy, số cán bộ trung bình được đào tạo trong các nội dung chăm sóc sức khỏe
bà mẹ sau sinh đạt 85,8%. Trong đó, đa số cán bộ y tế được đào tạo các nội dung tư vấn nuôi
con bằng sữa mẹ, chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh sau đẻ, xử trí bất thường ở trẻ sơ sinh, chăm
sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo (> 80% số cán bộ y tế được đào tạo).
IV. BÀN LUẬN
Theo nghiên cứu này, có 56,8% tỷ lệ số
cán bộ chuyên trách chăm sóc sức khỏe bà
mẹ và 41,9% toàn bộ cán bộ y tế 3 khu vực ở
Hòa Bình được đào tạo trong 2 năm gần đây
(biểu đồ 1). Kết quả này cao hơn nhiều so với
120 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung năm
2015 là 17,4% cán bộ y tế đã được đào tạo
[9]. Điều này có thể giải thích là do nghiên cứu
của Nguyễn Thành Trung tiến hành trên các
cán bộ y học cổ truyền tuyến huyện tại tỉnh
Thanh Hóa, còn nghiên cứu của chúng tôi tiến
hành trên các cán bộ y tế xã phụ trách chăm
sóc sức khỏe bà mẹ trên địa bàn tỉnh Hòa
Bình. Nghiên cứu chỉ rằng, huyện Mai Châu
có tỷ lệ được đào tạo cao nhất (44%), thành
phố Hòa Bình có tỷ lệ được đào tạo thấp
nhất (38,6%). Số cán bộ y tế được đào tạo về
chăm sóc sức khỏe bà mẹ trong 2 năm gần
đây ở mỗi 3 khu vực đều không đạt được một
nửa số cán bộ y tế. Sự khác nhau này một
phần là do sự chênh lệch về điều kiện kinh tế
xã hội đối với cán bộ y tế giữa 3 khu vực: Hòa
Bình đại diện cho khu vực thành phố, Lương
Sơn đại diện cho khu vực trung du và Mai
Châu đại diện cho khu vực miền núi.
Tỷ lệ số cán bộ y tế được đào tạo về
chăm sóc sức khỏe bà mẹ còn chưa cao do
chế độ đãi ngộ đối với cán bộ y tế chưa phù
hợp, lương và phụ cấp cho cán bộ y tế quá
thấp, không tương xứng với thời gian học
tập, công sức lao động, môi trường lao động,
điều kiện làm việc vất vả, nhất là ở huyện
Mai Châu [10]. Trưởng trạm y tế chưa chủ
động tham mưu cho Ủy ban Nhân dân Xã khi
muốn phối hợp với các ban ngành đoàn thể
trong công tác tổ chức đào tạo. Kinh phí tổ
chức hạn chế, sự phối hợp với các ban
ngành đoàn thể chưa tốt [11]. Ngoài ra, số
lượng cán bộ y tế ở tuyến dưới đang còn
thiếu, nên nếu cử cán bộ đi học theo Quyết
định 225/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ, hoặc những chương trình đạo tạo khác,
thì không có người thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn [12]. Vì vậy, cần phải có chế độ
đầu tư đúng, đầy đủ; địa điểm, thời gian đào
tạo phải thuận lợi đối với người học.
Việc đào tạo lại cán bộ y tế là một trong
những nội dung chính của dự án giáo dục đào
tạo nhân lực y tế phục vụ cải cách hệ thống y
tế. Qua đó nhằm giúp cán bộ y tế xã có thêm
kiến thức và thực hành tốt trong các nội dung
trước, trong và sau sinh về chăm sóc sức
khỏe bà mẹ sẽ giúp giảm tải bệnh viện tuyến
trên, đồng thời đóng góp hiệu quả hơn cho
chính cộng đồng dân cư tại địa bàn họ công
tác. Đối với việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ
trước sinh, kết quả cho thấy trung bình số cán
bộ được đào tạo trong các nội dung chăm sóc
sức khỏe bà mẹ trước sinh đạt 77,4%. Trong
đó, những nội dung về tư vấn trong chăm sóc
sức khỏe sinh sản cho phụ nữ có thai và theo
dõi bà mẹ và thai nhi bằng biểu đồ chuyển dạ
là những nội dung được đào tạo nhiều nhất.
Tuy nhiên, nội dung phát hiện và xử trí bà mẹ
sản giật lại được đào tạo ít nhất. Mặc dù tình
trạng sản giật hiện được cho là biến chứng
phổ biến và có ý nghĩa nhất trong sản khoa,
gây biến chứng 3 - 5% trong số các trường
hợp mang thai [13]. Trong quá trình sinh đẻ,
kết quả cho thấy trung bình số cán bộ được
đào tạo trong các nội dung chăm sóc sức
khỏe bà mẹ đạt 69,5%. Trong đó, hơn ¾ số
cán bộ được đào tạo về các nội dung thực
hiện đỡ đẻ ngôi chỏm, phát hiện và xử trí chảy
máu sau đẻ và thực hiện cắt và khâu tầng
sinh môn. Các kỹ thuật bóc rau nhân tạo, thực
hiện đỡ đẻ tại nhà và xử trí đẻ rơi ít được đào
tạo nhất. Có sự chênh lệch này là do kĩ thuật
bóc rau nhân tạo là một kĩ thuật khó, nhiều
khâu, cần có giáo cụ trực quan. Trong khi các
kĩ thuật khác có thể học lý thuyết, học trên
sách vở. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, số
cán bộ trung bình được đào tạo trong các nội
TCNCYH 113 (4) - 2018 121
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
dung chăm sóc sức khỏe bà mẹ sau sinh đạt
85,8%. Trong đó, trên 80% cán bộ y tế được
đào tạo các nội dung chăm sóc bà mẹ và trẻ
sơ sinh sau đẻ, tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ,
xử trí triệu chứng bất thường ở trẻ sơ sinh và
chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo.
Tỷ lệ cán bộ y tế xã tham gia đào tạo lại
trong 2 năm gần đây ở các nội dung chăm sóc
sức khỏe bà mẹ chưa đồng đều do có nhiều
lớp đào tạo ngắn hạn khác được các dự án tổ
chức thường có chủ đề trùng lặp rất nhiều.
Thêm vào đó, chất lượng của các khóa đào
tạo đa phần chỉ giảng dạy về lý thuyết, ít có
điều kiện thực hành dành cho người học. Rõ
ràng, tỉnh Hòa Bình cần chú trọng hơn trong
công tác đào tạo lại cán bộ y tế xã để có thể
triển khai các hoạt động thực hành nhằm bao
phủ chăm sóc sức khỏe bà mẹ toàn khu vực.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy vấn đề đáng chú ý
trong công tác đào tạo lại chăm sóc sức khỏe
bà mẹ của cán bộ y tế xã tại Hòa Bình trong
năm 2015 và 2016. Tỷ lệ số cán bộ được đào
tạo chăm sóc sức khỏe bà mẹ và số cán bộ
chuyên trách được đào tạo còn chưa cao (lần
lượt 41,9% và 56,8%). Trung bình số cán bộ
được đào tạo trong các nội dung chăm sóc
sức khỏe bà mẹ trước sinh, trong sinh và sau
sinh chưa bao phủ toàn diện (lần lượt 77,4%,
69,5% và 85,8%).
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin trân trọng cám ơn sự giúp đỡ
của các đơn vị y tế tỉnh Hòa Bình và các cán
bộ y tế xã tại thành phố Hòa Bình, huyện
Lương Sơn và huyện Mai Châu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Patton GC VR, Linh le C, Ameratunga
S, Fatusi AO, Ferguson BJ et al (2010).
Mapping a global agenda for adolescent
health. J Adolesc Health, 47, 427 - 432.
2. World Health Organization U (2010).
Trends in maternal mortality: 1990 to 2010:
WHO, UNICEF, UNFPA and The World Bank
estimates.
3. Bộ Y tế (2015). Chỉ thị số 01/CT-BYT về
việc tăng cường công tác chăm sóc bà mẹ và
trẻ sơ sinh nhằm giảm tử vong mẹ và tử vong
sơ sinh.
4. Tổng cục thống kê (2014). Giám sát
thực trạng trẻ em và phụ nữ - Điều tra đánh
giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ năm 2014.
5. UNFPA (2014). Báo cáo tình trạng hộ
sinh trên thế giới. 73 quốc gia thiếu hộ sinh
trầm trọng.
6. Nguyễn Thanh Hà (2007). Thực trạng
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe trước và
trong khi sinh tại trạm y tế một số tỉnh Tây
Nguyên, 2004. Tạp chí Y tế công cộng, 7, 45 - 50.
7. Trần Thị Mai Oanh (2011). Đánh giá
việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của trạm y
tế xã khu vực miền núi, Viện Chiến lược và
Chính sách Y tế, Bộ Y tế, Hà Nội.
8. Nguyễn Hoàng Long (2014). Thực
trạng cung ứng dịch vụ của trạm y tế xã ở một
số vùng/miền và yếu tố ảnh hưởng. Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Tập (2009). Nghiên cứu
tình hình thực hiện chăm sóc sức khỏe bà mẹ
- trẻ em của các TYT xã huyện Châu Thành
tỉnh Bến Tre. Tạp chí Nghiên cứu khoa học
2009, 4(63), 109 - 115.
10. Nguyễn Thành Trung (2015). Nhu cầu
và khả năng cung cấp các loại hình đào tạo
liên tục về y học cổ truyền cho nhân viên y tế
huyện tại tỉnh Thanh Hóa. Luận văn Thạc sỹ,
Trường Đại học Y Hà Nội.
11. Cục Quản lý Khám chữa bệnh - Bộ Y
tế (2015). Báo cáo tổng kết công tác khám,
chữa bệnh năm 2014. Hà Nội, Việt Nam.
122 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Summary
STATUS OF RE-TRAINING FOR COMMUNITY HEALTH
WORKERS IN MATERNAL HEALTH IN HOA BINH PROVINCE IN 2017
A cross-sectional descriptive study was conducted on 236 community health workers. The
study is to describe the status of re-training for community health workers in maternal health in
Hoa Binh province in 2017. About forty-two percent (41.9%) of 236 community health workers
were trained in maternal health. Among the staff responsible for maternal health, 56.8% were
trained. The training in antenatal care, delivery and postnatal care in Hoabinh was 77.4%, 69.5%
and 85.8%, respectively.
Keywords: Maternal health; Re-training; Community health workers; Hoa Binh province
12. Bộ Y tế (2017). Chương trình đào tạo,
bồi dưỡng về quản lí y tế cho trưởng trạm y tế
xã, phường, thị trấn.
13. Mol BW, Roberts CT, Thangaratinam
S et al (2016). Pre-eclampsia. The Lancet,
387(10022), 999 - 1011.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_dao_tao_lai_cua_can_bo_y_te_xa_ve_cham_soc_suc_kh.pdf