Qua thực hiện nghiên cứu bệnh chứng nhằm
xác định tỉ lệ TSSNC và các yếu tố liên quan đến
trẻ sơ sinh nhẹ cân của các bà mẹ sống tại Tỉnh
Tiền Giang từ tháng 02 năm 2010 đến tháng 6
năm 2010 chúng tôi rút ra kết luận sau:
Tỉ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân tại thời điểm nghiên
cứu (< 2500 g) là 5,8%.
Các yếu tố liên quan độc lập đến trẻ sinh nhẹ
cân ở các thai phụ của Tỉnh Tiền Giang gồm có:
Những bà mẹ có cân nặng mẹ trước mang
thai < 45 kg thì có nguy cơ sinh nhẹ cân tăng
2,7 lần.
Nếu trong thời gian mang thai mà bà mẹ
tăng cân < 8 kg thì nguy cơ bị sinh nhẹ cân tăng
gấp 9,3 lần.
Những bà mẹ có kinh tế gia đình nghèo
khó thì có nguy cơ sinh con nhẹ cân tăng 10,3 lần.
Nếu trong thời gian mang thai mà những
bà mẹ bị bệnh thì nguy cơ sinh non tăng gấp 10,0
lần, những bệnh thường gặp trong nghiên cứu
của chúng tôi là: Tăng huyết áp thai kỳ, nhau tiền
đạo, nhiễm khuẩn đường sinh dục, bướu cổ.
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 498 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỉ lệ và một số yếu tố liên quan đến việc sinh trẻ nhẹ cân tại bệnh viện phụ sản Tiền Giang từ tháng 2 đến tháng 6 năm 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ - Trẻ Em 222
TỈ LỆ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC SINH TRẺ NHẸ CÂN
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TIỀN GIANG
TỪ THÁNG 2 ĐẾN THÁNG 6 NĂM 2010
Phạm Thị Kim Thủy*, Tạ Văn Trầm**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề - Mục tiêu: Trẻ sơ sinh nhẹ cân là trẻ có cân nặng lúc sinh <2500 g và là nguyên nhân cơ
bản gây tử vong sơ sinh. Nghiên cứu này giúp xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến TSSNC tại BVPS
Tiền Giang.
Phương pháp: Nghiên cứu bệnh - chứng.
Kết quả: Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành tại Bệnh viện Phụ sản Tiền Giang từ tháng 2 năm
2010 đến tháng 6 năm 2010. Tổng cộng có 2327 trẻ sơ sinh ra sống trong đó có 135 trẻ có cân nặng nhỏ hơn
2500 g, kết quả cho thấy tỉ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân là 5,8%. Trong số trẻ sinh ra nhẹ cân chủ yếu có cân nặng
từ 1500 g đến 2499 g chỉ có 5 trẻ có cân nặng từ 1000 g đến 2499 g và không có trẻ nào có cân nặng dưới
1000 g. Các yếu tố liên quan đến trẻ sơ sinh nhẹ cân gồm có: Những bà mẹ sống ở nông thôn (với p = 0,007,
OR = 1,91), trình độ học vấn của những bà mẹ học từ cấp 2 trở xuống (p =0,025, OR =2,06), những bà mẹ
có kinh tế gia đình nghèo khó (p < 0,0001, OR = 13,76 ), các bà mẹ khám thai < 3 lần (p < 0,0001, OR = 4,7),
bệnh của bà mẹ lúc mang thai (p < 0,0001, OR = 9,7), những bà mẹ trong thời gian mang thai buồn phiền, lo
lắng (p < 0,0001, OR = 6). Ngoài ra còn các yếu tố khác: chiều cao mẹ, cân nặng của bà mẹ trước khi mang
thai, mức tăng cân trong thai kỳ, cha hút thuốc lá. Các yếu tố trên khi phân tích đa biến thì còn lại 4 yếu tố
liên quan độc lập: Cân nặng của bà mẹ trước mang thai < 45 kg, tăng cân trong thai kỳ < 8 kg, mẹ có kinh tế
gia đình nghèo khó, mẹ bị bệnh lúc mang thai.
Kết luận: Chúng tôi đề xuất một số giải pháp can thiệp tại cộng đồng đối với các yếu tố nguy cơ đến trẻ sơ
sinh nhẹ cân phổ biến và đặc thù của Tỉnh Tiền Giang.
Từ khóa: Sơ sinh nhẹ cân.
ABSTRACT
PREVALENCE AND RELATED FACTORS TO LOW WEIGH NEWBORN BABIES AT TIEN GIANG
OBSTETRICS AND GYNECOLOGY HOSPITAL FROM 02/2010 TO 06/2010
PhamThi Kim Thuy, Ta Van Tram * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 222 - 228
Background - Objectives: Low birth weigh was birth weight < 2500 g, is the base cause of death new born
babies. Our research is to difine prevalence and related factor to low weigh newborn babies at Tien Giang
obstertrics and gynecology hospital.
Method: Case-control study.
Results: Our studying was done at Tien Giang obstetrics and gynecology hospital from 2/2010 to 6/2010.
There were 2327 lived newborn babies including 135 newborn babies which weight low 2500g (5.8%). Most of
low birth weigh were weight from 1500g to 2499g, there were 5 newborn babies from 1000g to 1499g, not
newborn baby low 1000g. Factors which was concerned to low birth weigh: mothers live in countryside (p=
0.007, OR= 1.91), mothers which education is low (p= 0.025, OR= 2.06), mothers which their economy is
* Trung tâm Y tế huyện Chợ Gạo – Tiền Giang ** BV. Đa Khoa Tiền Giang
Tác giả liên lạc: BS. Phạm thị Kim Thủy Điện thoại: 0984520200 Email: BsKimthuyMytho@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 223
difficult (p< 0.0001, OR= 6), mothers exammine pregnancy low 3 times (p< 0.0001, OR= 4.7), mothers are sick
in time of pregnancy (p<0.0001, OR= 9.7), mothers which anxious and unhappy in time of pregnancy (p<0.0001,
OR= 6). Beside, there were other factors: height of mothers, weight of mothers before pregnancy, developing of
pregnancy, smoking of father. After regression analysis, there are 4 independent association factors: weight of
mothers < 45 kg, weight of pregnancy < 8 kg, mothers which their economy is difficult, mothers are sick in time of
pregnancy.
Conclusion: We give some of method to interact in public to risk factors to low birth weigh which is popular
and characteristic of Tien Giang province.
Keyword: Low birth weigh.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cân nặng trẻ mới sinh là một trong những chỉ
số quan trọng hàng đầu đối với sự sống của trẻ
sơ sinh cũng như sự tăng trưởng và phát triển
sau này của trẻ.
Trẻ sơ sinh nhẹ cân (TSSNC) là trẻ có cân
nặng lúc sinh < 2500 g, theo định nghĩa của Tổ
chức Y tế Thế giới (TCYTTG)(228) là một vấn đề
sức khỏe đáng quan tâm trong lĩnh vực sản nhi
hiện nay.
Theo số liệu của TCYTTG năm 1990, TSSNC
ở các nước đang phát triển là 19 %, toàn thế giới
là 17%. Tại các nước đang phát triển, cân nặng
thấp dẫn đến tỉ lệ sinh ra những trẻ nhẹ cân rất
cao. Ví dụ: Nam Á là 30 % và các nước khu vực
khác là 10 – 20%.
Tỉ lệ TSSNC ở nước ta theo thống kê của Bộ Y
tế (2) năm 1998 là 8,5%, theo báo cáo sơ kết 6 tháng
đầu năm 1999 ở 31 tỉnh thành phía Nam của Vụ
Bảo vệ Sức khỏe Bà mẹ và Trẻ em, Kế hoạch hóa
gia đình (BVSKBMTE / KHHGĐ), Bộ Y tế , tỉ lệ
này là 4,01% trong đó đồng bằng sông Cửu Long
là 5,32%, riêng ở Việt Nam năm 2006 là 4,3% và
thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) là 7,17%(2,5). Ở
nước ta trong những năm gần đây, sức khỏe bà
mẹ, trẻ em ngày càng được cải thiện nhưng vấn
đề sơ sinh nhẹ cân vẫn là một trong các ưu tiên
cần giải quyết.
Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
nhằm mục đích xác định tỉ lệ và những yếu tố
liên quan đến TSSNC, trên cơ sở đó đề xuất
những biện pháp can thiệp phù hợp.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến
TSSNC tại BVPS Tiền Giang.
Mục tiêu cụ thể
- Xác định tỉ lệ TSSNC tại BVPS Tiền Giang.
- Xác định mối liên quan giữa TSSNC với tình
trạng kinh tế, nghề nghiệp, trình độ học vấn, thể
chất của bà mẹ và các yếu tố thai kỳ.
ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu
Các bà mẹ đến sinh và trẻ sinh ra tại BVPS
Tiền Giang từ tháng 2 năm 2010 đến tháng 6
năm 2010.
Dân số chọn mẫu
Các bà mẹ đến sinh và trẻ sinh ra sống tại
BVPS Tiền Giang từ tháng 2 năm 2010 đến tháng
6 năm 2010.
Cỡ mẫu
Tính theo công thức kiểm định tỉ số chênh
OR
{Z(1-α/2) )]21(22[ PP − +
Z(1-β) ]})21(2)11(1[ PPPP −+− 2
n =
(P1-P2)2
P1: Xác suất phơi nhiễm trong nhóm bệnh
P2: Xác xuất phơi nhiễm trong nhóm chứng
n= 130 trẻ cho nhóm bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ - Trẻ Em 224
Định nghĩa ca bệnh
Các bà mẹ sống trên địa bàn Tỉnh Tiền
Giang từ tháng 2 năm 2010 đến tháng 6 năm
2010 đã sinh con sống, được cân ngay sau
sinh, nặng dưới 2500g, có hồ sơ lưu trữ tại
BVPS Tiền Giang.
Định nghĩa ca chứng
Các bà mẹ sống trên địa bàn Tỉnh Tiền
Giang từ tháng 2 năm 2010 đến tháng 6 năm
2010 đã sinh con sống, được cân ngay sau sinh,
nặng từ 2500g trở lên, có hồ sơ lưu trữ tại BVPS
Tiền Giang.
=> Tỉ số chứng /bệnh được lựa chọn là 2/1.
Tiêu chí chọn mẫu
Tất cả các bà mẹ đến sinh và trẻ sinh ra sống
tại BVPS Tiền Giang.
Tiêu chí loại trừ
- Đa thai
- Các sản phụ không đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu bệnh - chứng.
Thu thập dữ liệu
- Bộ câu hỏi
- Thời gian thực hiện từ tháng 2 năm 2010
đến tháng 6 năm 2010.
Xử lý số liệu
Bằng phần mềm STATA 10.0 được tiến hành
qua 2 bước: phân tích đơn biến và đa biến.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tỉ lệ và mức độ trẻ sinh nhẹ cân
Bảng 1: Tỉ lệ và mức độ trẻ sinh nhẹ cân
Chỉ tiêu nghiên cứu Số lượng Tỉ lệ %
Cân nặng < 2500g 135 5,8
Mức độ nhẹ cân
< 1000 g 0
1000 đến 1499g 5 1,28
1500g đến 2499g 125 98,72
Nhận xét: Tỉ lệ TSSNC lúc sinh ra là 5,8%.
Các yếu tố liên quan đến TSSNC
Bảng 2: Liên quan giữa nơi cư trú của bà mẹ với
TSSNC
Cân nặng < 2500 g ≥ 2500 g Tổng
Nông thôn 100 (76,92) 165 (63,46) 265
Thành thị 30 (23,08) 95 (36,54) 125
Nơi
cư trú
n(%)
Tổng 130 260 390
Giá trị OR, p OR = 1,91; p = 0,007
Bảng 3: Liên quan giữa trình độ học vấn của bà mẹ
với TSSNC
Cân nặng < 2500 g ≥ 2500 g
TĐHV n(%)
Tổng
≤ Trung học cơ sở 110 (84,62) 189 (72,69) 299
≥ Trung học phổ thông 20 (15,38) 71 (27,31) 91
Tổng 130 260 390
Giá trị OR, p OR = 2,06; p = 0,025
Bảng 4: Liên quan giữa kinh tế gia đình của bà mẹ với
TSSNC.
Cân nặng < 2500 g ≥ 2500 g Tổng
Nghèo 18 (13,85) 3(1,15) 21
Không nghèo 112(86,15) 257(98,85) 369
Kinh tế n
(%)
Tổng 130 260 390
Giá trị OR, p OR = 13,76; p < 0,0001
Bảng 5: Liên quan giữa số lần khám thai của mẹ với
TSSNC.
Cân nặng < 2500 g ≥ 2500 g Tổng
< 3 lần 13 (10) 6 (2,31) 19
≥ 3 lần 117 (90) 254(97,69) 371
số lần
khám thai
của mẹ Tổng 130 260 390
Giá trị OR, p OR = 4,70; p < 0,0001
Bảng 6: Liên quan giữa bệnh của mẹ lúc mang thai
với TSSNC.
Cân nặng < 2500 g ≥ 2500 g Tổng
Có 44 (33,85) 13 (5) 57
Không 86 (66,15) 247 (95) 333
Bệnh của mẹ
n(%)
Tổng 130 260 390
Giá trị OR, p OR = 9,7; p < 0,0001
Bảng 7: Liên quan giữa tình cảm của bà mẹ lúc mang
thai với TSSNC
Cân nặng < 2500 g ≥ 2500 g Tổng
Buồn, lo lắng 47 (36,15) 24 (9,23) 71
Không buồn 83 (63,85) 236(90,77) 319
Tình cảm
mẹ n(%)
Tổng 130 260 390
Giá trị OR, p OR = 5,56; p < 0,0001
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 225
Bảng 8: Liên quan giữa chiều cao của mẹ với TSSNC.
Cân nặng < 2500 g ≥ 2500 g Tổng
< 145 cm 9 (6,92) 4 (1,54) 13
≥ 145 cm 121(93,08) 256(98,46) 337
Chiều
cao n(%)
Tổng 130 260 390
Giá trị OR, p OR = 4,76; p = 0,052
Bảng 9: Liên quan giữa cân nặng của bà mẹ trước
mang thai với TSSNC.
Cân nặng < 2500 g ≥ 2500 g Tổng
< 45 kg 69 (53,08) 62 (23,85) 131
≥ 45 kg 61 (46,92) 198(76,15) 259
Cân
nặng mẹ
Tổng 130 260 390
Giá trị OR, p OR = 3,61; p < 0,0001
Bảng 10: Liên quan giữa mức tăng cân trong thai kỳ
của bà mẹ với TSSNC.
Cân nặng < 2500 g ≥ 2500 g Tổng
< 8 kg 53 (40,77) 12 (4,62) 65
≥ 8 kg 77 (59,23) 248(95,38) 325
Tăng cân
n(%)
Tổng 130 260 390
Giá trị OR, p OR = 14,22; p < 0,0001
Bảng 11: Liên quan giữa hút thuốc lá của cha với
TSSNC.
Cân nặng < 2500 g ≥ 2500 g Tổng
Có 68 (52,31) 104 (40) 172
Không 62 (47,69) 156 (60) 218
Hút
thuốc
n(%)
Tổng 130 260 390
Giá trị OR, p OR = 1,64; p = 0,021
Bảng 12: Phân tích hồi quy đa biến các yếu tố liên
quan đến TSSNC.
Sinh nhẹ cân OR Giá trị p KTC 95%
Nơi cư trú 1,008 0,97 0,53 – 1,90
Trình độ học vấn 3,35 0,32 0,41 – 33,97
Kinh tế gia đình 10,26 0,026 3,18 – 24,17
Số lần khám thai 2,49 0,86 1,08 – 5,75
Bệnh của mẹ 9,97 0,000 4,72 – 21,04
Tình cảm 1,49 0,43 0,54 – 4,10
Chiều cao 1,25 0,78 0,24 – 6,38
Nặng trước thai 2,79 0,001 1,48 – 4,91
Mức tăng cân 9,34 0,000 4,23- -20,60
Thuốc lá cha 1,15 0,63 0,63- 2,11
Giá trị χ2 , p χ
2= 174,11; p ≤ 0,0001
BÀN LUẬN
Tỉ lệ và mức độ trẻ sinh nhẹ cân
Trong những năm gần đây tỉ lệ trẻ sinh ra
nhẹ cân có xu hướng giảm phản ánh sự tiến bộ về
công tác quản lý, chăm sóc phụ nữ khi mang thai
cũng như sự phát triển kinh tế xã hội của các
nước trong giai đoạn hiện nay(5). Ở nước ta tỉ lệ
trẻ sinh nhẹ cân cũng giảm dần theo từng năm
do điều kiện kinh tế xã hội nước ta ngày một
phát triển, vào năm 1980 có 20% trẻ sinh ra nhẹ
cân, đến năm 1990- 1992 tỉ lệ này đã giảm xuống
còn 17%, năm 2000 là 7,3%.
Tỉ lệ trẻ sinh nhẹ cân trong nghiên cứu của
chúng tôi là 5,8% thấp hơn tỉ lệ do UNICEF (8) và
TCYTTG(9) ước tính cho Việt Nam vào năm 2000
là 9% và thấp hơn của các tác giả Cù Thị Minh
Hiền là 7,2%, Trần Thanh Nhàn là 6,61%, Tô
Minh Hương là 11,4%. Điều này cũng phù hợp
với các báo cáo của các tác giả ở các nước trong
khu vực Đông Á - Thái Bình Dương báo cáo năm
1990- 1997 ở Nhật Bản là 7%, Thái Lan là 6%,
Trung Quốc là 9%. So với tỉ lệ TSSNC của Bộ Y
tế(2) là 4,3% và các năm khác từ năm 2002 đến 2005
cũng giao động từ 3,3 đến 4,2%. Trong nghiên cứu
của chúng tôi tỉ lệ TSSNC (bảng 1) còn hơi cao có
thể do nơi đây phần lớn là nông dân sống bằng
nghề nông, họ gắn bó với đồng ruộng, trình độ
học vấn còn thấp, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó
khăn họ chưa nhận ra được lợi ích của việc chăm
sóc sức khỏe khi có thai. Họ còn có quan niệm cổ
xưa là đi khám thai và siêu âm nhiều không tốt
cho thai nhi. Bên cạnh đó còn có một số cập vợ
chồng từ nơi khác đến, họ không có nghề nghiệp
ổn định nên họ không có điều kiện chăm sóc sức
khỏe tốt trong thời gian mang thai.
Các yếu tố liên quan đến TSSNC
Phân tích đơn biến
Các yếu tố thuộc về đặc trưng mẹ
Nghiên cứu của chúng tôi (bảng 2) cho thấy
nhóm bà mẹ sống ở nông thôn có nguy cơ sinh
con nhẹ cân gấp 1,9 lần so với nhóm bà mẹ sống
ở thành thị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p
= 0,007. Điều này cho thấy các yếu tố nguy cơ
khác đã tác động mạnh vào các bà mẹ sống ở
nông thôn ở Tỉnh Tiền Giang, nguy cơ sinh con
nhẹ cân thay đổi tùy từng vùng và từng khu vực
cho thấy tùy từng vùng mà điều kiện chăm sóc
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ - Trẻ Em 226
sức khỏe sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
phát triển của thai nhi.
Trình độ học vấn có liên quan đến mọi mặt
của cuộc sống của người phụ nữ trong đó có vấn
đề sinh đẻ và nuôi dạy con. Người phụ nữ có
trình độ học vấn cao thì có cơ hội kiếm được việc
làm tốt hơn, có thu nhập cao hơn(7) , có vai trò tốt
hơn trong gia đình, về mặt xã hội họ có nhiều cơ
hội giao tiếp hơn và tiếp cận được nhiều hơn về
vấn đề y tế. Họ có kinh nghiệm hơn trong vấn đề
nuôi dạy con so với các bà mẹ có trình độ học vấn
thấp. Trình độ học vấn ảnh hưởng rất nhiều đến
tỉ lệ TSSNC ở Tiền Giang. Những bà mẹ này tập
trung sống ở vùng nông thôn có mức sống kinh
tế thấp, thiếu các dịch vụ y tế.
Trong nghiên cứu của chúng tôi (bảng 4)
những bà mẹ thuộc hộ nghèo có nguy cơ sinh
con nhẹ cân cao gấp 13,76 lần so với nhóm bà
mẹ thuộc gia đình đủ ăn, khá và giàu, cho
thấy mối liên quan mạnh giữa kinh tế gia
đình thuộc hộ nghèo với sinh nhẹ cân với p <
0,0001. Ở địa phương chúng tôi, các gia đình
thuộc hộ nghèo được cung cấp sổ khám chữa
bệnh miễn phí và hỗ trợ vốn làm ăn để thoát
nghèo. Như vậy, chứng tỏ một tỉ lệ không nhỏ
hộ gia đình thuộc hộ nghèo vẫn chưa thoát
khỏi tình trạng nghèo khó.
Các yếu tố về tiền căn thai sản của bà mẹ
Khám thai định kỳ là một trong những nội
dung của công tác quản lý thai nghén nhằm giúp
bà mẹ hiểu biết cách chăm sóc vệ sinh thai nghén,
chế độ ăn uống đồng thời phát hiện kịp thời các
bệnh mắc phải trong thời gian mang thai, thực
hiện đầy đủ những nội dung khám thai góp phần
rất lớn trong việc giảm tỉ lệ TSSNC như nhận xét
của nhiều nghiên cứu đã nhấn mạnh được vai trò
của việc đi khám thai sớm và đầy đủ ngoài việc
phát hiện các yếu tố nguy cơ, xử trí kịp thời các
diễn biến bất lợi mà còn làm giảm những căng
thẳng về tâm lý trong thời gian mang thai, tạo
môi trường thuận lợi cho sự phát triển thai nhi.
Bệnh của mẹ trước khi mang thai và bệnh liên
quan đến thai nghén như: tăng huyết áp, tăng
huyết áp thai kỳ, nhau bong non, nhau tiền
đạo(7) sẽ làm giảm sự phát triển của thai nhi
gây sinh non và thai chậm phát triển trong tử
cung. Đây là một trong những nguyên nhân
chính gây ra trẻ sinh nhẹ cân. Trong nghiên cứu
của chúng tôi cho thấy bệnh của bà mẹ chủ yếu
tập trung ở ba tháng đầu và trước khi mang thai
gồm các bệnh: Bướu cổ, tăng huyết áp, nhau tiền
đạo, bệnh nhiễm khuẩn đường sinh dục.. Các
bệnh này đã ảnh hưởng đến thai nhi trong suốt
quá trình mang thai và là nguyên nhân gây ra trẻ
nhẹ cân. Kết qủa nghiên cứu (bảng 6) cho thấy
nhóm bà mẹ có bệnh lúc mang thai có nguy cơ
sinh con nhẹ cân gấp 9,73 lần so với nhóm bà mẹ
không bệnh lúc mang thai.
Các bà mẹ có các nỗi buồn phiền, lo lắng
thường ăn không ngon miệng, mất ngủ sẽ ảnh
hưởng đến tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe,
gây tác động không tốt đến sự phát triển của thai
nhi, nhiều nghiên cứu đã đề cặp đến vấn đề này
và khẳng định đó là một yếu tố quan trọng
không những ảnh hưởng đến cân nặng của trẻ
mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển tinh thần
của trẻ sau này(7). Trong nghiên cứu của chúng tôi
đã thu thập thông tin về trạng thái tâm lý của bà
mẹ trong suốt thời gian mang thai bằng phương
pháp phỏng vấn các bà mẹ về những tâm tư, lo
lắng cũng như những mâu thuẩn trong gia đình.
Kết quả (bảng 7) cho thấy các bà mẹ gặp buồn
phiền lo lắng trong thời gian mang thai có nguy
cơ sinh con nhẹ cân gấp 5,6 lần so với các bà mẹ
không buồn phiền, lo lắng.
Yếu tố nhân trắc học của bà mẹ
Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cho
thấy bà mẹ có chiều cao thấp hơn 145 cm có nguy
cơ sinh con nhẹ cân, chiều cao của mẹ là một yếu
tố tiên đoán chiều dài của thai nhi. Nghiên cứu
của Begum F thì có nhận xét chiều cao mẹ dưới
150 cm là yếu tố nguy cơ. Nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy bà mẹ có chiều cao thấp hơn 145 cm
có nguy cơ sinh con nhẹ cân với OR = 4,76 (1,29 –
21,48). Cân nặng trẻ sơ sinh không những chịu
tác động của yếu tố dinh dưỡng của bà mẹ trước
và trong thời gian mang thai mà còn chịu ảnh
hưởng từ yếu tố di truyền chiều cao từ bố và mẹ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 227
Cân nặng của bà mẹ trước khi mang thai là
một yếu tố nguy cơ sinh con nhẹ cân đã được
nhiều tác giả trong và ngoài nước khảo sát khi
nghiên cứu về nguy cơ sinh con nhẹ cân đã kết
luận nhưng có một điều khác nhau là bà mẹ
trước khi mang thai có cân nặng nhẹ hơn bao
nhiêu được xem là nguy cơ. Đa số tác giả trong
nước cho thấy cân nặng của bà mẹ trước khi có
thai dưới 40 kg được xem là yếu tố nguy cơ(1) . Từ
kết quả nghiên cứu cho thấy số bà mẹ sống tại
Tỉnh Tiền Giang sinh con nhẹ cân có cân nặng
dưới 45 kg chiếm tỉ lệ cao 53,08%, theo chúng tôi
thì nó có liên quan đến nhiều yếu tố khác như:
Kinh tế gia đình, trình độ học vấn, bệnh lý của bà
mẹ, là vấn đề lớn cần quan tâm.
Có thể nói tăng cân của bà mẹ trong thời gian
mang thai là yếu tố phản ánh và gắn kết rất chặt
chẽ với cân nặng của trẻ khi lọt lòng mẹ. Một
điều chắc chắn rằng không thể có trường hợp
không tăng cân hoặc tăng cân quá ít mà có thể
sinh ra được những đứa trẻ không nhẹ cân. Một
thai phụ từ khi bắt đầu có thai đến khi sinh tăng
cân trung bình từ 10 đến 12 kg. Tăng cân trong
thời kỳ mang thai có tác dụng thúc đẩy sự phát
triển của thai nhi, đặc biệt đối với các bà mẹ có
cân nặng thấp trước khi có thai.
Trong nghiên cứu của chúng tôi không đề
cặp đến ảnh hưởng của hút thuốc lá ở bà mẹ vì tỉ
lệ phụ nữ Việt Nam hút thuốc lá rất thấp khoảng
1- 2. Hút thuốc lá thụ động của những bà mẹ sinh
con có chồng hút thuốc lá, nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy nhóm các bà mẹ sinh con nhẹ cân có
chồng hút thuốc lá có nguy cơ sinh con nhẹ cân
gấp 1,64 lần so với nhóm bà mẹ có chồng không
hút thuốc lá.
Phân tích đa biến
Kết quả phân tích đa biến cho tất cả các biến
số có liên quan trong phân tích đơn biến: Nơi cư
trú của bà mẹ, trình độ học vấn, kinh tế gia đình,
số lần khám thai, bệnh của bà mẹ, tình cảm của
bà mẹ khi mang thai, chiều cao mẹ, cân nặng của
bà mẹ trước khi có thai, mức tăng cân trong thai
kỳ, cha hút thuốc lá. Sau khi loại bỏ các biến
không có ý nghĩa thống kê. Kết quả cho thấy:
Cân nặng mẹ trước mang: OR= 2,7
Tăng cân trong thai kỳ: OR = 9,3
Kinh tế gia đình: OR = 10,3
Mẹ bị bệnh trong thời gian mang thai: 10,0
KẾT LUẬN
Qua thực hiện nghiên cứu bệnh chứng nhằm
xác định tỉ lệ TSSNC và các yếu tố liên quan đến
trẻ sơ sinh nhẹ cân của các bà mẹ sống tại Tỉnh
Tiền Giang từ tháng 02 năm 2010 đến tháng 6
năm 2010 chúng tôi rút ra kết luận sau:
Tỉ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân tại thời điểm nghiên
cứu (< 2500 g) là 5,8%.
Các yếu tố liên quan độc lập đến trẻ sinh nhẹ
cân ở các thai phụ của Tỉnh Tiền Giang gồm có:
Những bà mẹ có cân nặng mẹ trước mang
thai < 45 kg thì có nguy cơ sinh nhẹ cân tăng
2,7 lần.
Nếu trong thời gian mang thai mà bà mẹ
tăng cân < 8 kg thì nguy cơ bị sinh nhẹ cân tăng
gấp 9,3 lần.
Những bà mẹ có kinh tế gia đình nghèo
khó thì có nguy cơ sinh con nhẹ cân tăng 10,3 lần.
Nếu trong thời gian mang thai mà những
bà mẹ bị bệnh thì nguy cơ sinh non tăng gấp 10,0
lần, những bệnh thường gặp trong nghiên cứu
của chúng tôi là: Tăng huyết áp thai kỳ, nhau tiền
đạo, nhiễm khuẩn đường sinh dục, bướu cổ.
KIẾN NGHỊ
Tăng cường công tác thông tin, giáo dục,
truyền thông về thai nghén cho phụ nữ ở tuổi
sinh đẻ làm sao cho mọi phụ nữ mang thai tự
giác đi khám thai và khám ít nhất 3 lần.
Giáo dục về kiến thức dinh dưỡng cho bà mẹ
trong thời gian mang thai để đảm bảo tăng cân từ
8 – 12 kg.
Hướng nghiên cứu sắp tới có thể là: Nghiên
cứu một số giải pháp can thiệp tại cộng đồng đối
với các yếu tố nguy cơ đến TSSNC phổ biến và
đặc thù của Tỉnh Tiền Giang.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ - Trẻ Em 228
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abel E. (2004), “Parternal contribution to fetal alcohol
syndrom”, Addict Biol, Vol 9, pp. 127-33.
2. Bộ Y tế (2004), Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe dinh dưỡng, Bản thảo tài liệu đào tạo, tr. 586- 687.
3. Goldenberg RL, Culhane JF (2007), “Low birth weight in the
United States”, Am J Clin Nutr, Vol 85(2), pp. 584-590.
4. Đinh Thị Phương Hoà (2000), “Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ
đối với trẻ thấp cân và tử vong sơ sinh ở một số vùng Miền Bắc
Việt Nam”, Luận án tiến sĩ y học, Đại học Y Hà Nội, tr. 9- 125.
5. Tô Minh Hương (2007), “Tần suất và những yếu tố nguy cơ
cho trẻ sơ sinh thấp cân tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội”, Tạp chí
Y học, Đại học Y Hà Nội, 7(12), tr. 13- 17.
6. Trần Thanh Nhàn (2008), “Tỉ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân và các yếu
tố liên quan ở Huyện Củ Chi”, Luận án tốt nghiệp chuyên
khoa 2, Bộ môn Sản phụ khoa, Đại học Y Dược thành phố Hồ
Chí Minh, tr. 3- 38.
7. Trần Sophia (2005), “Nghiên cứu tỉ lệ, một số yếu tố nguy cơ
của trẻ sơ sinh nhẹ cân và thử nghiệm một số can thiệp ở Cần
Thơ”, Luận án Tiến sĩ y học, Đại học Y Hà Nội, tr. 1-18.
8. Unicef (2001), Low birthweight – Reduction of low birthweight
rate to less than 10%, Graph leaflet.
9. World Health Organization (1992), Low Birth Weight: A
tabulation of available information, WHO/MCH/92.2, World
Health Organization, Geneva, and UNICEF, New York.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ti_le_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_viec_sinh_tre_nhe_can_t.pdf