Thuế tiêu thụ đặc biệt và thuốc lá lậu

Một trong những lập luận phổ biến nhất của ngành thuốc lá nhằm phản đối chính sách thuế thuốc lá là thuế suất cao hơn sẽ tạo ra những động cơ về mặt tài chính, người hút thuốc lá sẽ tránh thuế và trốn thuế nhằm mục đích mua thuốc lá với giá thấp hơn và tiết kiệm chi phí. Do đó, buôn bán bất hợp pháp có thể được khuyến khích, làm cho chính sách thuế không hiệu quả trong việc giảm hút thuốc cũng như trong việc tạo ra thu nhập cho chính phủ. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi cho thấy điều này không có khả năng xảy ra ở Việt Nam. Thứ nhất, giá trung bình của thuốc lá bất hợp pháp trong năm 2017 cao hơn đáng kể so với các loại thuốc lá hợp pháp trên cả nước, trong mỗi khu vực kinh tế - xã hội, trong đó có nhãn hiệu SE555. Đáng chú ý, sau khi thuế thuốc lá tăng từ 65% lên 70% trong năm 2016, sự chênh lệch này dường như lớn lên, thay vì giảm đi, khi tỷ lệ giữa giá trung bình của thuốc lá bất hợp pháp và thuốc lá hợp pháp tăng hơn 40%, từ 1,44 năm 2010 lên 2,08 vào năm 2017. Thứ hai, những người hút thuốc lá lậu dường như có mức thu nhập bình quân hàng tháng cao hơn đáng kể so với người hút thuốc lá hợp pháp, và do đó thu nhập của người hút thuốc càng cao, họ càng có nhiều khả năng tiêu dùng thuốc lá bất hợp pháp.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thuế tiêu thụ đặc biệt và thuốc lá lậu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT VÀ THUỐC LÁ LẬU Tóm tắt: Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ hút thuốc lá cao nhất thế giới. Để hạn chế việc tiêu thụ thuốc lá, hiện nay Chính phủ đang có kế hoạch tăng thuế thuốc lá. Nhưng thông thường, các nhà sản xuất thuốc lá rất hay phản đối việc tăng thuế và lập luận rằng, thuế tăng sẽ làm tăng buôn lậu thuốc lá, gây ảnh hưởng đến chính sách tăng thuế. Có phải như vậy? ThS. Đào Thế Sơn* Nguyễn Thế Hoàng - Nguyễn Ngọc Anh ** * Giảng Viên Đại học Thương Mại * * Trung tâm nghiên cứu chính sách và phát triển Abstract Vietnam is one of the countries with the highest smoking rates in the world. The Government of Vietnam, for its goal of restrictions of tobacco consumption, is to increase tobacco taxes. However, the tobacco industry always strongly opposes the tax increases on tobacco with arguement that taxe increases will lead to cigarette smuggling, which will affect the tax increase policies. Is it right? Thông tin bài viết: Từ khóa: tăng thuế thuốc lá, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuốc lá lậu, tiêu thụ thuốc lá Lịch sử bài viết: Nhận bài : 14/12/2018 Biên tập : 20/12/2018 Duyệt bài : 26/12/2018 Article Infomation: Keywords: tobacco tax increase; special consumption tax; smuggled cigarettes; tobacco consumption. Article History: Received : 14 Dec. 2018 Edited : 20 Dec. 2018 Approved : 26 Dec. 2018 1. Giới thiệu Hút thuốc lá có tác hại đối với sức khỏe cá nhân và là gánh nặng cộng đồng nghiêm trọng ở Việt Nam, một trong những 1 Khoảng 22,5% dân số trưởng thành ở Việt Nam hút thuốc lá nói chung và 18,2% hút thuốc lá điếu nói riêng theo Khảo sát thuốc lá toàn cầu dành cho người lớn được tiến hành vào năm 2015 (GATS 2015). Theo Tổ chức Y tế Thế giới, khoảng 40.000 người tử vong ở Việt Nam mỗi năm do các bệnh liên quan đến thuốc lá, và nếu không có biện pháp thích hợp, ước tính sẽ có tới 70.000 ca tử vong mỗi năm vào năm 2030. quốc gia có tỷ lệ hút thuốc cao nhất trên thế giới1. Tăng thuế thuốc lá đã được nhiều nghiên cứu chứng minh là một biện pháp giảm tiêu thụ thuốc lá hiệu quả và tiết kiệm CHÑNH SAÁCH 27Số 24(376) T12/2018 chi phí nhất (Tổ chức Y tế Thế giới năm 2015). Vì vậy, Chính phủ Việt Nam đang tăng cường sử dụng công cụ quan trọng này trong lộ trình cải cách chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào thuốc lá2. Tuy nhiên, một trong những rào cản lớn nhất đối với cải cách thuế và tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với mặt hàng thuốc lá là những lập luận không có căn cứ cho rằng, tình trạng buôn lậu thuốc lá sẽ tăng khi thuế tăng. Các nhà sản xuất thuốc lá cho rằng, tăng thuế sẽ làm tăng giá thuốc lá hợp pháp và thuốc lá lậu sẽ trở nên rẻ hơn so với thuốc lá hợp pháp, người tiêu dùng do đó sẽ chuyển sang sử dụng thuốc lá lậu, dẫn tới thất thu về ngân sách và làm phá sản chính sách tăng thuế để hạn chế tiêu thụ thuốc lá. Tuy nhiên, những lập luận này là không có căn cứ và thường trái ngược với các bằng chứng được tìm thấy ở nhiều nước phát triển và đang phát triển là thuế suất tăng không làm tăng buôn lậu thuốc lá (Chaloupka, Yurekli, Fong, 2012). Ở Việt Nam, đến nay vẫn có ý kiến quan ngại việc tăng thuế có thể dẫn đến sự gia tăng buôn lậu thuốc lá, từ đó làm suy yếu các mục tiêu chính sách hạn chế tiêu thụ thuốc lá của thuế. Một trong những lý do gây nên quan ngại này là Việt Nam đang thiếu các nghiên cứu khách quan, độc lập và cập nhật để có thể cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách các bằng chứng khách quan và đáng tin cậy về tiêu dùng thuốc lá lậu3. Các nghiên cứu trước đây của Nguyễn và cộng sự (2014) và Nguyễn (2015) là hai nghiên cứu đầu tiên của Việt Nam về mức độ tiêu dùng thuốc lá lậu4. Mặc dù rất hữu ích, nhưng hai nghiên cứu này đã không còn cập nhật và tập 2 Trong Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi số 70/214/QH13 năm 2014, thuế tiêu thụ đặc biệt áp dụng với sản phẩm thuốc lá được tăng lên 70% bắt đầu từ tháng 1/2016 và sẽ tăng lên 75% vào tháng 1/2019. Ngoài thuế giá trị gia tăng (VAT ở mức 10% giá bán lẻ), thuốc lá sản xuất trong nước còn chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (ở mức 70% giá sản xuất). Tuy nhiên, tính gộp hai loại thuế này theo tỷ lệ phần trăm giá bán lẻ, thì mức thuế thuốc lá của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với mức mà Ngân hàng Thế giới khuyến nghị (Guindon và cộng sự, 2010). 3 Hầu hết các nghiên cứu trước đây được tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến ngành công nghiệp thuốc lá, đánh giá quá cao mức độ buôn bán bất hợp pháp và tổn thất thuế của Chính phủ để chống lại việc tăng thuế thuốc lá (Smith, Savell, & Gilmore, 2013). 4 Theo Nguyễn và cộng sự (2014), trong giai đoạn 1998 - 2006, mức độ buôn lậu thuốc lá dao động trong khoảng từ 14,3% đến 20,2%. trung vào giai đoạn trước khi Chính phủ Việt Nam bắt tay vào cải cách thuế thuốc lá năm 2014 và tăng thuế năm 2016. Bài viết này được thực hiện trên cơ sở kết quả khảo sát do một nhóm nghiên cứu tiến hành nhằm cập nhật về mức độ tiêu dùng thuốc lá lậu tại Việt Nam. Kết quả khảo sát được dùng để so sánh với các kết quả nghiên cứu trước đây nhằm giúp xác định những thay đổi về mức độ tiêu thụ thuốc lá lậu trong các thời điểm trước, trong và sau khi tăng thuế tiêu thụ đặc biệt. Kết quả khảo sát cũng đo lường sự khác nhau giữa các vùng miền về mức độ tiêu thụ thuốc lá lậu, đặc biệt ở các vùng gần biên giới, và mối tương quan giữa mức độ tiêu thụ thuốc lá lậu với các yếu tố kinh tế - xã hội và nhân khẩu học khác. 2. Phương pháp khảo sát Nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu sơ cấp từ một cuộc khảo sát được thiết kế riêng nhằm đo lường mức độ tiêu thụ thuốc lá lậu ở Việt Nam. Cuộc khảo sát được thiết kế để đảm bảo tính đại diện cho cả nước với cỡ mẫu lên tới hơn 2.700 người hút thuốc. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cả nam và nữ, có tuổi từ 18 trở lên, hiện đang hút thuốc lá điếu do nhà máy sản xuất ít nhất một lần một tuần. Cuộc khảo sát sử dụng phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng nhiều giai đoạn. Các tỉnh, thành phố được lựa chọn gồm: Hà Nội, Phú Thọ và Bắc Giang ở miền Bắc, Quảng Bình, Đà Nẵng và Lâm Đồng ở miền Trung, và Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh và Long An ở miền Nam. Tổng cộng có 135 địa bàn khảo sát, ở cả khu vực thành thị và nông thôn. CHÑNH SAÁCH 28 Số 24(376) T12/2018 Tỷ lệ thuốc lá lậu trên thị trường cả nước MSI được tính bằng công thức sau: ∑ ∑ ×+ × = j j L j I j j j I j I wCC wC MS )( Trong đó IjC và L jC là lượng thuốc lá bất hợp pháp và hợp pháp mỗi năm được tiêu thụ bởi người hút thuốc jth, và jw là trọng số của người hút thuốc jth trên thị trường cả nước. Cuộc khảo sát này cũng được thiết kế để có thể so sánh kết quả của năm 2017 với các nghiên cứu trước đây5, từ đó có thể ước tính được tác động có thể có của việc tăng thuế tiêu thụ thuốc lá đến tình trạng tiêu dùng thuốc lá lậu ở Việt Nam. Để đảm bảo tính nhất quán, Bảng hỏi khảo sát của chúng tôi năm 2017 được kế thừa từ một bảng hỏi khảo sát về tiêu dùng thuốc lá được thực hiện năm 2012-2013. Ngoài phỏng vấn trực tiếp với người hút thuốc, cuộc khảo sát còn thu thập các vỏ bao thuốc lá từ người hút thuốc và kiểm tra cẩn thận để xác định mức độ phổ biến của thuốc lá lậu. Hai đặc điểm chính được quan sát kỹ là tem thuế và hình ảnh cảnh báo sức khỏe theo Thông tư số 05/2013/TTLT-BYT-BCT do Bộ Y tế và Bộ Tài chính ban hành vào năm 2013. Một bao thuốc lá được xem là bất hợp pháp nếu nó không có tem thuế, thiếu nhãn cảnh báo 5 Bao gồm Khảo sát thuốc lá toàn cầu dành cho người lớn năm 2010 (GATS 2010) và năm 2015 (GATS 2015) và Khảo sát Tiêu dùng thuốc lá năm 2012 (TCS 2012). Các ước lượng từ TCS 2012 và GATS 2010 được lấy từ (Nguyen, 2015), còn các ước lượng từ GATS 2015 được các tác giả tính toán và tổng hợp. sức khỏe thích hợp. 3. Những nỗ lực gần đây của Chính phủ trong việc phòng chống buôn lậu thuốc lá Chính phủ Việt Nam đã thể hiện một cam kết mạnh mẽ chống lại thuốc lá lậu. Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 389/QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia và tỉnh (gọi tắt là Ban Chỉ đạo 389) về chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, trong đó bao gồm cả thuốc lá điếu. Kể từ khi thành lập, Ban Chỉ đạo 389 đã chỉ đạo tăng cường kiểm tra biên giới thường xuyên, giám sát thị trường trên toàn quốc và phát hiện thành công nhiều vụ buôn bán thuốc lá bất hợp pháp. Khung pháp lý chống buôn bán trái phép cũng đã được củng cố trong ba năm qua. Nổi bật là trong tháng 11/2015, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 124/NĐ-CP, tăng đáng kể tiền phạt đối với các hoạt động sản xuất và buôn bán thuốc lá nhập lậu so với Nghị định số 185/2013/NĐ- CP. Theo đó, bất cứ ai nắm giữ và giao dịch bất hợp pháp 500 gói thuốc lá nhập lậu trở lên sẽ bị tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự. Hai năm sau đó, việc buôn bán thuốc lá bất hợp pháp được quy định chính thức và cụ thể tại Điều 190 và Điều 191 của Bộ luật Hình sự năm 2015 số 100/2015/QH13 được Quốc hội Việt Nam thông qua vào tháng Bảng 1. Hình phạt chi tiết đối với hành vi buôn bán thuốc lá lậu được quy định bởi Bộ luật Hình sự năm 2015 Số bao thuốc lá lậu Buôn bán Tàng trữ và/hoặc vận chuyển Mức phạt (triệu VND) Số năm tù Mức phạt (triệu VND) Số năm tù Từ 1.500 đến dưới 3.000 100 - 1000 1-5 50-300 0,5 - 3 Từ 3.000 đến dưới 4.500 1000 - 3000 5-10 300-1.000 2-5 Từ 4.500 trở lên NA 8-15 NA 5-10 Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn từ Bản sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2015 số 100/2015/QH13 CHÑNH SAÁCH 29Số 24(376) T12/2018 6/2017 (Bảng 1). Trong giai đoạn 2,5 năm, từ 2015 đến 2017, tổng cộng khoảng 20,8 triệu bao thuốc lá lậu đã bị tịch thu, trong đó khoảng 10,3 triệu bao trong năm 2015, 6,2 triệu bao trong năm 2016 và 4,3 triệu bao trong nửa đầu năm 20176. Hầu hết các trường hợp buôn lậu xảy ra ở các tỉnh có cửa khẩu biên giới với Campuchia ở miền Nam, biên giới với Lào ở miền Trung và biên giới với Trung Quốc ở miền Bắc và ở các thành phố lớn nhất (thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội). Jet, Hero và SE 555 là ba nhãn hiệu thuốc lá lậu phổ biến nhất được phát hiện. Những câu chuyện thành công này được coi là có đóng góp đáng kể trong nỗ lực quốc gia chống buôn lậu thuốc lá. 4. Kết quả ước lượng thu được từ cuộc khảo sát Bảng 2 trình bày ước lượng về mức tiêu thụ thuốc lá lậu ở Việt Nam trong năm 2017, cùng với ước lượng của các nghiên cứu khác trong 7 năm qua để so sánh. Tỷ lệ thuốc lá lậu tại Việt Nam được ước lượng là vào khoảng 13,72% (thuốc lá điếu). So với các năm trước, số liệu cho thấy việc tiêu dùng thuốc lá lậu đã giảm đáng kể. Điểm lưu ý là tất cả các sản phẩm thuốc lá lậu bị phát hiện đều là thuốc lá sản xuất hợp pháp ở nước ngoài, và được nhập khẩu bất hợp pháp vào trong nước. Trong những năm vừa qua, điều dễ nhận thấy là mặc dù thuế thuốc lá của Việt Nam vẫn tăng lên theo như lộ trình của Bộ Tài chính, nhưng tiêu dùng thuốc lá lậu lại có xu hướng giảm xuống. 6 Điều này ngược hoàn toàn với lập luận của các hãng thuốc lá về quan hệ tăng thuế sẽ tăng nhập lậu thuốc lá. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, việc tiêu thụ thuốc lá lậu không phải là hành vi phổ biến trên toàn quốc, mà chỉ tập trung tại một số địa phương. Theo đó, trên 84% sản phẩm thuốc lá lậu là được tiêu thụ ở miền Nam; trong khi ở miền Bắc và miền Trung, tỷ lệ tiêu thụ thuốc lá lậu thấp hơn rất nhiều. Hero và Jet tiếp tục là những thương hiệu thuốc lá nhập lậu phổ biến nhất trên thị trường thuốc lá lậu năm 2017 (tiếp theo sau là 555, Esse và Craven A). Hero và Jet chiếm hơn 80% tổng lượng tiêu thụ thuốc lá lậu trên cả nước vào năm 2012 và năm 2017. Cụ thể, hai nhãn hiệu thuốc lá này chủ yếu được mua và tiêu thụ ở miền Nam (trên 92%). Nghiên cứu trước đây của Nguyễn (2015) chỉ ra rằng thuốc lá Jet và Hero được nhập khẩu hợp pháp từ Indonesia vào Campuchia và sau đó nhập lậu qua biên giới ở các tỉnh phía Nam vào Việt Nam. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, tổng thị phần của Jet và Hero trên toàn thị trường thuốc lá giảm đáng kể trong năm 2017. Trong giai đoạn 2010-2015, hai nhãn hiệu này chiếm một thị phần tương đối ổn định khoảng 15,5-16,5% với sự sụt giảm thị phần của một nhãn hiệu này được bù đắp bởi sự gia tăng thị phần của nhãn hiệu kia. Tuy nhiên, trong năm 2017, thị phần của hai nhãn hiệu này giảm gần 5 điểm phần trăm, xuống còn khoảng 11%. Đây được coi là kết quả hoạt động tăng cường điều tra biên giới Bảng 2. Thị phần thuốc lá bất hợp pháp trên thị trường thuốc lá Việt Nam (%) TCS 2017 GATS 2015 TCS 2012 GATS 2010 Bất hợp pháp 13,72 16,94 20,68 20,18 Trong nước 0,00 - 0,19 - Nước ngoài 13,70 - 20,49 - Hợp pháp 86,28 84,06 79,32 79,82 Trong nước 86,27 - 79,10 - Nước ngoài 0,02 - 0,22 - Nguồn: TCS 2012, TCS 2017, GATS 2010 và GATS 2017 CHÑNH SAÁCH 30 Số 24(376) T12/2018 và giám sát thị trường của Ủy ban Chỉ đạo 389 cấp quốc gia và cấp tỉnh lãnh đạo kể từ đầu năm 2016. Nhiều trường hợp buôn bán bất hợp pháp các thương hiệu thuốc lá này đã được phát hiện và ngăn chặn một cách thành công7. Tương tự với Jet và Hero, việc giảm thị phần của Esse, một nhãn hiệu của Hàn Quốc, có nhiều khả năng nhất là do các hoạt động chống buôn lậu thuốc lá hiệu quả hơn được thực hiện bởi chính quyền. Lập luận thứ hai của các công ty thuốc lá đưa ra là khi tăng thuế, sẽ làm người tiêu dùng chuyển sang tiêu dùng thuốc lá lậu, có giá rẻ hơn. Bảng 3 cho thấy mức giá trung bình tương đối giữa thuốc lá bất hợp pháp và thuốc lá hợp pháp. Điều đáng lưu ý là, ngược với lập luận của các công ty thuốc 7 Để biết thêm thông tin, xin hãy truy cập trang web chính thức của Ban Chỉ đạo 389 tại: 8 Giá trung bình có trọng số của một số nhãn hiệu thuốc lá hợp pháp và bất hợp pháp phổ biến nhất được cung cấp trong Phụ lục cho thấy khoảng cách giá đáng kể giữa các nhóm này, giá của nhóm sản phẩm bất hợp pháp thậm chí vượt xa những nhãn hiệu hợp pháp đắt nhất. lá, giá trung bình của thuốc lá lậu lại cao hơn đáng kể so với giá trung bình của thuốc lá hợp pháp. Kết quả này đúng với cả ba khu vực và nhất quán với những kết quả đạt được từ GATS 2015, TCS 2012 và GATS 2010. Cụ thể, giá của thuốc lá lậu cao gấp đôi giá của thuốc lá hợp pháp vào năm 2017. Tuy nhiên, mức độ chênh lệch giá khác nhau giữa các khu vực, và cao nhất ở miền Bắc nơi thuốc lá lậu nhãn hiệu 555 và Esse là phổ biến nhất, và thấp nhất ở miền Nam, nơi thuốc lá Jet và Hero là phổ biến8. Bảng 4 cho thấy giá trung bình mỗi gói của năm nhãn hiệu thuốc bất hợp pháp và hợp pháp phổ biến nhất ở Việt Nam năm 2017. Rõ ràng lá giá thuốc lá hợp pháp thấp hơn giá sản phẩm nhập lậu. Các phát hiện của cuộc khảo sát cũng Bảng 3. So sánh giá các gói thuốc lá 20 điếu bất hợp pháp và hợp pháp TCS 2017 GATS 2015 TCS 2012 GATS 2010 Trung bình (US$) Chênh lệch giá Trung bình (US$) Chênh lệch giá Trung bình (US$) Chênh lệch giá Trung bình (US$) Chênh lệch giá Cả nước Bất hợp pháp 0,88 2,05 0,80 1,52 0,78 1,50 0,61 1.45 Hợp pháp 0,43 0,53 0,52 0,42 Miền Bắc Bất hợp pháp 1,67 3,98 0,88 1,66 1,18 2,27 0,67 1.52 Hợp pháp 0,42 0,53 0,52 0,44 Miền Trung Bất hợp pháp 1,07 2,43 0,85 1,65 0,77 1,75 0,69 1.57 Hợp pháp 0,44 0,51 0,44 0,44 Miền Nam Bất hợp pháp 0.78 1.73 0.80 1.48 0.77 1.28 0.6 1.58 Hợp pháp 0.45 0.54 0.60 0.38 Nguồn: TCS 2012, TCS 2017, GATS 2010 và GATS 2015 CHÑNH SAÁCH 31Số 24(376) T12/2018 nhất quán với nhận định của các nghiên cứu trước đây (Joossens, 2003; Nguyen, 2015) là người hút thuốc ở Việt Nam sẵn sàng trả giá cao hơn cho thuốc lá lậu, thay vì mua sản phẩm thuốc lá trong nước rẻ hơn. Hơn nữa, các sản phẩm nhập khẩu bất hợp pháp thường được coi là có chất lượng cao, và được người hút thuốc ưa chuộng hơn. Ngoài ra, số liệu của khảo sát năm 2017 cho thấy việc lựa chọn các nhãn hiệu thuốc lá lậu được quyết định chủ yếu bởi thị hiếu và nồng độ nicotine, chứ không phải là sự hiện diện của hình ảnh cảnh báo sức khỏe trên vỏ bao thuốc lá. Khi được hỏi về lý do tại sao người hút thuốc chuyển sang nhãn hiệu mà họ hiện đang dùng, những người hút thuốc lá lậu thường đưa ra các lý do liên quan đến sở thích hương vị (khoảng 30%) và nồng độ nicotine (ví dụ: nhẹ và nặng) (trên 40%). Việc tăng tỷ lệ chênh lệch giá giữa các sản phẩm thuốc lá bất hợp pháp và hợp pháp có thể là do rủi ro và chi phí buôn lậu cao hơn cũng như thiếu hụt nguồn cung, một thực trạng có thể xuất phát từ những nỗ lực to lớn của Chính phủ Việt Nam trong việc chống buôn lậu bắt đầu từ đầu năm 2016. Bên cạnh đó, có vẻ như giá thuốc lá lậu cao hơn có thể khiến một số người hút thuốc giảm tiêu thụ, chuyển sang hút thuốc lá rẻ hơn, thuốc lá hợp pháp, hoặc thậm chí trong trường hợp tốt nhất là bỏ hút thuốc do những hạn chế về ngân sách. Kết quả là, tỷ lệ thuốc lá lậu trên thị trường cả nước giảm trong năm 2017 như kết quả khảo sát đã chỉ ra. Khi phân tách những người hút thuốc bởi các mức thu nhập khác nhau, kết quả khảo sát cho thấy rằng, mức tiêu thụ thuốc lá lậu chiếm tỷ trọng ngày càng giảm trong các nhóm thu nhập thấp hơn. Tỷ lệ tiêu thụ thuốc lá lậu giữa những người hút thuốc có thu nhập hàng tháng từ 20 triệu đồng trở lên được ước tính trên 30%, cao gấp 1,5 lần so với nhóm thu nhập từ 10 triệu đến dưới 20 triệu đồng (khoảng 20%), cao hơn gấp đôi so với nhóm thu nhập từ 4 triệu đến dưới 10 triệu (khoảng 14%), và gấp ba lần nhóm có thu nhập dưới 4 triệu đồng mỗi tháng (dưới 10%). 9 https://mic.gov.vn/pcthtl/Pages/TinTuc/115718/Nhung-dia-phuong--nong--vi-thuoc-la-lau.html 5. Thay lời kết - Ước lượng và đo lường một cách khách quan về mức độ tiêu thụ thuốc lá lậu đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các chính sách phòng chống thuốc lá phù hợp và toàn diện, đặc biệt là ở Việt Nam, nơi buôn lậu được coi là một vấn đề quốc gia đáng báo động. Trong khi đó, ở Việt Nam, hầu hết các ước lượng hiện có về tiêu thụ thuốc lá lậu đều được tài trợ trực tiếp hoặc có liên quan đến ngành công nghiệp thuốc lá. Mặc dù có rất nhiều bằng chứng đã chỉ ra rằng, việc tăng thuế đánh vào thuốc lá có tác động đáng kể đến việc giảm tỷ lệ hút thuốc và cải thiện doanh thu thuế của chính phủ, khi nói đến sự gia tăng có thể có của hoạt động buôn lậu, ngành công nghiệp thuốc lá dường như đã phóng đại mức buôn bán bất hợp pháp (Smith, Savell, & Gilmore, 2013; Stoklosa & Ross, 2014; Chen, McGhee, Townsend, Lam & Hedley, 2015; van Walbeek, 2014) cũng như tác động của việc tăng thuế thuốc lá đối với tiêu thụ bất hợp pháp (Chaloupka, Yurekli, & Fong, 2012) nhằm ngăn cản chính phủ tăng thuế. - Kết quả khảo sát cho thấy, việc tăng thuế thuốc lá không nhất thiết dẫn đến tiêu thụ thuốc lá lậu cao hơn ở Việt Nam như lập luận được phổ biến rộng rãi trong ngành công nghiệp thuốc lá. Thuốc lá bất hợp pháp chỉ chiếm khoảng 13,62% tổng lượng tiêu dùng thuốc lá ở Việt Nam trong năm 2017, thấp hơn năm 2015, 2012 và 2011 khi chưa có sự gia tăng thuế gần đây. Hoạt động buôn bán thuốc lá lậu tập trung nhiều ở miền Nam (84,4%) với hai nhãn hiệu phổ biến nhất là Jet và Hero (hơn 80%), thay vì phân bổ đồng đều trên toàn quốc, cho thấy vị trí địa lý đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định thương mại bất hợp pháp. Trên thực tế, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp và An Giang, bốn tỉnh phía Nam có biên giới với Campuchia là những địa điểm buôn lậu lớn nhất ở Việt Nam9. Vì vậy, để chống buôn bán trái phép một cách hiệu quả, cần phải có nhiều nguồn lực hơn để thắt chặt kiểm tra CHÑNH SAÁCH 32 Số 24(376) T12/2018 biên giới và giám sát thị trường ở các tỉnh này. Một số hoạt động và chiến dịch đặc biệt chuyên sâu được lãnh đạo bởi Ủy ban Chỉ đạo 389 quốc gia và tại các tỉnh này nhằm giải quyết tình trạng buôn lậu trong những năm gần đây, như đã được chỉ ra ở các phần trước, có thể góp phần làm giảm mức độ buôn bán bất hợp pháp ở miền Bắc và giảm tiêu thụ bất hợp pháp cả nước, và do đó cần được đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa. - Một trong những lập luận phổ biến nhất của ngành thuốc lá nhằm phản đối chính sách thuế thuốc lá là thuế suất cao hơn sẽ tạo ra những động cơ về mặt tài chính, người hút thuốc lá sẽ tránh thuế và trốn thuế nhằm mục đích mua thuốc lá với giá thấp hơn và tiết kiệm chi phí. Do đó, buôn bán bất hợp pháp có thể được khuyến khích, làm cho chính sách thuế không hiệu quả trong việc giảm hút thuốc cũng như trong việc tạo ra thu nhập cho chính phủ. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi cho thấy điều này không có khả năng xảy ra ở Việt Nam. Thứ nhất, giá trung bình của thuốc lá bất hợp pháp trong năm 2017 cao hơn đáng kể so với các loại thuốc lá hợp pháp trên cả nước, trong mỗi khu vực kinh tế - xã hội, trong đó có nhãn hiệu SE555. Đáng chú ý, sau khi thuế thuốc lá tăng từ 65% lên 70% trong năm 2016, sự chênh lệch này dường như lớn lên, thay vì giảm đi, khi tỷ lệ giữa giá trung bình của thuốc lá bất hợp pháp và thuốc lá hợp pháp tăng hơn 40%, từ 1,44 năm 2010 lên 2,08 vào năm 2017. Thứ hai, những người hút thuốc lá lậu dường như có mức thu nhập bình quân hàng tháng cao hơn đáng kể so với người hút thuốc lá hợp pháp, và do đó thu nhập của người hút thuốc càng cao, họ càng có nhiều khả năng tiêu dùng thuốc lá bất hợp pháp. Việc thiếu nguồn cung và rủi ro buôn lậu cao do Chính phủ giám sát chặt chẽ biên giới và kiểm tra thị trường một cách gắt gao có thể làm tăng giá thuốc lá bất hợp pháp so với các loại thuốc lá hợp pháp. Bằng cách làm cho giá thuốc lá bất hợp pháp trở nên đắt hơn một cách tương đối so với thuốc lá hợp pháp, Chính phủ đã có thể góp phần giảm tiêu thụ sản phẩm bất hợp pháp trong nước theo đề xuất của lý thuyết kinh tế tiêu chuẩn■ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Chen, J., McGhee, S. M., Townsend, J., Lam, T. H., & Hedley, A. J. (2015). Did the tobacco industry inflate estimates of illicit cigarette consumption in Asia? An empirical analysis. Tobacco Control, 24, 161-167. 2.Guindon, G. E., Nguyen-Thi-Thu, H., Hoang-Van, K., McGirr, E., Dang-Vul, T., & Nguyen-Tuan, L. (2010). Tobacco Taxation in Vietnam. Paris: International Union Against Tuberculosis. 3.IARC. (2011). IARC Handbooks of Cancer Prevention, Tobacco Control, Vol. 14: Effectiveness of Tax and Price Policies for Tobacco. Lion: IARC. 4.Joossens, L. (2003). Vietnam: Smuggling Adds Value. Tobacco Control, 12, 119-120. 5.Nguyen. (2015). Illicit cigarette trade and government loss in Vietnam. 6.Nguyen, M. T., Denniston, R., Nguyen, H. T., Hoang, T. A., Ross, H., & So, A. D. (2014). The Empirical Analysis of Cigarette Tax Avoidance and Illicit Trade in Vietnam, 1998-2010. PLoS ONE, 9(1), 1-6. 6.Smith, K. E., Savell, E., & Gilmore, A. B. (2013). What is known about tobacco industry efforts to influence tobacco tax? A systematic review of empirical studies. Tobacco Control, 22(1). 7.Stoklosa, M., & Ross, H. (2014). Contrasting academic and tobacco industry estimates of illicit cigarette trade: evidence from Warsaw, Poland. Tobacco Control, 23, 30-34. 8.van Walbeek, C. (2014). Measuring changes in the illicit cigarette market using government revenue data: the example of South Africa. Tobacco Control, 23, 69-74. 9.World Health Organization. (2015). WHO report on the global tobacco epidemic 2015: raising taxes on tobacco. World Health Organization. CHÑNH SAÁCH 33Số 24(376) T12/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthue_tieu_thu_dac_biet_va_thuoc_la_lau.pdf