SGA và thời gian nằm viện
Ở nhóm trung phẫu sự khác biệt về thời gian
nằm viện giữa 3 nhóm SGA (A: 8, B: 9, C: 10
ngày) không có ý nghĩa thống kê (p =0,089).
Nhưng ở nhóm đại phẫu, sự khác biệt này (SGA
A: 10, B: 14, C: 15) có ý nghĩa thống kê (p <
0,0001). Về mặt ý nghĩa, kết quả của chúng tôi
phù hợp với kết quả của những tác giả đi trước
cả trong và ngoài nước. Các tác giả này đều kết
luận suy dinh dưỡng trước mổ là một trong
những yếu tố kéo dài thời gian nằm viện. Riêng
trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả này còn
cho thấy ở những phẫu thuật tương đối nhẹ
nhàng, mức độ ảnh hưởng của dinh dưỡng lên
thời gian nằm viện không nhiều trong khi với
những trường hợp mổ lớn, tình trạng dinh
dưỡng có liên quan chặt chẽ tới việc bệnh nhân
nằm viện lâu hay mau.
Prealbumin và CRP sau mổ
Kết quả cho thấy nồng độ prealbumin trung
bình sau mổ là 13,03 mg/dL. So với kết quả thử
trước mổ là 20,86 mg/dL, sự khác biệt giữa hai
chỉ số có ý nghĩa thống kê (p<0,0001).
Prealbumin sau mổ giảm rõ rệt so với trước mổ.
Prealbumin có thời gian bán hủy ngắn và sụt
giảm ngay khi có thiếu hụt cung cấp protein –
năng lượng.
Nồng độ CRP sau mổ trung bình là 126,01
ng/mL. Nếu so với ngưỡng trên của giá trị bình
thường (10 ng/mL) rõ ràng có sự gia tăng khá
lớn. Theo Avram MM và cs (2005) trên bệnh
nhân thẩm phân phúc mạc, CRP máu > 15
ng/mL có tỷ lệ sống còn xấu hơn hẳn so với
nhóm CRP < 15 ng/mL, CRP cao có liên quan
đến nhiễm trùng và viêm(6). Theo Menon và cs
(2003), CRP máu > 60 ng/mL có liên quan đến
nồng độ albumin máu thấp(17). Theo Gariballa và
cs (2006), CRP máu cao (> 10 ng/mL) liên quan có
ý nghĩa với nồng độ albumin, transferin, ascorbic
acid và hemoglobin máu thấp, nó cũng liên quan
đến tình trạng cung cấp thiếu năng lượng(15). Có
thể thấy CRP máu tăng vừa biểu hiện cho quá
trình viêm đang xảy ra vừa thể hiện tình trạng sa
sút về dinh dưỡng. So sánh giá trị CRP trung
bình giữa hai nhóm trung phẫu và đại phẫu, sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,657).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 20 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết quả sớm sau mổ các bệnh gan mật tụy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 328
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CHU PHẪU VÀ KẾT QUẢ SỚM SAU MỔ
CÁC BỆNH GAN MẬT TỤY
Đặng Trần Khiêm*, Lưu Ngân Tâm**, Nguyễn Tấn Cường*
TÓM TẮT
Dinh dưỡng rất cần thiết với người bệnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nằm viện có vấn đề về dinh
dưỡng (nghi ngờ suy dinh dưỡng hoặc suy dinh dưỡng nặng) chiếm tỷ lệ từ 20 – 50%. Suy dinh dưỡng làm gia
tăng các biến chứng sau mổ do đó kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị. Tại Việt Nam còn ít nghiên
cứu ảnh hưởng của dinh dưỡng đến kết quả phẫu thuật.
Mục đích: (1)Đánh giá một số đặc điểm dinh dưỡng tiền phẫu và hậu phẫu. (2)Xác định mối liên quan giữa
tình trạng dinh dưỡng tiền phẫu (theo SGA) và kết quả sớm sau mổ của những bệnh nhân được thực hiện những
phẫu thuật về gan mật tụy.
Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân được mổ chương trình các bệnh về gan, lách, mật, tụy trong 5
tháng, từ 02/01/2011 đến 10/06/2011 tại khoa Ngoại Gan mật tụy (4B3), BV Chợ Rẫy. Thiết kế nghiên cứu: tiền
cứu, phân tích hàng loạt ca (case series)
Kết quả: 209 bệnh nhân được mổ chương trình các bệnh gan, lách, mật, tụy đủ tiêu chuẩn tham gia
nghiên cứu được đánh giá dinh dưỡng trước mổ bởi bác sĩ đã được huấn luyện đánh giá bằng phương pháp
SGA (Subjective Global Assessment). Tỷ lệ suy dinh dưỡng theo phương pháp SGA (B và C) là 53,1%; Tỷ
lệ thiếu cân/suy dinh dưỡng đánh giá theo BMI (< 18,5) là 35,9%. Tỷ lệ bệnh nhân có albumin huyết thanh
< 3,5 g/dL là: 17,9%. Tỷ lệ bệnh nhân có prealbumin huyết thanh < 20 mg/dL là: 50,5%. Cân nặng khi ra
viện thấp hơn trước khi mổ, 91,8% bệnh nhân có sụt cân. Prealbumin trung bình sau mổ: 13,03 ± 4,80
mg/dL sụt giảm rõ rệt so với prealbumin trước mổ 20,86 ± 7,98 mg/dL (p < 0,0001). CRP sau mổ trung
bình: 126,01 ± 76,54 ng/mL. Biến chứng chiếm 23,4% tổng số bệnh nhân. Trong đó: xì rò (7,2%); nhiễm
trùng vết mổ (15,3%) và biến chứng khác (4,8%). Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình 9,9 ± 5,7 ngày.
Những bệnh nhân đại phẫu có suy dinh dưỡng (theo SGA) có nguy cơ xì rò cao gấp 2,9 lần nhóm có dinh
dưỡng tốt. Bệnh nhân dinh dưỡng kém có nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao gấp 3,9 lần ở nhóm đại phẫu và
1,8 lần ở nhóm trung phẫu so với người có dinh dưỡng tốt.
Kết luận: Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân nằm viện tại khoa Gan mật tụy BV Chợ Rẫy còn cao (53,1%).
Những bệnh nhân có suy dinh dưỡng thì nguy cơ biến chứng xì rò cao gấp 2,9 lần, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ
cao gấp từ 1,8 đến 3,9 lần so với bệnh nhân có dinh dưỡng tốt. Vì vậy, cần áp dụng phương pháp SGA đánh giá
thường quy trước mổ. Những bệnh nhân suy dinh dưỡng phải được điều chỉnh trước phẫu thuật.
Từ khóa: SGA: subjective global assessment, BMI, SDD (suy dinh dưỡng), CRP
ABSTRACT
PERIOPERATIVE NUTRITIONAL STATUS AND EARLY OUTCOMES OF PATIENTS AT
DEPARTMENT OF HEPATO BILIARY AND PANCREATIC SURGERY, CHO RAY HOSPITAL
Dang Tran Khiem, Luu Ngan Tam, Nguyen Tan Cuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 328 - 334
* Khoa Ngoại-gan-mật-tụy, BV Chợ Rẫy ** Khoa Dinh Dưỡng, BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: Bs. Đặng Trần Khiêm; ĐT 0906575935
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 329
Nutrition is indispensable for patients. Many studies revealed that a large amount of inpatients have
nutritional problems (suspected undernutrition or malnutrition: 20 – 50%). Malnutrition makes morbidity and
mortality increasing, prolongs hospital stay and affects cost-effectiveness of the treatment. There were few reports
about nutritional influences and surgery outcomes in Viet Nam so far.
Aims: (1)To evaluate some perioperative characteristics of nutritional status. (2) To reveal relation between
preoperative nutritional status and early outcomes of inpatients at HBP surgery department.
Subject and Method: patients on admission from January 2011 to June 2011 at HBP surgery department,
Cho Ray Hospital
Results: 209 eligible patients are evaluated nutritional status by well-trained practician preoperatively.
Incidence of chronic malnutrition by BMI and SGAare 35.9% and53.1% respectively. The proportion of low
albuminemia and preoperative prealbuminemia are 17.9% and 50.5% respectively. 98.1% of patients have weight
loss on discharge. There are clearly decrease of prealbuminemia and increase of CRP postoperatively. Mean
hospital stay was 9.9 ± 5.7 days. Malnutrition patients (based on SGA) have a risk of leakage 3.5 times higher and
a risk of surgical site infection 3.9 times higher (major abdominal surgery), 1.8 times higher (minor abdominal
surgery) than that of good nutrition ones.
Conclusion: Malnutrition incidence of inpatients at HBP surgery department is still high. Malnutrition
makes leakage and surgical site infection risk higher. Thus, it is necessary to perform screenings of inpatient
nutritional status. The adjustment of preoperative undernutrison is definitely obligatory.
Keywords: hospital malnutrition/undernutrition, SGA, suy dinh dưỡng (SDD), HBP, CRP
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dinh dưỡng rất cần thiết với người bệnh.
Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nằm viện
có vấn đề về dinh dưỡng (chiếm tỷ lệ từ 20 –
50%)(4,10,18,26,27). Suy dinh dưỡng (SDD) làm gia
tăng các biến chứng sau mổ(24) như: nhiễm trùng
vết mổ, bục xì miệng nối, chậm lành vết
thương. Bên cạnh đó, suy dinh dưỡng còn liên
quan đến các biến chứng khác như: viêm phổi,
nhiễm trùng huyết(3,11,19,25). Do đó, SDD kéo dài
thời gian nằm viện (21) và tăng chi phí điều trị(9).
Tại Việt Nam, có nhiều nghiên cứu về dinh
dưỡng. Tuy nhiên, đa phần các nghiên cứu tập
trung vào lĩnh vực dinh dưỡng trong cộng
đồng. Trước năm 2000 dinh dưỡng trên bệnh
nhân nằm viện hầu như không được đề cập
đến. Năm 2006, có một nghiên cứu đánh giá
tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân nằm viện
thực hiện tại khoa Tiêu hóa và Nội tiết bệnh
viện Bạch Mai nhưng lại trong lĩnh vực nội
khoa(4). Về bệnh lý ngoại khoa và dinh dưỡng
hầu như chưa có nghiên cứu nào thực hiện
ngoại trừ nghiên cứu của Phạm Văn Năng(20)
cũng trong năm 2006. Năm 2010, Nguyễn
Thùy An thực hiện nghiên cứu về tình trạng
nhiễm trùng vết mổ và suy dinh dưỡng tại
bệnh viện Chợ Rẫy(3). Những nghiên cứu này
cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân
tiền phẫu khá cao (55,7% theo Phạm Văn
Năng(20), 56,7% theo Nguyễn Thùy An(3) và hầu
như không có xu hướng giảm qua nhiều
năm(2,3,14,20). Ở những bệnh nhân có vấn đề về
dinh dưỡng, tỷ lệ biến chứng, thời gian nằm
viện và chi phí chăm sóc điều trị đều tăng.
Điều này chứng tỏ việc đánh giá và điều trị
dinh dưỡng trước mổ vẫn còn là một vấn đề
cấp thiết cần giải quyết.
Trên lâm sàng có nhiều cách để đánh giá tình
trạng dinh dưỡng như: dùng các chỉ số nhân trắc
(BMI, bề dày lớp mỡ dưới da, vòng cánh tay),
thang điểm đánh giá (MNA, SGA, NRS, NRI)
hay các xét nghiệm cận lâm sàng (Albumin,
Prealbumin, Transferrin, TLC)(10,12,16,28). Mỗi
phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng.
Nhìn chung không có phương pháp nào là hoàn
hảo. Một trong những công cụ dễ áp dụng là
đánh giá dinh dưỡng tổng thể chủ quan
(Subjective Global Assessment: SGA). Từ thập
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 330
niên 80, SGA đã được Detsky và cs(12) xây dựng
và phát triển. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã
chỉ ra công cụ này có giá trị và đáng tin cậy(12). Ở
Việt Nam, Phạm Văn Năng và cs sử dụng bảng
SGA để đánh giá dinh dưỡng tiền phẫu trên
bệnh nhân ở Cần Thơ và đồng bằng sông Cửu
Long(20). Tại bệnh viện Chợ Rẫy, Lưu Ngân Tâm
và cs(2) dùng bảng SGA để đánh giá tình trạng
dinh dưỡng của bệnh nhân nhập viện. Nghiên
cứu gần đây nhất là của Nguyễn Thùy An đánh
giá liên quan của dinh dưỡng bằng SGA và tỷ lệ
nhiễm trùng sau mổ(3). Đây là một phương pháp
đơn giản, rẻ tiền, dễ sử dụng, dễ huấn luyện và
có thể áp dụng đại trà trên lâm sàng với kết quả
đáng tin cậy. Đó là lý do phương pháp này cần
được mở rộng sử dụng trong thực tế lâm sàng.
Mục đích: Nhằm tìm mối liên quan giữa tình
trạng dinh dưỡng và kết quả sau mổ các bệnh lý
gan mật tụy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu
đánh giá tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết
quả sớm sau phẫu thuật các bệnh gan, mật, tụy.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Bệnh nhân nhập viện phẫu thuật tại khoa
Gan mật tụy BV Chợ Rẫy.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân phẫu thuật chương trình các bệnh
gan, lách, mật và tụy.
Phương pháp
Tiền cứu, phân tích hàng loạt ca
Phương pháp đánh giá tổng thể chủ quan
(SGA):
A. Phần bệnh sử
Thay đổi cân nặng
Mất cân so với 6 tháng trước đây: kg,.%
Thay đổi cân nặng trong 2 tuần: □ Tăng □ Không đổi □ Giảm
cân
Thay đổi ăn uống
□ Không thay đổi
□ Thay đổi: thời gian..(tuần)
Loại thức ăn:
□ Lỏng □ Sệt □ Ít năng lượng □ Nhịn hoàn toàn
Triệu chứng đường tiêu hóa (có trên 2 tuần):
□ Không □ Buồn nôn □ Nôn □ Tiêu chảy □ Biếng ăn
Khả năng sinh hoạt hằng ngày
□ Không thay đổi
□ Thay đổi: thời gian..(tuần)
Loại: □ Hạn chế sinh hoạt □ Đi lại yếu □ Nằm hoàn toàn trên
giường
B. Thăm khám lâm sàng
Bình thường: 0 ; nhẹ: 1 ; vừa: 2 ; nặng: 3
Mất lớp mỡ dưới da: ..
Teo cơ:
Phù chân: ..
Báng bụng: ..
C. Phân loại
□ SGA-A: tình trạng dinh dưỡng tốt.
□ SGA-B: suy dinh dưỡng hay nghi ngờ suy dinh dưỡng.
□ SGA-C: suy dinh dưỡng nặng
KẾT QUẢ
Bảng 1: Một số đặc điểm lâm sàng
Biến số Số TH
Trung bình ± Độ
lệch chuẩn
Nhỏ
nhất
Lớn nhất
Tuổi (năm) 209 49,6 ± 15,7 16 91
Chiều cao (m) 209 1,57 ± 0,07 1,37 1,72
Cân nặng (kg) 209 49,02 ± 8,70 31 77
Cân nặng 6
tháng trước
(kg)
206 53,61 ± 8,68 36 80
BMI (kg/m
2
) 209 20,08 ± 3,14 13,15 33,78
BMI ra viện
(kg/m
2
)*
188 19,06 ± 3,19 12,57 30,61
* 91,8% số bệnh nhân sụt cân khi ra viện.
Bảng 2: Kết quả cận lâm sàng
Biến số Số TH
Trung bình ±
độ lệch
chuẩn
Nhỏ
nhất
Lớn nhất
Albumin (g/dL) 207 4,16 ± 0,72 1,70 7,00
Prealbumin trước
mổ (mg/dL)
202 20,86 ± 7,98 3,10 58,40
Prealbumin sau
mổ (mg/dL)
184 13,03 ± 4,79 3,00 32,30
CRP (ng/mL) 185
126,01 ±
76,54
2,50 556,00
Bảng 3: Phân loại dinh dưỡng theo SGA
Phân loại Tỷ lệ (%) Tần số
SGA A 46,9 98
SGA B 41,6 87
SGA C 11,5 24
Tổng 100 209
Bảng 4: Phân loại dinh dưỡng theo BMI
Phân loại BMI Số TH Tỷ lệ (%)
Thiếu cân (SDD) (< 18,5) 75 35,9
Bình thường (18,5 – 25) 119 56,9
Thừa cân/béo phì (> 25) 15 7,2
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 331
Phân loại BMI Số TH Tỷ lệ (%)
Tổng 209 100
Bảng 5: Liên quan giữa SGA và thời gian nằm viện
hậu phẫu
Thời gian nằm
viện hậu phẫu
(ngày)
Đánh giá SGA Chung
A B C
Nhóm trung
phẫu
8 ± 4 9 ± 5 10 ± 6 9 ± 4
p = 0,089 (ANOVA)
Nhóm đại phẫu 10 ± 4 14 ± 9 15 ± 7 12 ± 7
p < 0,0001(ANOVA)
Bảng 6: Liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng
(SGA) và các biến chứng
Biến số
Dinh
dưỡng
kém
Dinh
dưỡng
tốt
RR (KTC 95%) p
Xì rò (n = 15) 12 3 2,9 (0,7 – 9,5) 0,0303
Nhiễm trùng
vết mổ (n =
32)
23 9
2,3 (1,1 – 4,6)
(Đại phẫu: 3,9
Trung phẫu: 1,8)
0,0208
Biến chứng
khác (n = 10)
5 5 0,9 (0,3 – 3,0) 0,8339
BÀN LUẬN
Tỷ lệ suy dinh dưỡng
Trong nghiên cứu, chúng tôi có 53,1% bệnh
nhân suy dinh dưỡng mức độ vừa và nặng (SGA
B: 41,6% và SGA C: 11,5%). Kết quả này tương tự
với nghiên cứu của Nguyễn Thùy An. Tuy
nhiên, trong khi nhóm SGA A có tỷ lệ gần tương
đương thì nhóm SGA B của chúng tôi chiếm tỷ lệ
cao hơn. Ngược lại, nhóm SGA C của Nguyễn
Thùy An chiếm tới 31,7% cao hơn chúng tôi
nhiều (11,5%)(3). Sự khác biệt này có thể phần nào
do đánh giá chủ quan cũng như tình trạng dinh
dưỡng khác nhau của bệnh nhân mỗi thời điểm.
So sánh với một số tác giả khác chúng tôi nhận
thấy: nhóm SGA A chiếm tỷ lệ đa số, tỷ lệ giảm
dần ở nhóm SGA B và C. Tỷ lệ suy dinh dưỡng
của chúng tôi tương tự của Phạm Văn Năng
(55,7%)(20), cao hơn kết quả nghiên cứu của Lưu
Ngân Tâm và Shirodkar (khoảng 42%)(2,24) Chỉ có
kết quả của Bauer và cs (2002) có sự khác biệt,
nhóm SGA B chiếm ưu thế. Sự khác biệt này có
thể do phương pháp đánh giá của chúng tôi và
Bauer khác nhau. Tác giả Bauer dùng bảng phân
loại SGA cải biên (PG-SGA: Patient Generated –
Subjective Global Assessment) là loại bảng thiết
kế chi tiết có tính điểm để bệnh nhân có thể tự
điền thông tin vào.
Khi Detsky áp dụng SGA để đánh giá tình
trạng dinh dưỡng, tỷ lệ suy dinh dưỡng là 31%.
Đến nay các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ suy dinh
dưỡng trên bệnh nhân nằm viện vẫn còn rất
cao(3,7,12,20,24). Điều đó chứng tỏ sau khoảng 2 thập
niên, tỷ lệ suy dinh dưỡng trên lâm sàng vẫn
không giảm đi mà còn có xu hướng tăng, trái
ngược hẳn với tỷ lệ suy dinh dưỡng trên cộng
đồng ngày càng giảm khi tình trạng kinh tế xã
hội ngày một cải thiện(1). Trong đó nghiên cứu
của chúng tôi tỷ lệ suy dinh dưỡng chung (SGA
B và C) là 53,1% cao hơn gần 20% so với đánh
giá bằng BMI. Kết quả của Nguyễn Thùy An
đánh giá bằng SGA, tỷ lệ suy dinh dưỡng cao
gấp đôi so với dùng BMI(3). Có thể thấy phương
pháp đánh giá bằng SGA có khả năng tầm soát
các đối tượng suy dinh dưỡng tốt hơn, vì nó có
thể phân loại sớm ngay khi bệnh nhân có vấn
đề về dinh dưỡng mà chưa có sự thay đổi nhiều
về cân nặng.
Albumin, prealbumin trước mổ
Albumin máu trung bình của chúng tôi là
4,16 g/dL, prealbumin trước mổ của chúng tôi là
20,86 mg/dL, tương tự với kết quả trong nghiên
cứu của Nguyễn Thùy An (lần lượt là 4,61 g/dL
và 22,41 mg/dL)(3). Nồng độ hai loại protein máu
của chúng tôi hơi thấp hơn so với kết quả của
của Nguyễn Thùy An. Ở nghiên cứu của Lưu
Ngân Tâm, chỉ số albumin máu dao động trong
khoảng từ 3,8 – 4,2 g/dL tùy vào tình trạng dinh
dưỡng theo SGA(2).
Ngược lại, kết quả albumin và prealbumin
máu của chúng tôi cao hơn kết quả trong nghiên
cứu của Devoto và cs (2006): albumin và
prealbumin trung bình lần lượt là 3,1 g/L và 16
mg/dL(13). Sự khác nhau này có thể do tình trạng
bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi và
Devoto khác nhau. Devoto chọn 108 bệnh nhân
có tình trạng khá nặng gồm: nội tổng quát, thần
kinh, phục hồi chức năng hay phải chăm sóc dài
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 332
ngày, chúng tôi chọn mẫu gồm nhiều loại bệnh
ngoại gan mật tụy có cả nặng và nhẹ.
Khi phân nhóm dinh dưỡng theo nồng độ
albumin, chúng tôi nhận thấy số bệnh nhân có
albumin máu < 3,5 g/dL chiếm 14,5% (trong đó
albumin máu < 3 g/dL là 6,3%) khác biệt không
nhiều so với kết quả của Nguyễn Thùy An
(18,2%)(3)và Putwatana (18,9%)(22). Tỷ lệ này thấp
hơn kết quả trong nghiên cứu của Al Hudiathy
và cs (1996): nhóm bệnh nhân không phẫu thuật
tiêu hóa albumin máu < 3,5 g/dL chiếm 31% còn
nhóm phẫu thuật tiêu hóa là 36%(5). Kết quả này
cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có albumin máu thấp
khá ít, đa số bệnh nhân (hơn 80%) có albumin
trong giới hạn bình thường. Tuy nhiên nếu chỉ
căn cứ vào chỉ số albumin này mà cho rằng tỷ lệ
bệnh nhân suy dinh dưỡng thấp là không chính
xác. Vì thời gian bán hủy của albumin khoảng 21
ngày, thời gian để tổng hợp cũng khá dài trong
khi trong mẫu nghiên cứu có những trường hợp
bệnh nhân bệnh cấp tính (sỏi ống mật chủ, viêm
túi mật cấp, áp xe lách), tổng trạng trước đó lại
tốt cho nên ảnh hưởng của bệnh lên tình trạng
sinh tổng hợp albumin chưa thay đổi nhiều. Tuy
nhiên, nếu dựa vào phương pháp đánh giá bằng
SGA hoặc prealbumin là protein có thời gian bán
hủy ngắn hơn chúng tôi vẫn đánh giá được tình
trạng suy dinh dưỡng hiện tại. Điều đó cho thấy
albumin không phải là một xét nghiệm nhạy để
phát hiện tình trạng suy dinh dưỡng trên lâm
sàng, nó phù hợp để đánh giá tình trạng dinh
dưỡng tổng thể hơn(8).
Khi phân nhóm dinh dưỡng theo
prealbumin máu, số bệnh nhân có prealbumin
máu < 20 mg/dL chiếm 50% hơi thấp hơn kết quả
của các tác giả khác: Nguyễn Thùy An là 55,7%,
Devoto G và cs (2006) tỷ lệ prealbumin < 17
mg/dL là 59%(3,13) Đặt hai kết quả albumin và
prealbumin cạnh nhau có thể thấy prealbumin
nhạy hơn hẳn trong đánh giá tình trạng dinh
dưỡng. Prealbumin có thời gian bán hủy ngắn (2
ngày) lại không bị ảnh hưởng bởi lượng nước
trong cơ thể nên nó phản ánh chính xác tình
trạng dinh dưỡng hiện tại của bệnh nhân(8,23). Xét
nghiệm này không những thích hợp để đánh giá
bước đầu mà còn là công cụ để theo dõi tình
trạng dinh dưỡng trên bệnh nhân nằm viện.
SGA và biến chứng
SGA và xì rò
Trong 15 trường hợp bị xì – rò sau mổ, có 12
bệnh nhân có tình trạng dinh dưỡng kém trong
khi chỉ có 3 người dinh dưỡng tốt. Sự khác biệt
giữa 2 nhóm này có ý nghĩa thống kê (p =
0,0303). Loại trừ yếu tố gây nhiễu là loại phẫu
thuật nặng hay nhẹ, chúng tôi tính được số đo
kết hợp RR = 2,9 ở nhóm đại phẫu. Riêng nhóm
trung phẫu do không có trường hợp xì rò nào
nên không tính được RR về mặt thống kê. Như
vậy, trên bệnh nhân đại phẫu những người có
dinh dưỡng kém có nguy cơ bị xì rò cao gấp 2,9
lần so với người có dinh dưỡng tốt. Kết quả này
rất có ý nghĩa vì các điều kiện để một miệng nối
tiêu hóa lành tốt ngoài yếu tố kỹ thuật khâu nối,
điều kiện môi trường trong ổ bụng thì tình
trạng dinh dưỡng phải đầy đủ để bổ sung
nguyên liệu làm lành vết thương.
SGA và nhiễm trùng vết mổ
Trong 32 trường hợp nhiễm trùng vết mổ,
nhóm dinh dưỡng kém có 23 bệnh nhân, dinh
dưỡng tốt có 9 bệnh nhân. Khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p = 0,0208). Phân tích phân tầng theo
loại phẫu thuật, ở nhóm trung phẫu những bệnh
nhân dinh dưỡng kém có nguy cơ nhiễm trùng
vết mổ cao gấp 1,8 lần nhóm có dinh dưỡng tốt.
Ở nhóm đại phẫu, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ
của nhóm dinh dưỡng kém gấp 3,9 lần. Tính
chung cả hai nhóm phẫu thuật, bệnh nhân suy
dinh dưỡng có nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao
gấp 2,3 lần bệnh nhân bình thường. Rõ ràng là
bệnh nhân dinh dưỡng kém khả năng miễn dịch
và đề kháng với mầm bệnh giảm đi nên nguy cơ
nhiễm trùng (cả toàn thân và tại vết mổ) cao hơn.
Chính nhiễm trùng vết mổ cũng góp phần làm
chậm lành vết thương của bệnh nhân.
SGA và các biến chứng khác
Trong 10 trường hợp có biến chứng khác,
nhóm dinh dưỡng kém và dinh dưỡng tốt mỗi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 333
bên có 5 trường hợp. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p = 0,8399). Số đo kết hợp RR=
0,9 thể hiện điều này. Các biến chứng hay gặp là:
viêm phổi, viêm tụy cấp, báng bụng, loét da
Trong các nghiên cứu của nước ngoài, các tác
giả không công bố riêng tác động của SGA và
từng loại biến chứng như chúng tôi. Sungurtekin
và cs sử dụng biến chung là biến chứng sau mổ
để tìm mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng.
Các biến chứng đó bao gồm: nhiễm trùng vết
mổ, áp xe trong ổ bụng, viêm phổi, xẹp phổi,
nhiễm trùng huyết(25). Các biến chứng tương
tự cũng được Putwatana sử dụng. Còn
Shirodkar thì sử dụng biến “các kết quả bất lợi”
(adverse events) dùng chung cho biến dự
hậu(22,24). Kết quả cho thấy nhóm suy dinh dưỡng
(dù theo phương pháp nào) cũng có nguy cơ xảy
ra biến chứng cao gấp 3 – 5 lần so với nhóm có
tình trạng dinh dưỡng tốt. Kết quả của chúng tôi
chỉ thấy mối liên quan giữa tình trạng dinh
dưỡng với xì rò và nhiễm trùng vết mổ, trong
khi với các biến chứng khác sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê.
SGA và thời gian nằm viện
Ở nhóm trung phẫu sự khác biệt về thời gian
nằm viện giữa 3 nhóm SGA (A: 8, B: 9, C: 10
ngày) không có ý nghĩa thống kê (p =0,089).
Nhưng ở nhóm đại phẫu, sự khác biệt này (SGA
A: 10, B: 14, C: 15) có ý nghĩa thống kê (p <
0,0001). Về mặt ý nghĩa, kết quả của chúng tôi
phù hợp với kết quả của những tác giả đi trước
cả trong và ngoài nước. Các tác giả này đều kết
luận suy dinh dưỡng trước mổ là một trong
những yếu tố kéo dài thời gian nằm viện. Riêng
trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả này còn
cho thấy ở những phẫu thuật tương đối nhẹ
nhàng, mức độ ảnh hưởng của dinh dưỡng lên
thời gian nằm viện không nhiều trong khi với
những trường hợp mổ lớn, tình trạng dinh
dưỡng có liên quan chặt chẽ tới việc bệnh nhân
nằm viện lâu hay mau.
Prealbumin và CRP sau mổ
Kết quả cho thấy nồng độ prealbumin trung
bình sau mổ là 13,03 mg/dL. So với kết quả thử
trước mổ là 20,86 mg/dL, sự khác biệt giữa hai
chỉ số có ý nghĩa thống kê (p<0,0001).
Prealbumin sau mổ giảm rõ rệt so với trước mổ.
Prealbumin có thời gian bán hủy ngắn và sụt
giảm ngay khi có thiếu hụt cung cấp protein –
năng lượng.
Nồng độ CRP sau mổ trung bình là 126,01
ng/mL. Nếu so với ngưỡng trên của giá trị bình
thường (10 ng/mL) rõ ràng có sự gia tăng khá
lớn. Theo Avram MM và cs (2005) trên bệnh
nhân thẩm phân phúc mạc, CRP máu > 15
ng/mL có tỷ lệ sống còn xấu hơn hẳn so với
nhóm CRP < 15 ng/mL, CRP cao có liên quan
đến nhiễm trùng và viêm(6). Theo Menon và cs
(2003), CRP máu > 60 ng/mL có liên quan đến
nồng độ albumin máu thấp(17). Theo Gariballa và
cs (2006), CRP máu cao (> 10 ng/mL) liên quan có
ý nghĩa với nồng độ albumin, transferin, ascorbic
acid và hemoglobin máu thấp, nó cũng liên quan
đến tình trạng cung cấp thiếu năng lượng(15). Có
thể thấy CRP máu tăng vừa biểu hiện cho quá
trình viêm đang xảy ra vừa thể hiện tình trạng sa
sút về dinh dưỡng. So sánh giá trị CRP trung
bình giữa hai nhóm trung phẫu và đại phẫu, sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,657).
KẾT LUẬN
Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân nằm viện
tại khoa Gan mật tụy BV Chợ Rẫy còn cao
(53,1%). Những bệnh nhân có suy dinh dưỡng
thì nguy cơ biến chứng xì rò cao gấp 2,9 lần,
nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao gấp từ 1,8 đến
3,9 lần so với bệnh nhân có dinh dưỡng tốt. Vì
vậy, cần áp dụng phương pháp SGA đánh giá
thường quy trước mổ. Những bệnh nhân suy
dinh dưỡng phải được điều chỉnh trước phẫu
thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Hợp, Lê Danh Tuyên, Trần Thành Đô, Nguyễn Hồng
Trường, Nguyễn Chí Tâm, Nguyễn Xuân Ninh, et al. (2011).
Tình hình dinh dưỡng Việt Nam năm 2009 - 2010. Viện dinh
dưỡng quốc gia - Unicef, Hà Nội.
2. Lưu Ngân Tâm, Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (2009), "Tình trạng
dinh dưỡng bệnh nhân lúc nhập viện tại bệnh viện Chợ Rẫy ".
Tạp chí Y học, Đại học Y Dược TP.HCM, 13: 305-312.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 334
3. Nguyễn Thùy An. (2010). Tình trạng dinh dưỡng và biến chứng
nhiễm trùng sau phẫu thuật trong bệnh lý gan mật tụy. Luận văn
tốt nghiệp thạc sỹ điều dưỡng. Đại học Y dược thành phố Hồ
Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
4. Phạm Thu Hương, Nghiêm Nguyệt Thu, Trần Châu Nguyên,
Nguyễn Bích Ngọc, Thái Thị Thu Cúc, Nguyễn Thị Phương
Thảo, et al. (2006). Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân nhập viện
khoa Tiêu hóa và Nội tiết tại Bệnh viện Bạch Mai.
5. Al-Hudiathy AM, Lewis NM (1996), "Serum albumin and age
are predictors of length of hospital stay in surgical patients ".
Nutrition Research, 16(11-12): 1891 - 1990.
6. Avram MM, Fein PA, Paluch MM, Schloth T, Chattopadhyay J
(2005), "Association Between C-Reactive Protein and Clinical
Outcomes in Peritoneal Dialysis Patients". Advances in Peritoneal
Dialysis, 21: 154 - 158.
7. Bauer J, Capra S, Ferguson M (2002), "Use of the scored Patient-
Generated Subjective Global Assessment (PG-SGA) as a
nutrition assessment tool in patients with cancer". European
Journal of Clinical nutrition, 56: 779-785.
8. Beck FK, Rosenthal TC (2002), "Prealbumin: A Marker for
Nutritional Evaluation". American Family Physician, 65: 1575-
1578.
9. Braunschweig C, Gomez S, Sheean PM (2000), "Impact of
Declines in Nutritional Status on Outcomes in Adult Patients
Hospitalized for More Than 7 days ". Journal of the American
Dietetic Association, 100(11): 1316-1322.
10. DeLegge MH. (2008). Nutritional assessment. In Nutrition and
Gastrointestinal Diseases (Vol. 1, pp. 334). Humana Press Inc.,
Totowa, New Jersey.
11. Detsky AS, Baker JP, O'Rourke K, Johnston N, Whitwell J,
Mendelson RA, et al. (1987), "Predicting nutrition-associated
complications for patients undergoing gastrointestinal
surgery". Journal of Parenteral Enteral Nutrition 11(5): 440-446.
12. Detsky AS, McLaughlin JR, Baker JP, Johnston N, Whittaker S,
Mendelson RA, et al. (1987), "What is Subjective Global
Assessment of Nutritional Status?". Journal of Parenteral and
Enteral Nutrition, 11(1): 8-13.
13. Devoto G, Gallo F, Marchello C, Racchi O, Garbarini R, Bonassi
S, et al. (2006), "Prealbumin serum concentrations as a useful
tool in the assessment of malnutrition in hospitalized patients".
Clin Chem, 52(12): 2177-2179.
14. Do Thi Kim Lien, Bui Thi Nhung, Nguyen Cong Khan, Le Thi
Hop, Nguyen Thi Quynh Nga, Nguyen Tri Hung, et al. (2009),
"Impact of milk consumption on performance and health of
primary school children in rural Vietnam ". Asian Pacific Journal
of Clinical Nutrition 18(3): 326-334.
15. Gariballa S, Forster S (2006), "Effects of acute-phase response on
nutritional status and clinical outcome of hospitalized patients".
Nutrition, 22(7-8): 750 - 757.
16. Guigoz Y (2006), "The Mini Nutritional Assessment (MNA®)
Review of the literature - What does it tell us?". The Journal of
Nutrition, 10: 466-487.
17. Menon V, Wang X, Greene T, Beck GJ, Kusek JW, Marcovina
SM, et al. (2003), "Relationship Between C-Reactive Protein,
Albumin, and Cardiovascular Disease in PatientsWith Chronic
Kidney Disease". American Journal of Kidney Diseases, 42(1): 44 -
52.
18. Nightingale JMD, Walsh N, Bullock ME, Wicks AC (1996),
"Three simple methods of detecting malnutrition on medical
wards". JOURNAL OF THE ROYAL SOCIETY OF MEDICINE,
89: 144-148.
19. Ocampo RB, Carmase CM, Kadatuan Y, Torillo MR (2008),
"Predicting Post-operative Complications Based on Surgical
Nutritional Risk Level using the SNRAF in Colon Cancer
Patients: A Chinese General Hospital & Medical Center
Experience". Philippine Journal of Surgical Specialties, 63(4): 147-
153.
20. Pham Van Nang, Cox-Reijven PLM, Greve JW, Soeters PB
(2006), "Application of subjective global assessment as a
screening tool for malnutrition in surgical patients in Vietnam".
Clinical Nutrition (2006), 25: 102-108.
21. Pirlich M, Schutz T, Norman K, Gastell S, Lubke H J, Bischoff S
C, et al. (2006), "The German hospital malnutrition study".
Clinical Nutrition, 25: 563-572.
22. Putwatana P, Reodecha P, Sirapo-ngam Y, Lertsithichai P,
Sumboonnanonda K (2004), "Nutrition screening tools and the
prediction of postoperative infectious and wound
complications: comparison of methods in presence of risk
adjustment". Nutrition, 21: 691 - 697.
23. Shenkin A (2006), "Serum Prealbumin: Is It a Marker of
Nutritional Status or of Risk of Malnutrition?". Clinical
Chemistry, 52: 2177 - 2179.
24. Shirodkar M, Mohandas KM (2005), "Subjective global
assessment: a simple and reliable screening tool for
malnutrition among Indians". Indian Journal of Gastroenterology
24: 246-250.
25. Sungurtekin H, Sungurtekin U, Balci C, Zencir M, Erdem E
(2004), "The Influence of Nutritional Status on Complications
after Major Intraabdominal Surgery ". Journal of the American
College of Nutrition, 23(3): 227-232.
26. Waitzberg DL, Caiaffa WT, Correia MI (2001), "The Brazilian
national survey (IBRANUTRI): a study of 4000 patients. ".
Nutrition, 17: 573.
27. Wyszynski DF, Perman M, Crivelli A (2003), "Prevalence of
hospital malnutrition in Argentina: Preliminary result of
population-based study.". Nutrition 19(2): 115-119.
28. Agence Nationale d’Accréditation et d’Évaluation en Santé
(ANAES). Service des recommandations professionnelles.
(2003). Les outils anthropométriques. In Évaluation diagnostique
de la dénutrition protéino- énergétique des adultes hospitalisés (pp.
42-47). ANAES, Saint-Denis La Plaine, Paris.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_trang_dinh_duong_chu_phau_va_ket_qua_som_sau_mo_cac_ben.pdf