Lạm phát ở nước ta trong thời gian qua so với nhiều nước luôn ở mức cao và kéo 
dài do nhiều nguyên nhân, bao gồm cầu kéo, chi phí đẩy và một số yếu tố đặc thù tác 
động làm gia tăng các yếu tố cầu kéo và chi phí đẩy. Nhưng nguyên nhân chủ yếu chính 
là cầu kéo (tổng mức đầu tư vượt quá tiết kiệm, tín dụng, tổng phương tiện thanh toán 
tăng nhanh.). Lạm phát suy cho cùng là bức tranh phản ánh của sự mất cân đối giữa 
tổng cung và tổng cầu. Tuy nhiên cơ cấu cung và cơ cấu cầu trong môi trường thị hiếu 
biến đổi nhanh và qui luật khan hiếm tài nguyên thiên nhiên cho sản xuất cũng tham gia 
gây hiệu ứng tới lạm phát.
Giảm thiểu các tác động tiêu cực của lạm phát là một vấn đề mang tính chất vĩ mô, 
đặc biệt đối với một nền kinh tế đang trên đà phát triển như Việt Nam. Sự hy sinh tăng 
trưởng năm 2011 để kiềm chế lạm phát như quyết sách của chính phủ Việt Nam đã đủ 
nói lên tầm quan trọng của vấn đề. Lạm phát luôn rình rập và đe dọa nền kinh tế nước ta
bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước cần phải luôn thận trọng trong mỗi bước 
đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để 
phát triển khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vục nói 
riêng và các quốc gia trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của riêng ai mà là một 
phần không nhỏ dành cho các nhà doanh nghiệp trẻ góp phần làm rạng danh đất nước 
trong nhiều năm tới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
29 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2651 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nguyên nhân lạm phát năm 2010-2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
................................................................. 
 .................................................................................................................................. 
5 
MỤC LỤC 
1. LỜI NÓI ĐẦU 
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT .................................................. Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.1 Các khái niệm ............................................................................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.2 Phân loại ....................................................................................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.3 Đo lường ....................................................................................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.3.1 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ..................................................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.3.2 Chỉ số giảm phát GDP ........................................................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.4 một số khái niệm khác .................................................................. Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.5 Nguyên nhân của lạm phát ............................................................ Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.5.1 Lạm phát do cầu kéo .............................................................. Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.5.2 Lạm phát do cầu thay đổi ...................................................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.5.3 Lạm phát do chi phí đẩy ........................................................ Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.5.4 Lạm phát do cơ cấu ............................................................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.5.5 Lạm phát do xuất khẩu .......................................................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.5.6 Lạm phát do nhập khẩu ......................................................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.5.7 Lạm phát tiền tệ ..................................................................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
2.5.8 Lạm phát đẻ ra lạm phát ........................................................ Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
3. LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM 2010-2011 .......................................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
3.1 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam năm 2010-2011 ...................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
3.2 Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam năm 2010 – 2011 ................ Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
3.2.1 Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế ở mức độ cao bằng mọi giá. ..... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được 
xác định. 
3.2.2 Do tính quy luật về quan hệ cung cầu hàng hóa theo mùa trong năm. ..... Lỗi! Thẻ đánh dấu không 
được xác định. 
3.2.3 Do chính sách xã hội hoá học tập và giá một số mặt hàng do nhà nước quản lý định hướng giá sang cơ 
chế thị trường. ................................................................................ Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
3.2.4 Do thiên tai ............................................................................ Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
3.2.5 Do tác động của giá cả trên thị trường thế giới...................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
3.2.6 Việc phá giá đồng bạc Việt Nam (VNĐ) và xuất nhập khẩu. Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
3.2.7 Do tác động của quá trình đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng. ... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác 
định. 
3.2.8 Do tác động của lãi suất. ........................................................ Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
3.2.9 Do biến động của giá vàng và diễn biến tâm lý của người dân. ...... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác 
định. 
3.2.10 Nợ công và chi tiêu công quá mức. ..................................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
3.2.11 Do vấn đề tiền tệ. ................................................................. Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. 
4. KẾT LUẬN 
5. NGUỒN THAM KHẢO 
6 
LỜI NÓI ĐẦU 
Lạm phát tại Việt Nam vẫn ở mức cao nhất châu Á, cao kỷ lục 23% vào tháng 
Tám và hạ xuống 22,4% trong tháng Chín năm 2011. Giá lương thực vẫn tiếp tục tăng 
mạnh, ở mức 31,72% trong tháng Mười so với một năm trước đó. Năm nay, Việt Nam 
chuyển ưu tiên từ tăng trưởng kinh tế thành ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên chính phủ 
đã phải nâng mục tiêu lạm phát năm 2011 từ 15% tới 18% do giá cả vẫn tăng mạnh. 
Chính phủ thực hiện một loạt các biện pháp, bao gồm tăng lãi suất cơ bản, cam kết cắt 
giảm chi tiêu công, và giảm tín dụng dưới 20%... 
Diễn biến phức tạp của lạm phát đang tác động đến đời sống thường ngày của 
người dân, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cũng như gây khó 
khăn đối với kinh tế vĩ mô. Đây cũng là một vấn đề trọng tâm mà Chính phủ đang tâm 
trung theo dõi, nghiên cứu để tiếp tục thực hiện các giải pháp điều hành. Để có thể nhận 
định và đưa ra những chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô hợp lý và 
hiệu quả, cần phải phân tích, nghiên cứu thật rõ nguyên nhân gốc rễ của lạm phát là từ 
đâu ? 
 Qua bộ môn kinh tế vĩ mô, nhóm chúng tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích 
đề tài “Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam năm 2010-2011” nhằm phục vụ cho 
việc học tập, chia sẽ thông tin, đưa ra những quan điểm của nhóm đến với mọi người. 
Đây cũng là tài liệu tham khảo để giúp đưa ra những chính sách kiềm chế lạm phát, ỗn 
định kinh tế vĩ mô hợp lý nhất. 
Để hoàn thành tốt bài tiểu luận này, xin chân thành cảm ơn Ths.Trần Nguyễn 
Minh Ái đã hướng dẫn tận tình, chỉ ra những thiếu xót và góp ý cho bài tiểu luận . Đồng 
thời cũng xin cảm ơn Trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh đã tạo những điều 
kiện tốt nhất về cơ sở vật chất, trang thiết bị kĩ thuật phục vụ cho việc học tập và nghiên 
cứu của nhóm đạt hiệu quả tốt nhất. 
7 
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT 
2.1 Các khái niệm 
Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh 
tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của 
đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một 
loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta 
hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo 
nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường 
toàn cầu. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là 
sự "ổn định giá cả". 
Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền 
kinh tế giảm xuống liên tục. Cũng có thể nói giảm phát 
là lạm phát với tỷ lệ mang giá trị âm. Giảm phát 
thường xuất hiện khi kinh tế suy thoái hay đình đốn. 
Giảm lạm phát là sự sụt giảm của tỷ lệ lạm 
phát. Nghĩa là mức giá chung vẫn tăng lên nhưng 
với mức độ thấp hơn trước, tức là tốc độ tăng giá 
trở nên chậm lại. 
2.2 Phân loại 
Lạm phát vừa phải: Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 0.3 đến 
dưới 10% một năm. 
Lạm phát cao (Lạm phát phi mã): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng 
giá trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã. 
Siêu lạm phát: Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả 
tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Là loại lạm phát trên bốn số, tức tỷ lệ lạm phát 
lên đến hàng ngàn phần trăm. 
2.3 Đo lường 
2.3.1 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 
Là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng 
tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này chỉ dựa vào một 
giỏ hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng tiêu dùng. Công thức tính chỉ số giá tiêu dùng: 
8 
Thời kỳ gốc sẽ được thay đổi trong vòng 5 đến 7 năm tùy ở từng nước. 
CPI được dùng để tính chỉ số lạm phát theo thời kỳ. Chẳng hạn, tính chỉ số lạm 
phát CPI năm 2011 so với năm 2010 theo công thức sau: 
Người ta có thể xác định quyền số trong tính toán chỉ số giá tiêu dùng bằng cách 
điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu của từng nhóm hàng hoá, dịch vụ so với tổng giá 
trị chi tiêu. Sau đó quyền số này được dùng để tính chỉ số giá tiêu dùng cho các thời kỳ 
sau. CPI thường được tính hàng tháng và hàng năm. CPI còn được tính toán cho từng 
nhóm hàng hóa hoặc một số nhóm hàng hóa tùy theo mục đích sử dụng. 
2.3.2 Chỉ số giảm phát GDP 
Là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của 
năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực. 
Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính 
toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. 
 Người ta tính chỉ số giảm phát GDP theo công thức sau: 
Chỉ số giảm phát GDP là một phương pháp để tính tỷ lệ lạm phát (phương pháp 
kia là dùng CPI). Chẳng hạn, tỷ lệ lạm phát năm 2011 theo chỉ số giảm phát GDP được 
tính theo công thức: 
2.4 một số khái niệm khác 
 Nợ chính phủ, còn gọi là Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản 
tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay. 
Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách 
khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình 
dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu 
phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). 
9 
Phân loại như sau: 
Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài 
(các khoản vay từ người cho vay ngoài nước). 
Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và 
nợ dài hạn (trên 10 năm). 
Các hình thức vay nợ: phát hành trái phiếu chính phủ, hoặc vay trực tiếp. 
 Chi tiêu công cộng là tổng hợp các khoản chi của chính quyền trung ương, 
chính quyền địa phương, các doanh nghiệp nhà nước và của toàn dân khi cùng trang trải 
kinh phí cho các hoạt động do Chính phủ quản lý 
Theo nghĩa hẹp: Chi tiêu công là các khoản chi của Chính phủ thực hiện thông 
qua ngân sách Nhà nước 
Hạn chế: 
- Khái niệm này không phản ánh được các tác động toàn diện của Chính phủ đối 
với nền KTQD. 
- Có nhiều hoạt động do cả Chính phủ và khu vực tư nhân đóng góp nhưng được 
đặt dưới sự quản lý của Chính phủ. Tuy nhiên chi tiêu công cộng chỉ phản ánh được một 
phần cho chi phí hoặc dịch vụ đó → không thấy được hết lợi ích của hoạt động – dịch 
vụ đó mang lại cho xã hội 
- Chi tiêu theo nghĩa hẹp không phản ánh được các khoản chi tiêu ngoài Ngân sách 
Nhà nước và các khoản công nợ bất thường. 
Theo nghĩa rộng: Chi tiêu công là tất cả các khoản chi tiêu của Chính phủ, người 
dân, các thành phần kinh tế khác để thực hiện quy định của Chính phủ hoặc để cung cấp 
hàng hóa – dịch vụ do chính phủ quản lý. 
- Ưu điểm: Khắc phục được 3 hạn chế trên. 
- Nhược điểm: Khó khăn trong việc xác định. 
2.5 Nguyên nhân của lạm phát 
2.5.1 Lạm phát do cầu kéo 
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao 
động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD 
dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng 
tăng. Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, 
10 
người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó 
có lạm phát. 
2.5.2 Lạm phát do cầu thay đổi 
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng 
khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính 
chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng 
cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. 
Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát. 
2.5.3 Lạm phát do chi phí đẩy 
Hay lạm phát do cung xảy ra khi chi phí sản xuất gia tăng, hoặc khi năng lực 
sản xuất của quốc gia giảm sút. 
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, giá nguyên liệu, thuế,… thì chi phí sản xuất 
của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng 
giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng. 
2.5.4 Lạm phát do cơ cấu 
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. 
Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao 
động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu 
quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó. 
2.5.5 Lạm phát do xuất khẩu 
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy 
động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến 
tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng. 
2.5.6 Lạm phát do nhập khẩu 
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập 
khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định 
tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong 
nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên. 
2.5.7 Lạm phát tiền tệ 
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho 
đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung 
ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông 
tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát. 
11 
Lạm phát loại này nguyên nhân là do lượng tiền trong nền kinh tế quá nhiều, vượt 
quá mức hấp thụ của nó, nghĩa là vượt quá khả năng cung ứng giá trị của nền kinh tế . 
Có thể do ngân hàng trung ương lưu thông lượng tiền quá lớn trong nền kinh tế bằng các 
nghiệp vụ thị trường mở hay chính sách tiền tệ lới lỏng. Khi lượng tiền lưu thông quá 
lớn, ví dụ trong tay bạn có nhiều hơn 100 triệu..., thì sự tiêu dùng theo đó mà tăng rất 
lớn theo xã hội. Áp lực cung hạn chế dẫn tới tăng giá trên thị trường, và do đó sức ép 
lạm phát tăng lên. 
2.5.8 Lạm phát đẻ ra lạm phát 
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý đó là tâm lý dự trữ, giá tăng 
lên người dân tự phán đoán, tự suy nghĩ là đồng tiền không ổn định thì giá cả sẽ tăng 
cao tạo nên tâm lý dự trữ đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại tổng cầu trở nên cao hơn tổng 
cung hàng hóa sẽ càng trở nên khan hiếm kích thích giá lên vậy là gây ra lạm phát. 
Trên lý thuyết thì như vậy, còn trên thực tế thì thế nào ? Nguyên nhân lạm phát có 
đơn giản là do cầu kéo, chi phí đẩy … hay không ? Hay còn nhiều nguyên nhân khác 
hoặc là sự hỗn hợp của nhiều nguyên nhân với nhau ? Hãy cùng chúng tôi nhìn lại lạm 
phát 2010 và 9 tháng đầu năm 2011 để cùng phân tích về gốc rễ, về nguyên nhân lạm 
phát. Để có thể đưa ra chính sách, biện pháp tốt nhất điều khiển kinh tế vĩ mô của Việt 
Nam hiện nay. 
Lạm phát ở nước ta do nhiều nguyên nhân, bao gồm cầu kéo, chi phí đẩy và một 
số yếu tố đặc thù tác động làm gia tăng các yếu tố cầu kéo và chi phí đẩy. Nhưng 
nguyên nhân chủ yếu chính là cầu kéo (tổng mức đầu tư vượt quá tiết kiệm, tín dụng, 
tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh...). Nhập siêu cũng được cho là có tác động làm 
cho lạm phát cao. Một nguyên nhân khá quan trọng và nhạy cảm khiến lạm phát tăng 
cao, đó là do lạm phát tâm lý trong suốt một thời kỳ dài. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu 
những nguyên nhân để nhận định đúng về vấn đề này: 
12 
1.36 
1.96 
0.75 
0.14 
0.27 0.22 
0.06 
0.23 
1.31 
1.05 
1.86 
1.98 
0
0.5
1
1.5
2
2.5
Jan-10 Feb-10 Mar-10 Apr-10 May-10 Jun-10 Jul-10 Aug-10 Sep-10 Oct-10 Nov-10 Dec-10
CPI năm 2010 (%) 
3. LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM 2010-2011 
3.1 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam năm 2010-2011 
Năm 2010 
Tổng cục thống kê 
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong cả năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng 
tăng 11,75% so với tháng 12 năm 2009. Con số 11,75% tuy không quá bất ngờ nhưng 
vẫn vượt so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 5%. 
Tính chung trong cả năm 2010, giáo dục là nhóm tăng giá mạnh nhất trong rổ hàng 
hóa tính CPI (gần 20%). Tiếp đó là hàng ăn (16,18%) và nhà ở - vật liệu xây dựng 
(15,74%). Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong 
năm 2010. 
Năm 2011 
Tổng sản phẩm trong 
nước (GDP) chín tháng 
năm 2011 ước tính tăng 
5,76% so với cùng kỳ năm 
2010. CPI cả nước tháng 10 
tăng 21.59% so với cùng 
kỳ năm trước và tăng 
17.05% so với tháng 12 
năm 2010. 
Tính chung 10 tháng, CPI tăng 18.5% so với cùng kỳ năm trước. 
Vậy nguyên nhân lạm phát cao như vậy là từ những yếu tố nào ? 
1.74 
2.09 2.17 
3.32 
2.21 
1.09 1.17 
0.93 0.82 
0.36 
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
CPI 10 tháng đầu năm 2011 (%) 
13 
3.2 Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam năm 2010 – 2011 
3.2.1 Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế ở mức độ cao bằng mọi giá. 
08/11/2010 chính phủ đặt ra những chỉ tiêu phát triển không thực tế: 7%-7.5% 
mỗi năm trong 5 năm tới và 7%-8% trong 2011-2020. Trong khi đó, kinh tế Việt 
Nam trải qua nạn lạm phát 11.75% vào năm 2010 cao hơn tất cả những nước láng giềng. 
Nhà nước không thể nhắm vào mức phát triển kinh tế cao trong khi cần phải chế ngự 
nạn lạm phát. Để đạt được mục tiêu phát triển, chính phủ gia tăng chương trình đầu tư 
công qua các doanh nghiệp nhà nước và hậu quả là làm tăng mức cầu về tín dụng. Do đó 
có thể nói rằng lạm phát hiện nay phần lớn do sức cầu kéo. và mãi đến 18/10/2011, 
Chính phủ đề xuất giảm xuống còn 6-6.5% để ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô. 
3.2.2 Do tính quy luật về quan hệ cung cầu hàng hóa theo mùa trong năm. 
Năm 2010 
Nhìn vào diễn biến chỉ số CPI giữa các tháng trong năm 2010( hình ở trên) cho 
thấy, chỉ số CPI tăng cao chủ yếu vào đầu năm và cuối năm, tập trung là vào dịp trước 
và sau Tết Dương lịch cũng như Tết Nguyên đán. Đây là khoảng thời gian cầu tăng 
mạnh do tiêu dùng cuối năm, dịp Tết, nhưng cung hạn chế do thời tiết, do mùa vụ của 
sản xuất và một số yếu tố khác. Riêng tháng 12 – 2010 chỉ số CPI tăng cao nhất, tới gần 
2%. Đóng góp chủ yếu vào con số này là mức tăng giá ở khu vực và dịch vụ ăn uống, 
tăng 3,31% (riêng lương thực tăng tới 4,67%). Cũng trong tháng này, giá nhà ở và vật 
liệu xây dựng cũng tăng mạnh, tới 2,53%. 
Với năm 2011 
Nhìn trên các chỉ số cụ thể từng tháng, CPI năm 2011 có 3 điểm đáng lưu ý. 
Thứ nhất, đây là năm có mức độ tăng giá trong một tháng rất cao, tháng 4 “vọt” lên 
mức 3,32%. 
Thứ hai, ngoài mức tăng đột biến, khoảng cách giữa tháng tăng cao nhất và tháng giảm 
thấp nhất cũng rất lớn, lên đến 2.96% (so sánh mức tăng 3,32% với mức giảm 0.36%). 
Thứ ba, diễn biến chỉ số giá năm nay phá vỡ tính chu kỳ của các năm trước đó. Trong 
khi những năm trước, biểu đồ chỉ số giá diễn biến theo hình parabol ngược, tức là tăng 
cao ở những tháng đầu năm và cuối năm dương lịch, tăng thấp hoặc giảm vào những 
tháng đầu quý 2 và khá ổn định những tháng giữa năm, thì năm nay có sự đột biến mạnh 
trong quý I và giữa quý II, sau đó giảm tốc mạnh mẽ những tháng cuối năm. Nếu để ý 
kỹ ta thấy rất giống diễn biến CPI năm 2008. 
14 
2.38 
3.56 
2.99 
2.2 
3.91 
2.14 
1.13 
1.56 
0.18 
-0.19 
-0.76 -0.68 
-1
0
1
2
3
4
5
tháng 1 tháng 2 tháng 3 tháng 4 tháng 5 tháng 6 tháng 7 tháng 8 tháng 9 tháng 10 tháng 11 tháng 12
CPI NĂM 2008 
Tổng cục thống kê 
3.2.3 Do chính sách xã hội hoá học tập và giá một số mặt hàng do nhà nước 
quản lý định hướng giá sang cơ chế thị trường. 
 Chính phủ cho phép điều chỉnh mức thu học phí từ tháng 9 và tháng 10-2010. 
Bước vào năm học mới, nhu cầu mua sắm đồ dùng học tập cùng với việc thực hiện lộ 
trình xã hội hóa về học phí, phần lớn UBND các tỉnh đã điều chỉnh tăng học phí lên mức 
khá cao, dẫn đến chỉ số giá của nhóm giáo dục tăng mang tính đột biến. Năm 2010, đồ 
dùng học tập, học phí... là nhóm hàng tăng giá cao nhất với mức tăng 19,38%... 
 Việc thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số hàng hóa, dịch vụ như: 
 Điều chỉnh tăng giá điện từ ngày 1-3-2010; 
 Tăng giá nước sinh hoạt; 
 Xăng dầu: thực hiện ba lần điều chỉnh tăng giá trong năm 2010. Tăng đột biến từ 
16.400đ lên 19.300đ và lên 21.300đ trong năm 2011. 
 Tăng giá bán than. 
 Tăng mức lương cơ bản. 
Cụ thể: 
Theo Nghị Quyết số 11/NQ-CP ban hành ngày 24/2/2011, nhà nước cho phép gia 
tăng giá xăng dầu trong nước cho phù hợp với giá xăng dầu thế giới và giá điện trong 
nước theo cơ chế thị trường. Tăng giá điện và xăng ảnh hưởng đến tất cả mọi lãnh vực 
kinh tế và trực tiếp làm nạn lạm phát trầm trọng thêm. Đây là một hiện tượng chi phí 
đẩy. 
15 
SO SÁNH GIÁ ĐIỆN 2009 – 2010 (Theo báo Tuổi trẻ online(27/02/2010)) 
Điện ở Việt Nam 
cũng được chính phủ bao 
cấp lâu nay. Giá thành 
cao hơn giá bán. Giá điện 
trung bình tại Việt Nam 
hiện nay là 5.2 cent / 
kWh (tính theo USD), chỉ 
bằng một nửa so với giá 
điện của các nước trong 
khu vực. Chi phí sản xuất 
ra 1kWh điện trung bình từ 7 đến 12 cent. Việc hủy bỏ bao cấp là cần thiết và nhà nước 
đã cho phép tăng giá điện 15.3% bắt đầu có hiệu lực vào tháng 3. Và mặc dù đã được 
điều chỉnh tăng giá điện vào đầu năm 2011, nhưng do thiếu nợ chồng chất hàng ngàn tỉ 
đồng nên Tập đoàn Điện lực VN (EVN) vẫn tiếp tục đề xuất tăng giá lần hai, với mức 
dự kiến giá điện sẽ tăng thêm 11% vào tháng 11. Đây cũng là một quyết định không hợp 
thời vì Việt Nam đang phải đối phó với nạn lạm phát cao. 
BẢNG GIÁ NƯỚC 2010 – 2011 – 2012 – 2013 
Theo báo Tuổi trẻ online(27/02/2010) 
16 
450 
590 
-500 -500 
410 
2900 
2000 
-500 
-1000
-500
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
BIẾN ĐỘNG GIÁ XĂNG 2010-2011 
Việc tăng giá xăng 
là một việc không tránh 
được vì giá xăng dầu 
trên thế giới tăng và Việt 
Nam là một nước nhập 
cảng xăng dầu nhiều hơn 
gấp bội lượng xăng dầu 
xuất khẩu. Việc điều 
chỉnh giá xăng dầu được 
quy định theo Nghị Định 
84/2009 của nhà nước về 
kinh doanh xăng dầu. 
Theo nghị định này giá cơ sở được tính theo công thức sau đây: 
 Giá CIF (bao gồm giá xăng dầu thế giới, phí bảo hiểm và chi phí vận chuyển đến 
Việt Nam) + Thuế, phí + Chi phí kinh doanh định mức (600 đồng/lít) + Lợi nhuận định 
mức (300 đồng/lít) + Mức trích quỹ bình ổn giá (300 đồng/lít). Tuy nhiên, công thức 
này không áp dụng mạnh mẽ trong thời gian qua cho đến gần đây. Vì ngân sách quốc 
gia thiếu hụt nghiêm trọng cộng thêm kinh tế bất ổn nói chung mà nhà nước đã có quyết 
định không hợp thời là tăng giá xăng liên tục. Lần tăng 30% mới nhất đã đưa giá xăng 
lên đến 21,300 VN/lít trong tháng 3. Cũng vào dịp này giá dầu diesel tăng 24%. 
Theo vnexpress.net 
0
200,000
400,000
600,000
800,000
1,000,000
1,200,000
1,400,000
1/5/2009 1/1/2010 1/5/2010 1/1/2011 . 5/2011
650,000 
730,000 
800,000 
830,000 
1,400,000 
Lương tối thiểu 
17 
3.2.4 Do thiên tai 
Lúa ở miền Bắc bị sâu bệnh đặc biệt là bệnh rầy. 
Tiếp đến là vụ Đông ở miền Bắc bị khô hạn nặng, rét 
đậm kéo dài. Miền Trung 
và Tây Nguyên bị bão lụt 
gây thiệt hại nặng nề nhất 
từ hàng chục năm qua, 
mùa màng vừa bị thiệt hại, 
thức ăn và vật tư nông 
nghiệp, máy móc thiết bị 
nông nghiệp bị mất hay 
hư hỏng. Dịch cúm gia 
cầm, bệnh dịch lở mồm 
long móng… 
Giá điện, phân bón, thức ăn chăn nuôi, xăng dầu, lãi suất vốn vay và chi phí vốn 
vay tăng, chi phí đầu vào tăng. Trong năm 2010, giá bán lẻ thức ăn chăn nuôi đã tăng tới 
14 lần, riêng từ 15/9/2010 đến cuối tháng 12/2010 tăng tới 9 lần. Giá thức ăn chăn nuôi 
tháng 1/2010 còn ở mức 187.500 đồng/bao loại 25 kg, đến tháng 12/2010 đã tăng lên 
264.000 đồng/kg. Giá đầu vào của thức ăn chăn nuôi tăng dẫn đến giá thành sản phẩm 
từ chăn nuôi tăng theo, thêm vào đó chăn nuôi bị dịch bệnh, bị thua lỗ, quy mô chăn 
nuôi bị thu hẹp, nguồn cung ra thị trường bị hạn chế..., càng làm cho giá tăng lên. Cũng 
do chi phí đầu vào tăng cao và hạn hán nặng, rét đậm kéo dài ở phía Bắc, nên nhiều 
vùng trồng rau màu ven các đô thị lớn thu hẹp diện tích gieo trồng, nguồn cung giảm. 
3.2.5 Do tác động của giá cả trên thị trường thế giới. 
Sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhiều quốc gia đã lâm 
vào cảnh nợ công tăng cao và thất nghiệp gia tăng, nhiều năm liền đã sử dụng chính 
sách tiền tệ nới lỏng để kích hoạt cho nền kinh tế. Đặc biệt với nền kinh tế lớn nhất thế 
giới, khi Chính phủ Mỹ liên tục đổ tiền ra, cùng với chính sách hạ thấp lãi suất cơ bản 
xuống còn 0,25%/năm thì giá trị đồng đô la cũng liên tục “rơi” mạnh xuống so với các 
đồng tiền mạnh khác - một biểu hiện cụ thể của cuộc chiến tiền tệ, gây hiệu ứng đến 
toàn cầu và tạo áp lực tăng giá vàng, bạc, hàng hoá tiêu dùng khác tính bằng đồng đô la 
Mỹ. Áp lực lạm phát do đó lại gia tăng, nhất là với đồng đô la Mỹ, cứ 3 đồng đưa vào 
18 
lưu thông thì có tới gần 2 đồng lưu thông ở ngoài lãnh thổ Mỹ. Nếu tiếp tục tăng nhập 
khẩu từ những nền kinh tế có đồng tiền giảm giá thì nhiều quốc gia, trong đó có Việt 
Nam lại phải “nhập khẩu lạm phát” và/hoặc gây ách tắc cho xuất khẩu đất nước. 
Thiên tai xảy ra nặng nề tại nhiều nước, nhất là trong khu vực như Trung Quốc, 
Pakistan, Thái Lan, Ấn Độ..., cộng với tình hình thời tiết khắc nghiệt tại nhiều quốc gia 
khác làm cho sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại nghiêm trọng, dẫn đến lượng cung cầu 
nhiều mặt hàng nông sản thực phẩm mất cân đối, cung giảm, cầu tăng. Giá thế giới tăng, 
giá xuất khẩu các mặt hàng tương ứng của Việt Nam tăng và giá thu mua trong thị 
trường nội địa cũng tăng. 
Bình quân 8 tháng năm 2011, giá cả hàng hóa chung thế giới đã tăng 32,88% so 
với cùng kỳ năm 2010, cao hơn mức tăng của năm 2010 và 2009, trong khi cán cân 
thương mại thâm hụt ở mức lớn và lạm phát các quốc gia có thương mại lớn với Việt 
Nam đang gia tăng như lạm phát tháng 8-2011 của Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, EU là 
6,2%, 5,3%, 3,8% và 2,9% cao hơn nhiều so với mức 3,5%, 2,6%, 1,1% và 2,0% của 
tháng 8-2010. 
 Giá nông sản, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc trừ 
sâu, hóa chất khác phục vụ nông nghiệp và thuốc thú y... trên thị trường thế giới tăng 
khá cao. Riêng giá cà phê tăng lên cao nhất trong 16 năm gần đây. Giá bông tăng tới 60-
70% so với cuối năm 2009. Giá cao su, hồ tiêu, điều, gạo, đường thô, tinh bột sắn, hạt 
điều, chè, mặt hàng thủy sản chế biến... cũng tăng mạnh. Riêng giá mủ cao su Trung 
Quốc mua của Việt Nam tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2009. 
Chính vì vậy hoạt động mua gom ngay từ đầu mối các 
mặt hàng: mủ cao su tự nhiên, lợn hơi, thủy, hải sản, đường... 
của thương nhân Trung Quốc với giá cao và khối lượng lớn tại 
nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá của Việt Nam, càng tác 
động đến cung cầu, đến tâm lý và tác động đến giá cả các mặt 
hàng đó. Cùng với diễn biến chung của giá cả thị trường thế 
giới thì tình trạng đầu cơ mặt hàng nông sản thực phẩm tại 
Trung Quốc cũng đã tác động đáng kể đến giá cả thị trường 
nước ta. 
Giá dầu thô trên thị trường thế giới năm 2010-2011 biến động dữ dội làm cho giá 
xăng dầu trong nước tăng lên đột biến. Các mặt hàng khác có liên quan đến dầu mỏ như: 
khí đốt, gas, hóa chất, hạt nhựa, nhựa đường, than đá, chất dẻo, phân bón... cũng tăng 
khá cao. Một số mặt hàng nguyên liệu khác trên thị trường thế giới cũng tăng, như: sắt 
19 
thép, đồng, nhôm, kẽm,... nhóm mặt hàng kim loại nói chung trong năm 2010-2011 tăng 
khá cao. Các mặt hàng khác như: sữa bột, thuốc chữa bệnh, vật tư và dụng cụ y tế... trên 
thị trường thế giới cũng biến động đáng kể về giá. 
3.2.6 Việc phá giá đồng bạc Việt Nam (VNĐ) và xuất nhập khẩu. 
Trong năm 2010 tỷ giá trên thị trường tự do tăng trên 10% và tỷ giá giao dịch của 
các tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng tăng 5,9%. Tỷ giá chính thức từ cuối 
năm 2009 đến hết năm 2010 được ngân hàng nhà nước (NHNN) điều chỉnh tăng hai lần. 
Riêng đợt điều chỉnh ngày 18/8/2010, tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa Đồng Việt 
Nam và Đô la Mỹ tăng 2,1%, từ 18.544 VND/USD, lên mức 18.932 VND/USD. Mục 
tiêu của việc điều chỉnh nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. 
Trong 15 tháng vừa qua, Việt Nam đã phá giá VNĐ tất cả 4 lần và trong khoảng 
thời gian này trị giá của VNĐ đã giảm tổng cộng khoảng 20% so với đồng US dollar 
(USD). Trong lần thứ tư xẩy ra vào ngày 11/2/2011, VNĐ sụt giá 9.3% so với USD. 
Hối suất chính thức của VNĐ tăng từ 18,932 lến đến 20,693 cho một USD. NHNN 
quyết định phá giá VNĐ là để giảm bớt sự chênh lệch giữa hối suất chính thức và hối 
suất chợ đen, đôi khi sự cách biệt lên đến 9% và làm giảm sự khan hiếm ngoại tệ. Sự 
phá giá VNĐ cũng giúp tăng xuất khẩu và giảm chênh lệch cán cân thương mai vì làm 
giảm chi phí sản xuất trong nước. Tuy nhiên, đồng Việt Nam mất giá cũng làm tăng lạm 
phát vì giá sản phẩm và nguyên liệu nhập khẩu sẽ gia tăng tính theo VNĐ. 
20 
Đầu tư nhiều, trong khi nền kinh tế lại khá mở nên Việt Nam buộc phải nhập 
khẩu nhiều để phục vụ đầu tư. Đó cũng chính là lý do khiến nhập siêu cũng được cho là 
có tác động làm cho lạm phát cao(9 tháng năm 2011, thâm hụt thương mại 7,59 tỷ USD) 
Việc tỷ giá tăng tạo sức ép lên giá bán lẻ xăng dầu thị trường trong nước. Đặc 
biệt là giá bán lẻ các mặt hàng khác nhập khẩu từ nước ngoài hay có phụ tùng, nguyên 
vật liệu nhập khẩu, như: linh kiện máy tính, đồ điện tử, điện lạnh, hoá chất, phân bón, 
thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, dược phẩm, thuốc chữa bệnh và vật tư y tế, nguyên liệu 
hàng dệt may và giày da, vật liệu xây dựng cao cấp, ô tô và phụ tùng ô tô, xe gắn máy 
và phụ tùng xe gắn máy, thiết bị máy móc và phương tiện khác, thiết bị văn phòng, đồ 
dùng gia đình cao cấp…cũng tăng theo biến động tỷ giá. Trong đó rõ nét nhất là giá bán 
ô tô, xe gắn máy thị trường trong nước. Các mặt hàng nông sản thực phẩm khác Việt 
Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn cũng có biến động lớn. 
Cùng với sự giảm giá trị đối ngoại của đồng nội tệ (phá giá nội tệ và/hoặc để tỷ giá 
tăng) thì nguy cơ lạm phát kép là hiện hữu: lạm phát từ bên trong và lạm phát nhập vào 
từ bên ngoài giống như cuối năm 2007 và năm 2008. Cần nhớ lại nền kinh tế của nước 
ta suốt hơn 20 năm qua (trừ duy nhất năm 1992 có xuất siêu tuy chỉ được vài chục triệu 
USD), liên tục là nền kinh tế nhập siêu, trong khi tỷ giá hầu như không đi xuống mà chỉ 
có xu hướng trườn ngang và đi lên theo chiều giảm giá trị của đồng nội tệ để theo đuổi 
chiến lược hướng về xuất khẩu, nhưng lại hóa ra chủ yếu làm đắt hóa hàng nhập vào 
trong nước vì hơn 70% giá trị hàng xuất khẩu của nước ta là hàng gia công, lắp ráp có 
“ruột” và công nghệ nhập vào từ nước ngoài. Do đó, nhập siêu ở nước ta đồng nghĩa với 
nhập khẩu lạm phát và làm tăng nợ nước ngoài qui đổi. Những ngày qua do tăng cường 
kiểm soát tình trạng quản lý ngoại hối bị buông lỏng trong thời gian dài, đã có tác dụng 
kéo tỷ giá thị trường tự phát về sát thị trường chính thức, nhưng tính bền vững chưa 
được nhìn thấy rõ từ cơ cấu ngoại thương và cơ chế thị trường. Nếu có bất ổn xẩy ra như 
triển vọng tăng trưởng xấu đi, thất nghiệp gia tăng và dòng vốn ngoại chảy ngược ra, 
đồng nội tệ sẽ lại mất giá mạnh, khi đó sẽ tác động tăng lạm phát cao hơn vì phải bỏ ra 
nhiều nội tệ hơn để có một đồng ngoại tệ. 
3.2.7 Do tác động của quá trình đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng. 
Trong xu hướng đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng, diện tích đất đai tiếp tục bị 
thu hẹp. Các dự án nhà ở, khách sạn, du lịch sinh thái, sân golf, khu công nghiệp, đường 
giao thông... Việc thu hồi đất nông nghiệp, đặc biệt là đất canh tác màu mỡ của người 
dân ở ven các khu đô thị, làm cho diện tích đất trồng trọt giảm, mặt khác, người dân có 
21 
tiền từ giải phóng mặt bằng, đền bù tài sản và hoa màu trên đất nên tăng tiêu dùng. Mặt 
khác, tình trạng đó làm hạn chế quy mô sản xuất nông nghiệp, giảm nguồn cung ứng 
nông sản ra thị trường. Xu hướng nói trên diễn ra trong nhiều năm qua, nhưng càng 
được đẩy mạnh và mở rộng trong năm 2010, nên tác động đáng kể đến giá cả. 
Cũng do quá trình đô thị hóa, giá thuê nhà trong năm 2010 bình quân tăng trên 
20%, nhất là giá nhà cho người có thu nhập thấp và trung bình thuê, như sinh viên, 
người lao động... Giá nhà đất ở khu vực Hà Nội và một số tỉnh phía Bắc tăng từ 30% - 
60% tùy theo khu vực, dự án và vị trí. 
Nhu cầu xây dựng tăng, tác động đến giá cả mặt hàng vật liệu xây dựng, đặc biệt 
là các mặt hàng có tỷ lệ tăng khá cao là hàng nhập ngoại hay nguyên liệu nhập ngoại, 
như thép và phôi thép, sơn nhà, nhôm, kính cao cấp và các loại vật liệu khác.... 
3.2.8 Do tác động của lãi suất. 
Tình trạng vòng “luẩn quẩn”: Tổ chức tín dụng thiếu tiền vốn so với cầu tín dụng 
phải huy động với mức cao hơn mức trần Nhà nước quy định dẫn đến lãi suất cho vay 
cũng tăng, trong khi thị trường thì thừa tiền để tiêu dùng hàng hoá hợp thị hiếu, làm cho 
tiền trong lưu thông đổ vào lĩnh vực phi sản xuất, không qua ngân hàng, đọng lại ở thị 
trường bất động sản rộng lớn nhưng lại bị “đóng băng” do giá cao chơi vơi, chỉ những 
“đại gia” mới s n tiền để sở hữu những vị trí đẹp bằng mọi giá. 
Thiếu thanh khoản cục bộ đã “thổi” lãi suất thị trường liên ngân hàng lên mức 
khá cao. Lãi suất qua đêm thị trường liên ngân hàng tạo thành xu hướng đi lên, từ quanh 
mức 10,25% cuối tháng 8, đến đầu tháng 9 lên mức khoảng 14% và hiện tại có thời 
điểm đến 18-20%. 
Mức tín dụng tăng 27% trong năm 2010, vượt quá mục tiêu 25%. Mức tín dụng 
chỉ tiêu cho năm 2011 là 23%. Ngoài ra, phần lớn những tín dụng này lại được ưu tiên 
dành cho những DNNN, thường hoạt động kém hiệu quả, với những điều kiện thuận lợi. 
Mặc dù trong 9 tháng đầu năm, tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín 
dụng ở mức thấp, lần lượt là 8.87% và 8.16% (ngày 23/9/2011), nhưng ảnh hưởng của 
tăng trưởng cung tiền và tín dụng tới lạm phát là có độ trễ. Như vậy là rất cao so với mặt 
bằng chung trong khu vực, so với tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, lợi nhuận bình quân 
của doanh nghiệp và chỉ số CPI đến thời điểm đó. Lãi suất cao tác đông đến chi phí đầu 
vào của vốn tổng giá thành sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. hiện nay (10/2011) các 
khoản tiết kiệm mới áp lãi suất khoảng 14% đang ở trạng thái thực dương; những khoản 
22 
đến hạn với kỳ hạn cho vay 3 đến 6 tháng cũng đang có lợi; tuy nhiên, nếu gửi 1 năm và 
đến hạn ở thời điểm này thì người gửi chắc chắn “lỗ” về sức mua đồng tiền. 
Mức lãi suất cho vay gây khó khăn rất lớn đến hoạt sản xuất kinh doanh của 
doanh nghiệp, của người dân, tạo sức ép đẩy giá thành vật tư, hàng hóa và dịch vụ, tác 
động lên giá bán và tạo sức ép lên mặt bằng giá. Nhiều dự án triển khai dở dang nếu tiếp 
tục vay vốn thì thua lỗ vì lãi suất cao, nếu không vay vốn thì máy móc thiết bị bỏ không 
vẫn phải khấu hao, xuống cấp vì tác động của thiên nhiên, chi phí bảo vệ, trả lãi vốn vay 
đầu tư, chậm trả nợ gốc, người lao động thiếu việc làm, ảnh hưởng ngay đến chất lượng 
tín dụng vì nợ quá hạn có nguy cơ. 
Suốt từ năm 2000 đến 2011, tăng trưởng cung tiền và tín dụng của Việt Nam ở 
mức cao, cao hơn so với nhiều nước trong khu vực. Và nghiên cứu của các nhà khoa 
học cho thấy, nếu lãi suất tăng 1% thì lạm phát chỉ tăng 0,03. Do đó, đây cũng là nguyên 
nhân dẫn đến lạm phát tăng cao. 
3.2.9 Do biến động của giá vàng và diễn biến tâm lý của người dân. 
 Yếu tố tâm lý tác động nhiều đến động thái tiêu dùng và phân phối hàng hóa 
trong nền kinh tế. Nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy, nếu lạm phát tâm lý tăng 
1% thì nó sẽ gây lạm phát thực là 0,64%. Việc Chính phủ liên tục thay đổi mục tiêu lạm 
phát, đặc biệt trong 9 tháng đầu năm 2011, Chính phủ đã nới lỏng mục tiêu lạm phát từ 
7% đến dưới 10% đến 15% đến 17% và 18% và các tổ chức quốc tế cũng điều chỉnh 
tăng dự báo lạm phát Việt Nam khiến cho niềm tin của dân chúng về lạm phát ổn định 
bị ảnh hưởng và làm gia tăng mức lạm phát kì vọng, góp phần tăng lạm phát thực tế. 
Trong đó, lạm phát tâm lý trong nền kinh tế đang ảnh hưởng đến nhiều mặt đời 
sống xã hội, đặc biệt là giá các loại hàng hóa trên thị trường. Thứ nhất: Các chính sách 
quản lý nhà nước nhằm mục tiêu điều hành tốt hơn nền kinh tế nhưng đôi khi chính yếu 
tố tâm lý của người dân lại làm nảy sinh lạm phát tâm lý. Ví dụ như việc tăng lương. Về 
cơ bản, lương tăng không ảnh hưởng tới giá, tuy nhiên do tâm lý tăng giá chung trong 
kinh doanh cứ thấy có nhiều tiền là tăng giá nên thậm chí lương chưa tăng giá cả đã 
tăng, qua đó lạm phát tăng. Thứ hai: Tâm lý người dân rất nhạy cảm với lạm phát và 
thường có phản ứng đôi khi quá mức càng đẩy lạm phát lên cao. Trong khi đó, các phản 
ứng của Chính phủ chống lại lạm phát thường chậm, chính sách điều hành không nhất 
quán, khiến người dân càng mất niềm tin vào hiệu quả chính sách. Điều này thể hiện 
qua những cơn sốt của thị trường vàng, đô la, hay bất động sản khi người dân đổ xô đầu 
tư và găm giữ các loại tài sản khác thay thế tiền đồng. Thứ ba: Tâm lý không cất trữ 
23 
đồng Việt Nam trong nhà. Hiện nay, dù lãi suất ngân hàng có lên tới 20%/năm thì việc 
cất trữ tiền đồng vẫn làm cho người dân thấy bị thiệt thòi và không an toàn. Do đó có 
tình trạng tìm kiếm các kênh cất trữ khác trong cộng đồng như vàng, đô la… Thứ tư: 
Do tâm lý phụ thuộc vào ngoại tệ. Hiện nay, rất nhiều yếu tố tạo ra của cải vật chất cho 
tiêu dùng trong nước và bản thân các sản phẩm tiêu dùng trực tiếp phụ thuộc vào nhập 
khẩu. Do đó giá cả phụ thuộc rất nhiều vào tỷ giá ngoại tệ. Khi giá nhập khẩu và tỷ giá 
thay đổi sẽ kéo theo phản ứng dây chuyền khiến cho giá tiêu dùng trong nước thay đổi 
và thường là theo chiều hướng tăng cao. 
Nhiều người trong lĩnh vực kinh doanh đã “phòng thủ” s n bằng cách tăng giá để 
phòng xa việc chỉ số lạm phát bất ổn. Để xảy ra tin đồn không tốt cho nền kinh tế cũng 
là do nhiều thông tin điều hành từ phía cơ quan quản lý còn chưa rõ ràng và minh bạch 
nên nhiều người tin vào tin đồn, từ đó có cách ứng xử riêng tùy thuộc vào vị thế là 
người mua hay bán; người sử dụng lao động hay lao động; người tiêu dùng hay sản 
xuất… Ví dụ: Đối với những mặt hàng thuộc diện quản lý của Nhà nước, nếu Nhà nước 
đã cam kết và sẽ ổn định giá từ nay đến cuối năm thì phải thực hiện đúng. Bởi nếu vẫn 
tăng giá vào thời điểm cam kết thì lúc đó người dân sẽ mất niềm tin. Cụ thể như mặt 
hàng xăng dầu, người dân đang đặc biệt quan tâm là sự minh bạch trong lỗ, lãi kinh 
doanh chứ không chỉ đơn thuần là lúc nào tăng hay giảm giá. 
 Giá vàng tăng 
và lên cơn sốt vào 
nhiều thời điểm, cộng 
với diễn biến thất 
thường của tỷ giá 
VND/USD trên thị 
trường tự do, tác 
động lớn đến tâm lý 
của người dân về lạm 
phát, về sự mất giá 
của đồng tiền Việt 
Nam, góp phần tác 
động đến mặt bằng giá chung trên thị trường. 
24 
3.2.10 Nợ công và chi tiêu công quá mức. 
Năm 2011, dự kiến nợ công của Việt Nam ước khoảng 54,6% GDP và theo đánh 
giá của Chính phủ đang ở ngưỡng an toàn. Tuy nhiên, Nếu nói nợ công so với GDP bao 
nhiêu và nói rằng an toàn hay không là phiến diện. Giống như nói uống rượu mạnh 2 
cốc thì an toàn, 3 cốc mới say nhưng với một số người có thể 1 cốc cũng đã say và tại 
sao Nhật Bản nợ công 200% GDP vẫn không sao nhưng Hy Lạp chưa đến 100% GDP 
đã “chết”. Chỉ tiêu rất quan trọng cần lưu ý là xem nợ phải trả hàng năm so với nguồn 
thu. Ví dụ, năm 2011 trả nợ của Việt Nam chiếm 12,5% nguồn thu, năm 2012 là 13,5%. 
Nếu cứ như vậy đến lúc nào đó “chúng ta thu chỉ để trả nợ”. 
Có thể nói nợ công ở Việt Nam đã đến mức báo động. Nợ công của Việt Nam 
khoảng 54,6% GDP, nợ nước ngoài 41,5% GDP - tương đương khoảng 50 tỷ USD. Con 
số này ở mức nguy hiểm nếu so với dự trữ ngoại hối của Việt Nam - chỉ khoảng 14 - 15 
tỷ USD. 
Về chi tiêu công: Không thể phủ nhận sự cần thiết của đầu tư công. Nhưng nhà nước 
chỉ nên tham gia vào những lĩnh vực đem lại lợi ích lớn cho cả nền kinh tế nhưng tư 
nhân không có động cơ để làm hoặc làm không có hiệu quả. Trên thực tế nhà nước đã 
tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế và nhiều khi còn cạnh tranh và chèn lấn 
khu vực tư nhân. Với mức chi tiêu của khu vực công (bao gồm chi tiêu thường xuyên và 
chi đầu tư) trong những năm vừa qua luôn ở mức 35-40% GDP và đầu tư của nhà nước 
bằng khoảng 20% GDP (một nửa tổng đầu tư toàn xã hội) là một mức quá cao. Mức chi 
tiêu này ắt hẳn là một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng và những hợp đồng có nhiều 
ưu ái cho một số đối tượng. .sự thiên lệch trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh 
25 
nghiệp (khu vực thị trường). Nhìn vào nền kinh tế sẽ thấy rằng các doanh nghiệp nhà 
nước và một số doanh nghiệp tư nhân lớn có nhiều quan hệ đang là đối tượng dành được 
sự ưu ái trong việc phân bổ vốn. Câu chuyện của Vinashin đã chi tiêu hoang phí khoảng 
4 tỷ đô la trong thời gian qua và hiện vẫn được khoanh nợ và tiếp tục vay vốn là một ví 
dụ rất điển hình của sự ưu ái dành cho các doanh nghiệp nhà nước. 
Theo ước tính của Đảng ủy khối doanh nghiệp Trung ương, trong năm nay tập 
đoàn Điện lực có khả năng lỗ 11.669 tỉ đồng; Tổng công ty Xăng dầu lỗ 1.200 tỉ đồng; 
Vinashin lỗ 3.092 tỉ đồng; Tổng công ty Hàng hải lỗ 613 tỉ đồng. 
Đây là hệ quả tất yếu của một nền kinh tế xây dựng trên một khu vực nhà nước lớn 
với các DNNN làm ăn thường là thua lỗ. Vào cuối năm 2010, công ty quốc doanh xây 
cất tầu thủy Vinashin rơi vào tình trạng gần phá sản là một thí dụ mới nhất. Vinashin 
được thành lập vào năm 2005 với số vốn 750 triệu USD từ công trái phiếu của nhà 
nước. Vào tháng 7 năm 2010, Việt Nam công bố rằng Vinashin mắc món nợ chồng chất 
lên 4.4 tỉ USD, không có khả năng trả nợ và bị đe dọa phá sản. Vào cuối năm 2010, 
Vinashin điều đình với các chủ nợ để xin hoãn trả 60 triệu USD trên số nợ 600 triệu 
USD. Cho đến đầu tháng 3 vừa qua, Vinashin vẫn chưa trả được nợ. Khả năng khai phá 
sản có thể sẽ xẩy ra. 
Trong khi vụ Vinashin chưa giải quyết xong và ngay sau khi nhà nước tuyên bố 
cho tăng giá xăng dầu và điện, gần đây lại xảy ra vụ Công Ty Cho Thuê Tài Chánh ALC 
II thua lỗ 3,000 tỉ đồng. Công ty nhà nước này thua lỗ đã nhiều năm, những đến 2007 
mới bị phát hiện. Đến cuối 2009 ông Vũ Quốc Bảo, Tổng Giám Đốc ALC II mới bị mãn 
nhiệm, và cho mãi đến giữa tháng 4 vừa qua, dân mới được biết vì cơ quan cảnh sát điều 
tra quyết định bắt tạm giam ông Bảo. Bất chấp những cảnh báo và thực tế chứng minh, 
nhiều vấn đề rất cũ của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước lớn trong những năm gần 
đây đã không được cải thiện đáng kể. Đã vậy, thay vì tập trung vào việc nâng cao năng 
lực, khối doanh nghiệp này tại cuộc họp hôm 8-9 còn đề nghị Chính phủ chỉ đạo cắt 
giảm nguồn tín dụng đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân qua các kênh ngân hàng và 
tín dụng có bảo lãnh của Chính phủ để tạo điều kiện hơn cho doanh nghiệp nhà nước. 
Đây là một đòi hỏi không thể chấp nhận được. 
3.2.11 Do vấn đề tiền tệ. 
Đối với năm 2010, Có thể nói kênh tiền tệ qua hệ thống ngân hàng không phải 
là nguyên nhân chủ yếu gây nên lạm phát cao trong năm 2010. Thứ nhất, qua phân tích 
các nguyên nhân ở phần đầu tiểu luận cùng với sự tác động lên các nhóm hàng hóa và 
26 
dịch vụ. Thứ hai là mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng dư nợ cho vay của hệ 
thống ngân hàng đến hết năm 2010 so với nhiều năm gần đây không phải là cao, vẫn 
nằm trong tầm kiểm soát theo mục tiêu đề ra từ đầu năm. 
Theo số liệu của NHNN, tổng dư nợ cho vay của các TCTD trong toàn quốc tính 
đến hết tháng 12/2010 ước tăng 29,81% so với năm trước, trong đó dư nợ nội tệ tăng 
25,3%, dư nợ ngoại tệ tăng 49,3%. Tổng phương tiện thanh toán cả năm ước tăng 
25,3%; tổng nguồn vốn huy động tăng 27,2%. Tuy nhiên, nếu loại bỏ hư số do giá vàng 
và tỷ giá tăng thì trong năm 2010 tổng dư nợ tăng 27,6%, tổng phương tiện thanh toán 
tăng 23%, huy động vốn tăng 24,5%. Như vậy, riêng dư nợ cho vay năm 2010 vẫn thấp 
hơn tốc độ tăng của 2 năm gần đây. Hoặc nếu tính theo độ trễ của tác động chính sách, 
tức là chỉ số CPI tăng khá cao trong quý IV-2010, nhìn ngược lại trong 6 tháng đầu năm, 
dư nợ cho vay mới chỉ tăng khoảng 11%, chưa phải là cao. Đồng thời cũng xét theo nhu 
cầu của nền kinh tế, theo tốc độ tăng trưởng GDP thì tốc độ tăng trưởng tổng phương 
tiện thanh toán và dư nợ cho vay là phù hợp. 
Năm 2011 chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam cũng đã tăng khá cao đe 
dọa mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm dưới mức hai con số. Diễn biến nêu 
trên đã ảnh hưởng tiêu cực tới niềm tin của người dân, thị trường và các nhà đầu 
tư. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém về kinh tế vĩ mô, tháng 2/2011 Chính phủ 
Việt Nam đã có Nghị quyết 11 tập trung “ưu tiêm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ 
mô, đảm bảo an sinh xã hội” với 6 gói các biện pháp chính sách, bao gồm: “Thắt chặt 
chính sách tiền tệ; thắt chặt chính sách tài chính; kìm hãm thâm hụt thương mại; tăng 
giá điện đồng thời với việc hỗ trợ người nghèo và sử dụng một cơ chế mang tính thị 
trường hơn đối với việc định giá xăng dầu; tăng cường an sinh xã hội; nâng cao hiệu 
quả việc phổ biến thông tin chính sách”. 
Triển khai Nghị quyết 11, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) đã điều chỉnh 
mục tiêu trần tăng trưởng tín dụng từ 23% xuống còn 20% trong năm, và tăng trưởng 
nguồn cung tiền (M2) trong năm 2011 từ 21-24% xuống còn 15-16%. Cả hai mục tiêu 
này đều được điều chỉnh thấp hơn khá nhiều so với năm 2010 (năm 2010 tín dụng tăng 
ở mức 32,4% và M2 tăng 33,3%). 
Để hiện thực hóa các mục tiêu trên, SBV đã yêu cầu các ngân hàng và các tổ 
chức tín dụng khác phải kìm hãm tăng trưởng tín dụng ở mức dưới 20% trong năm; các 
tổ chức tín dụng hạn chế cấp tín dụng cho những hoạt động không mang tính sản xuất 
như bất động sản và chứng khoán xuống dưới 22% trong tổng số tiền cho vay tính đến 
27 
cuối tháng 6/2011, và 16% tính đến cuối năm 2011. Đồng thời SBV sẽ phạt những tổ 
chức tín dụng nào không đáp ứng được những mục tiêu trên bằng cách bắt buộc tăng 
gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc. 
Mặt khác, SBV cũng tìm cách hạn chế cho vay bằng ngoại tệ đối với việc nhập 
khẩu những hàng hóa không thiết yếu (bao gồm tất cả hàng hóa tiêu dùng); giới hạn việc 
nhập khẩu vàng và chỉ cho phép một số ít công ty được nhập khẩu vàng, cấm kinh 
doanh vàng miếng trên thị trường. Những động thái có tính quyết liệt của SBV đưa ra là 
nhằm giảm thiểu những giao dịch đầu cơ tích trữ ngoại tệ và vàng để đảm bảo ổn định 
tiền đồng VND. 
Tác động : trong 6 tháng đầu năm, cả nước có 39.500 doanh nghiệp được thành 
lập mới, với số vốn đăng ký ước đạt 230.200 tỷ đồng, giảm 4,7% về số lượng và 12,8% 
về số vốn đăng ký. Cùng đó, có tới 30% số doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh phải 
tạm ngừng hoạt động, phá sản, giải thể hoặc đóng cửa. Chỉ có 13,3% số lượng doanh 
nghiệp hầu như không bị ảnh hưởng, phần còn lại đều bị tác động rất lớn, trong đó có 
16,6% số doanh nghiệp bị tác động và ảnh hưởng nghiêm trọng. Thực tế này dẫn tới 
16% doanh nghiệp đang nằm trong tình trạng phải gia hạn nợ gốc và lãi vay. 
 Do cào bằng, không xác định và phân loại rõ bất động sản thiết yếu và không thiết 
yếu nên hầu hết các ngân hàng đã hết giới hạn cho vay bất động sản. Vì thế, nhiều dự án 
bất động sản thiết yếu như nhà ở cho người thu nhập thấp, đầu tư hạ tầng công nghiệp… 
cũng bị vạ lây. Làm cho giá cả các căn hộ ngày một cao. 
Đối với các ngành nghề kinh doanh dịch vụ như phân phối hàng hóa, trước áp lực 
thắt chặt tiền tệ, họ đành giở bài “chiếm dụng vốn” lẫn nhau. Vì thế, phải chiếm dụng 
vốn, chây ỳ trả nợ bạn hàng theo phương thức “ba càng”: càng nhiều, càng lâu, càng 
tốt”. Chi phí sản xuất tăng do lãi vay đang làm đau đầu các doanh nghiệp. Chính sách 
tiền tệ từ tỷ giá đến lãi suất là yếu tố số 1 gây nên tình trạng sản xuất đình trệ hiện nay. 
Thời gian vừa qua, do tỷ giá của các ngoại tệ mạnh biến động rất mạnh so với VND, nên 
hàng loạt doanh nghiệp bị lỗ vì rủi ro tỷ giá. Những khoản vay nợ ngoại tệ do không có 
nguồn ngoại tệ tương lai trong khi không được bảo hiểm rủi ro tỷ giá từ các doanh 
nghiệp, nhất là doanh nghiệp chỉ có nguồn thu nội địa như ngành điện, xi măng đang 
phải méo mặt vì thứ rủi ro này. 
28 
KẾT LUẬN 
Lạm phát ở nước ta trong thời gian qua so với nhiều nước luôn ở mức cao và kéo 
dài do nhiều nguyên nhân, bao gồm cầu kéo, chi phí đẩy và một số yếu tố đặc thù tác 
động làm gia tăng các yếu tố cầu kéo và chi phí đẩy. Nhưng nguyên nhân chủ yếu chính 
là cầu kéo (tổng mức đầu tư vượt quá tiết kiệm, tín dụng, tổng phương tiện thanh toán 
tăng nhanh...). Lạm phát suy cho cùng là bức tranh phản ánh của sự mất cân đối giữa 
tổng cung và tổng cầu. Tuy nhiên cơ cấu cung và cơ cấu cầu trong môi trường thị hiếu 
biến đổi nhanh và qui luật khan hiếm tài nguyên thiên nhiên cho sản xuất cũng tham gia 
gây hiệu ứng tới lạm phát. 
Giảm thiểu các tác động tiêu cực của lạm phát là một vấn đề mang tính chất vĩ mô, 
đặc biệt đối với một nền kinh tế đang trên đà phát triển như Việt Nam. Sự hy sinh tăng 
trưởng năm 2011 để kiềm chế lạm phát như quyết sách của chính phủ Việt Nam đã đủ 
nói lên tầm quan trọng của vấn đề. Lạm phát luôn rình rập và đe dọa nền kinh tế nước ta 
bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước cần phải luôn thận trọng trong mỗi bước 
đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để 
phát triển khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vục nói 
riêng và các quốc gia trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của riêng ai mà là một 
phần không nhỏ dành cho các nhà doanh nghiệp trẻ góp phần làm rạng danh đất nước 
trong nhiều năm tới. 
Trên đây là bài tiểu luận về “Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam năm 2010-
2011” của nhóm 3. Chắc chắn còn nhiều thiếu sót nhất định. Chúng tôi kính mong quý 
thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến đề đề tài được hoàn thiện hơn. 
 Nhóm sinh viên thực hiên 
Thay mặt nhóm 3 
NGUYỄN HỮU VŨ 
29 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
-  
-  
- Nhật báo VnEconomy News ( 
- Tổng Cục Thống kê ( 
- Báo tuổi trẻ online ( 
- Diễn đàn kinh tế Việt Nam ( 
- Tin nhanh Việt Nam ( 
- Báo đầu tư ( 
-  
-  
-  
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nguyennhanlamphat20102011.pdf