Để kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu
quả, thiết nghĩ, cần có sự kết hợp chặt chẽ
hơn giữa kiểm soát của các cơ quan nhà nước
với kiểm soát của các tổ chức xã hội, trong
đó coi trọng kiểm soát của các cơ quan Đảng,
của Mặt trận và mỗi tổ chức thành viên của
Mặt trận. Giảm bớt sự phụ thuộc của Mặt trận
và các tổ chức xã hội khác vào Nhà nước để
hoạt động phản biện, kiểm soát quyền lực nhà
nước của các tổ chức đó có hiệu lực và hiệu
quả cao hơn.
Tôn trọng và lắng nghe những ý kiến
có tính chất xây dựng của những tổ chức,
những người không phải đảng viên đối
với các quyết định của Đảng, những người
không phải đại biểu Quốc hội đối với các
quyết định của Quốc hội, các tổ chức, những
người không phải công chức, viên chức nhà
nước đối với các quyết định của Nhà nước.
Phải tư duy rằng, Đảng, Nhà nước, Quốc hội,
Chính phủ hay bất kỳ cơ quan nào không
phải khi nào cũng đúng tuyệt đối hoặc cũng
có phương án hay nhất, tốt nhất, không có
hạn chế, khiếm khuyết, mà phải thấy rằng,
mỗi hiện tượng, sự việc nếu được xem xét,
tiếp cận từ nhiều phương diện, quan điểm
khác nhau thì bao giờ cũng sẽ hoàn chỉnh
hơn, có thể phát hiện ra những hạn chế,
khiếm khuyết để có phương án khắc phục
ngay từ đầu thì bao giờ cũng tốt hơn, đầy đủ,
toàn diện hơn. Bởi thực tế cho thấy, những
người có cùng chí hướng, cùng quan điểm
thường có cách nhìn vấn đề tương đối giống
nhau. Nếu họ có tranh luận thì cũng rất ít
sự khác biệt, chưa kể là họ còn phải tuân
theo kỷ luật của tổ chức mình khi đưa ra các
quyết định.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý về kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY PHÁP LÝ VỀ
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ, QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA
Tóm tắt:
Kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước cũng là một
cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp, thường xuyên và lâu dài: đấu
tranh trong chính bản thân mỗi cán bộ, đảng viên, trong nội bộ mỗi
tổ chức, cơ quan, đơn vị để tự kiểm soát mình; đấu tranh với đồng
chí mình, với các bộ phận khác trong cơ quan của mình, với các cơ
quan, tổ chức khác để bảo đảm cho quyền lực chính trị, quyền lực
nhà nước được thực hiện hiệu lực và hiệu quả nhất vì lợi ích, quốc
gia, dân tộc, vì một đất nước văn minh, hạnh phúc.
Nguyễn Minh Đoan*
* GS.TS. Trường Đại học Luật Hà Nội
Abstract
Control of political power, state power is a difficult, complicated,
regular and permanent fighting: it happens inside each cadre, party
member, inside each organization, agency and unit to control
themselves; constructive criticals given to his comrades, to other
units in his agency, to other agencies and organizations to ensure
that the political power and state power are enforced at the highest
efficiency for the sake of the benefits of the nation, of the people
and for a civilized and happy country.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước, kiểm soát
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 12/05/2019
Biên tập : 27/05/2019
Duyệt bài : 04/06/2019
Article Infomation:
Keywords: political power, state
power, controlling
Article History:
Received : 12 May 2019
Edited : 27 May 2019
Approved : 04 Jun 2019
1. Một số thuận lợi và khó khăn trong
kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực
nhà nước ở Việt Nam
Quyền lực là khả năng của chủ thể này
buộc các chủ thể khác phục tùng ý chí của
mình, song trong nhiều trường hợp, quyền
lực không phải là khả năng vốn có của chủ
thể mà là khả năng do các chủ thể khác mang
lại (giao cho). Quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước ở nước ta hiện nay do nhân
dân, cộng đồng giao cho Đảng, Nhà nước và
các tổ chức chính trị xã hội khác thực hiện.
Để quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước
được thực hiện đúng, có hiệu quả, không bị
lạm dụng, lợi dụng vào các mục đích không
hợp pháp, không chính đáng, thì cần phải có
sự kiểm soát thật chặt chẽ.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 12(388) T6/2019
Trong xã hội hiện đại, quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước cần phải hợp
pháp và chính đáng, nghĩa là, chúng phải
được tổ chức và thực thi hợp pháp, hợp lý
vì lợi ích của nhân dân. Đây là điều kiện vô
cùng quan trọng bảo đảm cho các quyền lực
nói trên được nhân dân trong cả nước chấp
thuận, ủng hộ, được các nước khác, các tổ
chức quốc tế thừa nhận, giúp đỡ... Có thể
nói tính hợp pháp, hợp lý là một trong những
yêu cầu quan trọng trong tổ chức và hoạt
động không chỉ của bộ máy nhà nước mà
còn của bộ máy tất cả các tổ chức khác trong
trong xã hội hiện nay. Điều đó chỉ có thể đạt
được khi việc kiểm soát quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước được tiến hành thường
xuyên, hiệu quả.
Vấn đề kiểm soát quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước đã được đặt ra từ rất sớm
với nhiều cơ chế khác nhau. Bên cạnh những
vấn đề mang tính phổ biến thì việc kiểm soát
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước ở
Việt Nam có rất nhiều điểm đặc thù so với
ở các quốc gia khác, như ở Việt Nam, chỉ có
một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt
Nam (CSVN) vừa lãnh đạo, vừa thực hiện
việc kiểm soát quyền lực. Hiện nay Việt Nam
là một trong những quốc gia thống nhất, hiếm
có quốc gia nào trên thế giới đa sắc tộc, nhưng
lại tạo nên một dân tộc thống nhất, một đất
nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo
của một đảng duy nhất và một hệ thống chính
trị thống nhất vì mục tiêu chung: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sự thống nhất đó xét ở phương diện tổ chức
và thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực
nhà nước có rất nhiều thuận lợi, song cũng
không ít khó khăn, hạn chế.
Ở Việt Nam, tất cả các tổ chức được
thành lập và hoạt động hợp pháp đều đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng, do vậy, việc lãnh
đạo Nhà nước và xã hội của Đảng CSVN là
vô cùng thuận lợi. Bất kỳ vấn đề gì khi mà
Đảng đã quyết thì mọi cơ quan nhà nước,
các tổ chức hợp pháp trong xã hội đều hưởng
ứng và tổ chức thực hiện, nhằm hiện thực
hóa quyết định của Đảng. Với một xã hội
đoàn kết, thống nhất, luôn có sự phối hợp
hành động, ủng hộ, giúp đỡ tận tình giữa Nhà
nước với các tổ chức khác trong việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức
và vì mục tiêu chung của quốc gia, dân tộc là
điều kiện vô cùng thuận lợi cho Đảng, Nhà
nước và xã hội. Có thể nói, Việt Nam đang
có một Quốc hội thống nhất, một Chính phủ
thống nhất và cả một hệ thống Tòa án thống
nhất, tất cả đều đặt dưới sự lãnh đạo của một
đảng duy nhất - Đảng CSVN.
Ở Việt Nam không tồn tại các đảng đối
lập, lực lượng đối lập có thể gây khó khăn
cho Đảng, cũng như cho Nhà nước trong việc
quyết định và thực hiện những đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của mình.
Nhưng do không có sự cạnh tranh từ các đảng
đối lập, các lực lượng đối lập nên động lực,
sức ép, áp lực cho sự luôn vươn lên, phấn đấu
không ngừng của Đảng cầm quyền, của Nhà
nước không cao, dẫn đến sự bằng lòng, thỏa
mãn với những gì đang có. Không có sự phản
biện từ các đảng đối lập, lực lượng đối lập
dễ làm cho sự thận trọng khi ra quyết định
không nhiều, dễ xuôi chiều.
Một số tổ chức đảng, cá nhân đảng
viên ngại đấu tranh phê và tự phê, duy tình,
cả nể trong công việc, sức chiến đấu với kẻ
thù thì rất cao, nhưng chiến đấu với cái sai
của đồng chí mình thì không cao, thường “dĩ
hòa vi quý”, “thông cảm cho nhau”, thậm chi
có trường hợp còn bảo vệ cái sai của nhau.
Điều này dẫn đến một số cán bộ, đảng viên,
kể cả những đảng viên giữ chức vụ quan
trọng trong bộ máy Đảng và Nhà nước, sĩ
quan các lực lượng vũ trang phạm tội đã bị
xét xử thời gian qua. Điều đó chứng tỏ vấn
đề kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực
nhà nước ở nước ta chưa thực sự hiệu quả,
dẫn đến nhiều vi phạm diễn ra trong những
thời gian khá dài mới bị phát hiện. Do vậy,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 12(388) T6/2019
để có hiệu quả cao trong kiểm soát quyền
lực chính trị, quyền lực nhà nước ở nước ta
hiện nay đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tư duy
pháp lý.
2. Một số giải pháp tiếp tục đổi mới tư duy
pháp lý về kiểm soát quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Có thể khẳng định rằng, đổi mới tư
duy pháp lý việc kiểm soát quyền lực chính
trị, quyền lực nhà nước ở Việt Nam đang là
một trong những vấn đề bức thiết đối với
Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam. Để
việc kiểm soát quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước ở Việt Nam hiệu lực, hiệu quả
hơn, theo chúng tôi, cần chú trọng những
giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân phải thấm nhuần quan điểm tất cả các
tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện quyền
lực chính trị, quyền lực nhà nước đều phải
bị kiểm soát
Bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi thực
hiện quyền lực cũng có thể có những hạn
chế, thiếu sót nhất định, thậm chí có thể lạm
quyền. Việc lạm dụng quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước thường dẫn đến những
hậu quả vô cùng nặng nề cho xã hội, cho
các tổ chức và cá nhân. Do vậy, tất cả các tổ
chức, cá nhân thực hiện quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước đều phải bị kiểm soát,
kể cả tổ chức Đảng CSVN. Không phải
ngẫu nhiên mà Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên
Đảng CSVN hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật”, “Đảng CSVN gắn
bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân
dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu
trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết
định của mình”. Đường lối, chính sách của
Đảng cần phải được phản biện, phải được
xem xét, đánh giá từ nhiều phương diện,
lực lượng khác nhau. Nếu đường lối, chính
sách của Đảng chưa hoàn thiện thì phải có
sự hoàn thiện trước khi triển khai thực hiện,
nếu có những cách tiếp cận khác hay hơn,
hiệu quả, phù hợp hơn thì phải điều chỉnh
lại cho phù hợp, hiệu quả nhất. Việc phản
biện, góp ý với Đảng phải được tiến hành
bởi Nhà nước, Nhân dân, các tổ chức xã hội
khác thông qua cơ chế đơn giản, thuận lợi,
thiết thực và hiệu quả.
Để khắc phục những hạn chế của chế
độ một đảng trong kiểm soát quyền lực chính
trị, quyền lực nhà nước, chúng tôi cho rằng,
cần tập trung củng cố, nâng cao vai trò của
các tổ chức chính trị hiện có trong giám sát,
phản biện, tham gia góp ý xây dựng Đảng
và Nhà nước. Nếu chỉ có Mặt trận giám sát,
phản biện xã hội đối với chính sách của Đảng
thì hiệu quả không cao, vì trong Mặt trận
có tổ chức thành viên là Đảng CSVN (gần
như Đảng lại giám sát, phản biện lại chính
mình). Do vậy, ngoài Mặt trận, mỗi tổ chức
thành viên của Mặt trận, các tổ chức khác
trong xã hội đều có thể độc lập giám sát,
phản biện, tham gia góp ý, xây dựng Đảng
và Nhà nước. Bác Hồ đã từng nói rằng, dân
chủ là phải làm sao cho dân dám mở miệng.
Trong điều kiện hiện nay Đảng, Nhà nước
phải làm sao cho các tổ chức, cá nhân trong
xã hội quan tâm nhiều hơn nữa và dám mạnh
dạn phản biện, dám đưa ra những ý kiến,
quan điểm của mình. Về phía các tổ chức, cơ
quan của Đảng, của Nhà nước phải tạo điều
kiện để Mặt trận, các tổ khác trong xã hội
giám sát, phản biện, đóng góp ý kiến, lắng
nghe, tranh luận với các ý kiến phản biện đó,
đồng thời cũng kiểm tra lại tính đúng đắn,
phù hợp trong các quyết định của mình.
Hai là, không ngừng hoàn thiện và đề
cao Hiến pháp, pháp luật trong kiểm soát
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước
Việc kiểm soát quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước theo tinh thần pháp
quyền, trong điều kiện nhà nước pháp quyền
thì phải coi trọng tính pháp lý, nghĩa là, đề
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 12(388) T6/2019
cao công cụ kiểm soát là Hiến pháp và pháp
luật theo tinh thần: Hiến pháp và pháp luật
có tính tối thượng, mọi tổ chức và cá nhân
đều phải tôn trọng, thực hiện nghiêm Hiến
pháp, pháp luật. Có thể khẳng định, truyền
thống duy tình, cả nể trong các mối quan
hệ xã hội không còn phù hợp trong xã hội
văn minh, pháp quyền - một xã hội đòi hỏi
phải sống, làm việc theo pháp luật, lấy pháp
luật làm chuẩn mực trong các mối quan
hệ xã hội quan trọng. Do vậy, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã luôn nhắc nhở “phải
nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”, quyền
lực phải bị ràng buộc bằng thể chế, mà quan
trọng nhất là Hiến pháp, pháp luật. Tất cả
mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội đều phải
tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật.
Điều này thể hiện chuyển biến rất rõ trong
quan điểm của Đảng liên quan đến nội dung
của Điều 4 Hiến pháp: Nếu Hiến pháp năm
1980 chỉ quy định “Các tổ chức của Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”, thì
Hiến pháp năm 1992 tiến thêm một bước đã
quy định không chỉ trong khuôn khổ Hiến
pháp mà cả pháp luật, Hiến pháp năm 2013
đã khẳng định không chỉ tổ chức của Đảng
mà cả đảng viên Đảng CSVN cũng phải hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật. Theo chúng tôi, đã đến lúc cần cụ thể
Điều 4 của Hiến pháp bằng một Luật về
Đảng CSVN để có điều kiện làm rõ hơn mối
quan hệ giữa các tổ chức của Đảng, đảng
viên với các cơ quan, tổ chức, nhân viên nhà
nước. Việc xây dựng Luật về Đảng CSVN
sẽ là căn cứ pháp lý không chỉ xác định
phạm vi lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức
của Đảng mà còn là căn cứ để Nhân dân, các
tổ chức, cá nhân kiểm tra, giám sát các tổ
chức của Đảng, các cá nhân đảng viên thực
hiện quyền lực của mình, lãnh đạo Nhà nước
và xã hội.
1 Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 176.
Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng
và ban hành Luật về Hội để các tổ chức hội
đều có căn cứ pháp lý hoạt động, trong đó
có hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước theo tinh thần quy định
của Hiến pháp: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ
chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật”.
Tiến hành hoàn thiện các luật về tổ
chức bộ máy nhà nước; các luật liên quan
đến giám sát, thanh tra, kiểm tra, theo dõi
thi hành pháp luật; các luật liên quan đến
khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng,
lãng phí; Luật về Bảo vệ Hiến pháp... để
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng
Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ”. Có các biện pháp để
bảo đảm “pháp luật vừa là công cụ để Nhà
nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để Nhân
dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực
nhà nước”1. Vấn đề quan trọng nhất hiện nay
là phải nâng cao tinh thần, trách nhiệm của
các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tổ chức
thi hành và thi hành Hiến pháp, pháp luật
để Hiến pháp, pháp luật được tôn trọng và
thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để bởi tất cả
các tổ chức và cá nhân trong xã hội, không
có ngoại lệ.
Ba là, xác định và quy định rõ hơn
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi
hoạt động của mỗi tổ chức, mỗi cơ quan
tham gia thực hiện quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước làm căn cứ cho việc
kiểm soát quyền lực
- Xác định và quy định rõ hơn chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi hoạt
động của mỗi tổ chức thực hiện quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 12(388) T6/2019
Có thể nói, hiện nay hầu hết các hoạt
động lớn, quan trọng ở Việt Nam đều theo
tinh thần “cả hệ thống chính trị vào cuộc”
do vậy kiểm soát quyền lực nhà nước nói
riêng, quyền lực nói chung phải được nhìn
nhận trong tổng thể. Không thể kiểm soát
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp của các cơ quan nhà nước nếu không
kiểm soát việc lãnh đạo, việc tham gia thực
hiện các quyền đó của các tổ chức của Đảng,
của các tổ chức xã hội khác. Do vậy, cần
phân công, phối hợp một cách cụ thể hơn,
hợp lý hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
phạm vi hoạt động của mỗi tổ chức, mỗi cơ
quan tham gia thực hiện quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước.
Hiện nay, sự phân công chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn giữa các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở Việt Nam còn chung
chung, chưa thật sự cụ thể, rõ ràng, dẫn đến
hiện tượng cùng một việc nhưng nhiều tổ
chức cùng tham gia, lấn sân lẫn nhau, đặc
biệt là quan hệ giữa bộ máy đảng và bộ máy
nhà nước. Một số cơ quan, lãnh đạo của
Đảng đôi khi trực tiếp chỉ đạo, can thiệp quá
sâu, quá mức cần thiết vào hoạt động của
các cơ quan nhà nước. Một số cơ quan nhà
nước đôi khi chưa chủ động, có biểu hiện ỷ
lại, trong chờ vào các cơ quan của Đảng. Tất
cả những điều đó dẫn đến sự vận hành của
hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay khá
chậm, thậm chí có những sự việc rất chậm
làm cho cả nước nói chung, từng cơ quan,
tổ chức vẫn đang tiến lên, nhưng tốc độ rất
chậm, chưa xứng với tiềm năng, khả năng
của đất nước.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với
Nhà nước và xã hội, tuy vậy, sự lãnh đạo
của Đảng cũng có giới hạn, Đảng không
can thiệp vào những hoạt động có tính chất
2 Đảng CSVN, Văn kiện XII, tlđd, tr. 176.
nghiệp vụ, kỹ thuật của Nhà nước và các tổ
chức khác trong xã hội đã được Hiến pháp,
pháp luật quy định. Việc xác định rõ phạm
vi lãnh đạo của Đảng gồm các lĩnh vực, các
vấn đề, mức độ lãnh đạo đối với Nhà nước
và các tổ chức xã hội khác có ý nghĩa vô
cùng lớn, nó tránh được hoặc là buông lỏng
vai trò lãnh đạo của Đảng hoặc sự can thiệp
quá mức cần thiết (quá mức quy định) của
các tổ chức đảng hoặc các cá nhân đảng viên
có chức vụ vào công việc của Nhà nước và
các tổ chức khác. Đồng thời, cần xác định
đối với mỗi tổ chức việc gì họ phải chủ động
thực hiện theo nhiệm vụ, quyền hạn được
phân công, việc gì phải có ý kiến chỉ đạo của
tổ chức đảng tương ứng. Việc xác định phạm
vi hoạt động của mỗi tổ chức cụ thể, rõ ràng
cũng là cơ sở để quy trách nhiệm cho mỗi tổ
chức đối với những công việc không được
triển khai, triển khai không hiệu quả hoặc
triển khai không đúng so với thể chế.
- Xác định và quy định rõ hơn chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi hoạt
động của mỗi cơ quan thực hiện quyền lực
nhà nước.
Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ: cần
“Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực
thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm
soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước
là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và
trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy
định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực
hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính
quyền”2. Do vậy, trong các văn bản luật cần
quy định cụ thể hơn mối quan hệ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực
nhà nước. Cụ thể là:
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 12(388) T6/2019
- Xác định rõ hơn quan hệ giữa Quốc
hội với Chính phủ trong thực hiện quyền lập
pháp
Trong điều kiện nhân sự của cả Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án đều là người của
Đảng CSVN thì mối quan hệ giữa các cơ
quan nhà nước, đặc biệt là giữa Quốc hội
và Chính phủ cần phải được quy định rõ
ràng, cụ thể hơn. Lâu nay ở nước ta mọi
người vẫn tranh luận về việc Quốc hội “làm
lại” những dự thảo văn bản luật mà Chính
phủ trình, trong khi các đại biểu Quốc hội
chuyên trách không nhiều, hầu hết là đại
biểu kiêm nhiệm, Quốc hội lại không hoạt
động thường xuyên. Chúng tôi cho rằng,
nếu không đồng ý với dự thảo luật mà Chính
phủ trình thì Quốc hội cũng không nên tự
sửa vào dự thảo luật, mà Quốc hội sẽ cho ý
kiến về dự thảo (ý kiến chính thức của Quốc
hội, chứ không phải của một hay một vài
đại biểu), trả lại dự thảo yêu cầu Chính phủ
(cơ quan trình) chỉnh sửa và trình lại. Bởi
trong hoạt động lập pháp, Chính phủ và các
cơ quan khác chịu trách nhiệm đề xuất sáng
kiến lập pháp, thực hiện việc soạn thảo và
trình dự thảo luật, Quốc hội là cơ quan quyết
định cuối cùng. Cần hạn chế hoặc tiến tới
quy định trừ Thủ tướng, các thành viên khác
của Chính phủ không đồng thời là đại biểu
Quốc hội để việc kiểm soát thực hiện quyền
lực nhà nước của hai cơ quan này thực chất,
hiệu lực và hiệu quả hơn.
- Nâng cao vai trò của các cơ quan
thực hiện quyền tư pháp trong mối quan hệ
với Quốc hội, với Chính phủ và trong việc
giải thích Hiến pháp, pháp luật.
Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác
của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách
nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ
Hiến pháp do luật định”, do vậy, Quốc hội
cần nhanh chóng xây dựng Luật về Bảo vệ
Hiến pháp, cách thức, trình tự bảo vệ Hiến
pháp của các cơ quan và Nhân dân. Theo
chúng tôi, để bảo vệ Hiến pháp có hiệu quả
thì ngoài quy định trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước và Nhân dân thì cần phải
thiết lập một thiết chế chuyên trách bảo
vệ Hiến pháp. Việc thiết lập cơ chế bảo vệ
Hiến pháp không chỉ để bảo đảm cho Hiến
pháp được tôn trọng, được thực hiện nghiêm
minh, mà còn có tác dụng rất lớn trong việc
bảo vệ lợi ích của các tổ chức, cá nhân, bảo
vệ quyền con người và quyền công dân, giải
quyết tranh chấp giữa các quyền lập pháp,
quyền hành pháp, quyền tư pháp. Phải phấn
đấu để tiến tới áp dụng trực tiếp các quy định
của Hiến pháp trong việc bảo vệ lợi ích của
các tổ chức và cá nhân theo đúng quy định:
“Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, có hiệu lực pháp lý
cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải
phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm
Hiến pháp đều bị xử lý”.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi quyền
tư pháp phải được đề cao, Tòa án không chỉ
giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành
chính, kinh tế, hôn nhân và gia đình mà
còn phải giải quyết những tranh chấp giữa
các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước.
Do vậy, quy định cho thiết chế chuyên trách
bảo vệ Hiến pháp thẩm quyền giải thích Hiến
pháp, luật và ra phán quyết về tính hợp hiến,
hợp pháp của các văn bản pháp luật, cũng
như hành vi pháp luật của các tổ chức, cá
nhân là phù hợp với sự phát triển của quyền
lực tư pháp. Bởi cơ quan thực hiện quyền tư
pháp, luôn nhân danh Quốc gia để xét xử, thì
thiết chế chuyên trách bảo vệ Hiến pháp tiến
hành giải thích mang tính phán quyết về các
quy định của Hiến pháp và bảo vệ Hiến pháp
sẽ hợp lý hơn. Việc giải thích Hiến pháp và
phán quyết về tính hợp hiến, hợp pháp của
các văn bản pháp luật, cũng như hành vi của
các tổ chức, cá nhân (nhất là của những cá
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 12(388) T6/2019
nhân đảm nhiệm những chức vụ cao trong
Nhà nước và xã hội) cần có sự khách quan,
độc lập mà cơ quan có tính độc lập cao nhất
trong các cơ quan thực hiện quyền lực nhà
nước khi hoạt động (xét xử) luôn là cơ quan
thực hiện quyền tư pháp.
- Quy định rõ mối quan hệ giữa chính
quyền trung ương với chính quyền địa
phương các cấp theo hướng tăng tính tự chủ
của địa phương, tăng cường kiểm soát của
trung ương
Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền
cho chính quyền địa phương, bảo đảm mỗi
cấp chính quyền có nhiệm vụ, quyền hạn
riêng của mình, các cấp hạn chế việc can
thiệp vào nhiệm vụ, quyền hạn của nhau,
đồng thời tăng cường sự kiểm soát của chính
quyền trung ương đối với chính quyền địa
phương. Việc phân công thực hiện quyền
lực nhà nước một cách rõ ràng giữa trung
ương và địa phương sẽ tránh được tình trạng
đùn đẩy không muốn thực hiện hoặc tranh
nhau thực hiện đối với một số công việc
nhất định của Nhà nước. Trung ương nên
tập trung vào xây dựng chính sách vĩ mô,
pháp luật, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất
về mặt thể chế, còn mỗi địa phương được
quyền chủ động, sáng tạo trong việc thực
thi nhiệm vụ, quyền hạn được trao. Đối với
nước ta hiện nay thì cần tiếp tục phân cấp
nhiều hơn cho chính quyền cơ sở để phát
huy khả năng sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của Nhân dân và chính quyền
cơ sở. Các đơn vị hành chính mỗi cấp cần
chủ động tự giải quyết một số vấn đề nảy
sinh trên địa bàn của mình để tránh sự ôm
đồm bao biện của chính quyền cấp trên, làm
mất sự chủ động, sáng tạo của chính quyền
cấp dưới, giảm bớt sự trông chờ, ỷ lại vào cơ
quan nhà nước cấp trên. Với sự thống nhất
cao độ như đã nêu trên cần phải phân công
thật rõ ràng, chính xác để không bị chồng
lấn, nhưng cũng không để công việc cần
thiết nào lại không có cơ quan, tổ chức nào
đảm nhiệm. Phải làm sao để mỗi chủ thể đều
phải tự chịu trách nhiệm về những gì mình
được phân công, song cũng có thể góp ý,
kiểm soát được chủ thể khác để cùng thực
hiện công việc chung của tất cả các chủ thể,
cũng như công việc riêng của mỗi chủ thể
được tốt hơn, hiệu quả hơn. Các cơ quan nhà
nước phải tự kiểm soát mình và kiểm soát
lẫn nhau trong việc thực hiện bộ phận quyền
lực nhà nước được phân công. Nếu các cơ
quan nhà nước không tự kiểm soát được
mình, thì làm sao có thể kiểm soát được các
cơ quan khác trong thực hiện quyền lực nhà
nước. Do vậy, phải xác định từng cơ quan,
đơn vị tự kiểm soát lấy mình là chủ yếu và
thường xuyên, còn kiểm soát ngoài theo
định kỳ hoặc đột xuất là quan trọng.
Bốn là, thực hiện nghiêm chế độ công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
trong tổ chức, hoạt động của các tổ chức,
cơ quan
Có thể nói công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình trong tổ chức, hoạt động của
các tổ chức, cơ quan nhà nước là một trong
những yêu cầu, đòi hỏi của một xã hội dân
chủ, một yếu tố để tạo lòng tin cho những tổ
chức, cá nhân chịu sự lãnh đạo và quản lý. Ở
Việt Nam, những hoạt động nói trên còn khá
hạn chế, trong nhiều trường hợp người ta
chỉ thông tin một phần sự thật và thường là
những thông tin tốt về hoạt động của các tổ
chức, cá nhân. Nếu không đủ thông tin cần
thiết về sự việc, về tổ chức, cá nhân nào đó
dễ dẫn đến có những quyết định thiếu chính
xác. Chẳng hạn, thiếu những thông tin cần
thiết về các ông Đinh La Thăng, Trịnh Xuân
Thanh... nên Đảng và nhân dân đã có những
quyết định thiếu chính xác khi chọn họ vào
những vị trí quan trong trong bộ máy đảng
và nhà nước. Do vậy, để kiểm soát việc thực
hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước
thì tất cả những hoạt động công cộng không
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 12(388) T6/2019
liên quan đến bí mật quốc gia hay bí mật
nghề nghiệp... phải được công khai, minh
bạch, phải được giải trình đầy đủ theo quy
định của pháp luật. Nếu không công khai,
minh bạch, không giải trình đầy đủ những
thông tin cần thiết thì không có dân chủ thực
sự, không có kiểm soát việc thực hiện quyền
lực thực sự và hiệu quả. Dân chủ không chỉ
thực hiện ở cơ sở mà còn cần được chú trọng
thực hiện ở các cấp cao hơn.
Năm là, quy định và thực hiện nghiêm
minh các biện pháp xử lý đối với những
hoạt động, hành vi trái Hiến pháp, pháp luật
trong quá trình thực hiện quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước của các tổ chức, cá nhân
Một trong những mục đích của hoạt
động kiểm soát quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước là phòng ngừa, ngăn chặn hiện
tượng thực hiện quyền lực không đúng quy
định của các thể chế, đặc biệt là Hiến pháp,
pháp luật, không đúng mục đích đề ra và
không hiệu quả. Muốn đạt được mục đích
trên thì phải quy định trách nhiệm chính trị
và trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc, chặt
chẽ, đầy đủ và áp dụng nghiêm minh đối với
các cơ quan, cá nhân trong thực hiện quyền
lực. Trong trường hợp các cơ quan, cá nhân
không thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn
được giao, họ phải bị lên án, bị tẩy chay, nếu
vi phạm thể chế thì phải bị trừng phạt. Để cơ
quan và cá nhân có trách nhiệm cao hơn đối
với quyền lực được giao, đòi hỏi đi đôi với
việc giao quyền phải quy định chặt chẽ, đầy
đủ cả trách nhiệm chính trị và trách nhiệm
pháp lý đối với mỗi cơ quan, cá nhân trong
thực hiện quyền lực. Cần phải “có chế tài xử
lý thích đáng những cán bộ vi phạm pháp
luật, nhất là cán bộ giữ vị trí lãnh đạo, quản
lý”3. Kiên quyết, xử lý nghiêm minh những
vi phạm nếu có của bất kỳ tổ chức, cá nhân
nào theo tinh thần tất cả phải bình đẳng, phải
3 Đảng CSVN, Văn kiện XII, tlđd, tr. 310.
chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết
định của mình.
Đối với trách nhiệm pháp lý, cần quy
định trách nhiệm theo cả nghĩa tích cực và
cả nghĩa tiêu cực. Nguyên tắc pháp quyền
đòi hỏi trách nhiệm pháp lý của cơ quan,
nhân viên nhà nước phải được hình thành
trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm thực hiện
bằng các biện pháp hợp pháp. Theo tinh thần
đó, Hiến pháp năm 2013 đã quy định: Đảng
CSVN chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu
trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết
định của mình. Hội đồng nhân dân chịu trách
nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên. Các cơ quan khác
như Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát, Chủ
tịch nước phải chịu trách nhiệm trước Quốc
hội, còn Ủy ban nhân dân phải chịu trách
nhiệm trước Hội đồng nhân dân. Tuy vậy,
trong Hiến pháp năm 2013 lại không quy
định: Quốc hội đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước
Nhân dân. Điều này đã được các Hiến pháp
trước đây quy định, song Hiến pháp năm
2013 lại không quy định nữa. Do vậy, theo
chúng tôi cần bổ sung quy định này để đề
cao trách nhiệm của Quốc hội trước Nhân
dân, điều này còn thể hiện các cơ quan khác
của Nhà nước chịu trách nhiệm trước Quốc
hội tức là gián tiếp chịu trách nhiệm trước
Nhân dân.
Sáu là, thiết lập cơ chế thuận lợi để
nhân dân tham gia kiểm soát quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước hiệu quả, kết
hợp chặt chẽ kiểm soát của Nhà nước với
kiểm soát của xã hội đối với các cơ quan và
cá nhân thực hiện quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước
Trong điều kiện hiện nay, ngoài Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 12(388) T6/2019
viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực
hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội;
giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại
nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thì nên quy định Chủ tịch nước phải có
trách nhiệm liên kết, thống nhất các tầng lớp
nhân dân, thay mặt nhân dân để kiến nghị
với Đảng, Nhà nước về những nguyên vọng
chính đáng, hợp pháp của Nhân dân. Cần
nghiên cứu bổ sung quy định trao cho Chủ
tịch nước quyền thay mặt Nhân dân đề nghị
Quốc hội xem xét lại đối với các quy định, các
quyết định của Quốc hội mà Nhân dân hoặc
một bộ phận lớn Nhân dân chưa đồng tình.
Để kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu
quả, thiết nghĩ, cần có sự kết hợp chặt chẽ
hơn giữa kiểm soát của các cơ quan nhà nước
với kiểm soát của các tổ chức xã hội, trong
đó coi trọng kiểm soát của các cơ quan Đảng,
của Mặt trận và mỗi tổ chức thành viên của
Mặt trận. Giảm bớt sự phụ thuộc của Mặt trận
và các tổ chức xã hội khác vào Nhà nước để
hoạt động phản biện, kiểm soát quyền lực nhà
nước của các tổ chức đó có hiệu lực và hiệu
quả cao hơn.
Tôn trọng và lắng nghe những ý kiến
có tính chất xây dựng của những tổ chức,
những người không phải đảng viên đối
với các quyết định của Đảng, những người
không phải đại biểu Quốc hội đối với các
quyết định của Quốc hội, các tổ chức, những
người không phải công chức, viên chức nhà
nước đối với các quyết định của Nhà nước.
Phải tư duy rằng, Đảng, Nhà nước, Quốc hội,
Chính phủ hay bất kỳ cơ quan nào không
phải khi nào cũng đúng tuyệt đối hoặc cũng
có phương án hay nhất, tốt nhất, không có
hạn chế, khiếm khuyết, mà phải thấy rằng,
mỗi hiện tượng, sự việc nếu được xem xét,
tiếp cận từ nhiều phương diện, quan điểm
khác nhau thì bao giờ cũng sẽ hoàn chỉnh
hơn, có thể phát hiện ra những hạn chế,
khiếm khuyết để có phương án khắc phục
ngay từ đầu thì bao giờ cũng tốt hơn, đầy đủ,
toàn diện hơn. Bởi thực tế cho thấy, những
người có cùng chí hướng, cùng quan điểm
thường có cách nhìn vấn đề tương đối giống
nhau. Nếu họ có tranh luận thì cũng rất ít
sự khác biệt, chưa kể là họ còn phải tuân
theo kỷ luật của tổ chức mình khi đưa ra các
quyết định.
Phải thấy rằng, Đảng CSVN dù là lực
lượng ưu tú nhất của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc, song
không phải mọi quyết định của Đảng là
đúng, cũng có những quyết định của Đảng
chưa chính xác, hoặc tổ chức triển khai chưa
phù hợp dẫn đến kết quả không như mong
muốn. Chẳng hạn, việc công hữu quá nhanh
các tư liệu sản xuất mà không tính đến trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhất là
người sản xuất; việc ồ ạt thành lập các tập
đoàn kinh tế, mà không chú ý đến tính hiệu
quả của việc làm đó... Thời gian gần đây,
những đường lối, chính sách lớn của Đảng
do cơ quan cao nhất của Đảng (Đại hội đại
biểu toàn quốc) đã được công bố rộng rãi
để các tổ chức, các tầng lớp nhân dân trong
và ngoài nước góp ý. Đây là một bước phát
triển dân chủ rất cao và cũng là biểu hiện
Đảng CSVN không chỉ của giai cấp công
nhân mà còn của cả dân tộc, phấn đấu vì lợi
ích của cả dân tộc. Tuy vậy, cũng có một số
chính sách do các cơ quan khác của Đảng đề
xuất và quyết định thì chưa có được sự tham
gia, kiểm soát đúng mức từ phía Nhân dân,
các tổ chức khác trong xã hội. Thiết nghĩ,
vấn đề này cũng cần có cơ chế để Nhân dân
góp ý theo đúng tinh thần mà Đảng đã đề ra
là: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 12(388) T6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tiep_tuc_doi_moi_tu_duy_phap_ly_ve_kiem_soat_quyen_luc_chinh.pdf