KẾT LUẬN
Tỷ lệ stress ở học sinh phân bố theo đặc
tính mẫu
Tỷ lệ stress ở học sinh là 44,8%, trong đó
stress bệnh lý nhẹ là 34,8%, stress bệnh lý nặng
là 10%. Tỷ lệ stress ở nữ là 51,5%, ở nam là
32,1%.
Mối liên quan giữa tỷ lệ stress và 4 nhóm
yếu tố: bản thân học sinh, gia đình, môi
trường học tập, xã hội
Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa tình
trạng stress của học sinh với lo lắng về: ngoại
hình bản thân, kinh tế gia đình, áp lực học tập từ
phía thầy cô, an ninh nơi ở, không có bạn bè để
chia sẻ khi gặp chuyện buồn. Trong đó, áp lực
học tập từ phía thầy cô và kinh tế gia đình là 2
yếu tố gây stress chính ở học sinh. Đây cũng là
hai nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến sức
khỏe tâm thần của học sinh trung học cơ sở.
KIẾN NGHỊ
Nhà trường cần xây dựng phòng tư vấn tâm
lý và chăm sóc sức khỏe tâm thần để giải tỏa các
vấn đề tâm lý cho học sinh như học tập quá căng
thẳng, vấn đề gia đình có xáo trộn, sức khỏe kém
ảnh hưởng việc học; tránh việc học sinh bị stress
lâu dài có thể dẫn đến các hậu quả không tốt
như bị trầm cảm, các bệnh lý tâm thần, tự sát.
Bổ sung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
trong nhà trường, đưa chương trình giáo dục kỹ
năng sống vào chương trình chính khóa hoặc
ngoại khóa tại trường, trong đó nên có kỹ năng
đương đầu với stress và đề ra cách ứng phó với
stress.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 202 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng stress và các yếu tố liên quan ở học sinh trường Trung học Phố thông Nam Hà, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 639
TÌNH TRẠNG STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở HỌC SINH
TRƯỜNG THPT NAM HÀ, THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI
NĂM 2012
Phùng Đức Nhật*, Điền Ngọc Trang*, Nguyễn Nhất Chi Mai*, Nguyễn Thị Tuyết Vân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ở Việt Nam, vấn đề stress học đường đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bởi những hệ
quả do stress gây ra đối với học sinh như trầm cảm, có hành vi gây hấn hoặc thậm chí tự sát. Trong những năm
gần đây, viện Tâm thần Trung Ương, khoa tâm thần bệnh viện Nhi Trung Ương và các trung tâm tư vấn ngày
càng nhận nhiều phụ huynh đưa con em đi khám, với các triệu chứng chủ yếu là kém ăn, mất ngủ, chóng mặt,
khó thở, tay chân bủn rủn.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ stress ở học sinh trường THPT Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và
các yếu tố liên quan.
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả tại trường Nam Hà, thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai năm 2012. Cỡ mẫu là 401 học sinh, được chọn theo cụm với đơn vị cụm là lớp, chọn được 9 lớp.
Mỗi khối chọn ngẫu nhiên 3 lớp bằng cách bốc thăm ngẫu nhiên.
Kết quả: Điểm trung bình tự cảm nhận stress của đối tượng tham gia là 23,9 +/‐ 4,35 điểm. Tỷ lệ học sinh
có biểu hiện stress theo thang đo PSS‐10 (>=24 điểm) là 44,8%, trong đó stress bệnh lý nhẹ chiếm 34,8%, stress
bệnh lý nặng chiếm 10%. Nghiên cứu phát hiện các yếu tố sau là yếu tố gây stress ở học sinh: lo lắng về kết qủa
học tập, về tương lai; lo lắng về kinh tế gia đình, về áp lực học tập, tình hình an ninh nơi ở và thiếu bạn chia sẻ
khi buồn. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ stress ở học sinh với tỷ lệ học sinh cảm thấy lo lắng về
kết quả học tập, về tương lai và về bệnh của bản thân. Những học sinh lo lắng về kinh tế gia đình bị stress cao gấp
1,56 lần học sinh không lo lắng về kinh tế gia đình. Học sinh lo lắng nhiều về áp lực học tập sẽ bị stress gấp 1,81
lần học sinh không lo lắng. Tỷ lệ học sinh lo lắng vì không có bạn để chia sẻ cao gấp 1,57 lần học sinh không lo
lắng. Nhóm học sinh lo lắng về tình hình an ninh nơi ở bị stress gấp 1,5 lần nhóm không lo lắng.
Kết luận: Tỷ lệ stress ở học sinh là 44,8%, trong đó stress bệnh lý nhẹ là 34,8%, stress bệnh lý nặng là 10%.
Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa tình trạng stress của học sinh với lo lắng về: ngoại hình bản thân, kinh
tế gia đình, áp lực học tập từ phía thầy cô, an ninh nơi ở, không có bạn bè để chia sẻ khi gặp chuyện buồn. Trong
đó, áp lực học tập từ phía thầy cô và kinh tế gia đình là 2 yếu tố gây stress chính ở học sinh.
Kiến nghị: Nhà trường cần xây dựng phòng tư vấn tâm lý và chăm sóc sức khỏe tâm thần để giải tỏa các
vấn đề tâm lý cho học sinh.
Từ khóa: stress, học sinh trung học phổ thông.
ABSTRACT
THE STATUS OF STRESS AND RELATED FACTORS OF HIGH SCHOOL STUDENTS IN NAM HA
SCHOOL, BIEN HOA CITY, DONG NAI PROVINCE, 2012
Phung Duc Nhat, Dien Ngoc Trang, Nguyen Nhat Chi Mai, Nguyen Thi Tuyet Van
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 639 ‐ 647
Background: In Viet Nam, stress in school students had been concerned by many researchers due to its
* Viện Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Ths. Phùng Đức Nhật ĐT: 0818103434 Email:phungducnhat@ihph.org.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 640
consequences such as depression, rebelious behaviors, or even suicide. Recently, the central Institute for Mental
Health, the mental health department of Central Pediatrics Hospital, and many counselling centers received more
and more school students accompanied by their parents coming to consult with symptoms like anorexia,
insomnia, dyspnea, weakness of limbs.
Objectives: To determine the proportion of students having stress in Nam Ha high school, Bien Hoa city,
Dong Nai province and its related stressors.
Methods: This is a cross‐sectional study at Nam Ha high school, Bien Hoa city, Dong Nai province in 2012
with a sample of 401 students by class clusters, randomly chosed 3 classes for each grades: 10th grade, 11th grade,
and 12th grade.
Result: The mean of self‐perceived stress score was 23,9 +/‐ 4.35. Proportion of students having stress
measured by PSS‐10 scale was 44.8%, in which mild stress was 34.8% and serious stress was 10%. The study
revealed stressors: worry of study achievemnt, about the future, about household economy, study pressure, living
security at home, and lack of friend to share sadness feeling. There was an association between proportion of stress
and worry about students’study, worry about future, and worry about their own illness. Students suffered by
poor household economy have a tendency of getting stress 1.56 times higher than others. Students did worry
about study pressure suffered stress 1.81 times higher than others. Proportion of students with no friend to share
sadness feeling who suffered stress was 1.57 times higher others. Those students who did worry about security of
their living place suffered stress 1.5 times higher those who did not worry.
Conclusion: Proportion of students having stress was 44.8%, in which mild stress was 34.8% and serious
stress was 10%. There were relationships among stress and these stressors: worry about physical appearrances,
poor household economy, study pressure from teachers, living security, no friend to share sadness feeling. In
which, study pressure from teachers and poor household economy were two main stressors. Recommendation:
schools should have a counselling room for students to release their mental stress.
Key words: stress, high school student.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, vấn đề stress học đường đang
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bởi những
hệ quả do stress gây ra đối với học sinh như
trầm cảm, có hành vi gây hấn hoặc thậm chí tự
sát. Trong những năm gần đây, viện Tâm thần
Trung Ương, khoa tâm thần bệnh viện Nhi
Trung Ương và các trung tâm tư vấn ngày càng
nhận nhiều phụ huynh đưa con em đi khám, với
các triệu chứng chủ yếu là kém ăn, mất ngủ,
chóng mặt, khó thở, tay chân bủn rủn. Theo các
chuyên gia tâm thần học, sức ép học tập, thi cử
đang đè nặng lên trẻ ngay từ khi học mẫu giáo(5).
Nghiên cứu ở các trường trung học phổ
thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm
2007 cho thấy có 21% học sinh bị trầm cảm, 3%
có hành vi cố ý tự gây thường tích, 8% đã từng
bỏ nhà đi. Một nghiên cứu khác của trung tâm
Nghiên cứu Phụ nữ, đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2008 khảo sát trên 200 học sinh lớp 12 đã
chỉ ra rằng 47% học sinh bị stress từ mức độ nhẹ,
vừa và nặng (3).
Nghiên cứu “Tình trạng stress và các yếu tố
liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông
Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
năm 2012” nhằm mục tiêu xác định tỷ lệ stress ở
học sinh và các yếu tố liên quan dẫn đến stress.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Xác định tỷ lệ stress ở học sinh trường THPT
Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và
các yếu tố liên quan.
Mục tiêu cụ thể
1. Xác định tỷ lệ stress ở học sinh trường
THPT Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 641
Nai năm 2012.
2. Xác định mối liên quan giữa tình trạng
stress và yếu tố bản thân, môi trường học tập,
yếu tố gia đình, yếu tố xã hội ở học sinh trường
THPT Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Thời gian:
04/2012‐11/2012
Địa điểm: trường THPT Nam Hà, thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Đối tượng nghiên cứu
Học sinh trường THPT Nam Hà, thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Cỡ mẫu nghiên cứu
Công thức tính cỡ mẫu
k
d
ppZn *1 2
2
21
Trong đó:
‐ Chọn =0,05
‐ Z (1‐/2) = 1,96
‐ p: Tỷ lệ stress của học sinh trường THPT Nam Hà, do
chưa có số liệu chính thức nên ước tính là 50%
‐ d: độ chính xác tương đối, d=5%
‐ k: hệ số thiết kế, chọn k=1,5 do chọn mẫu cụm.
Vậy: n = 576 học sinh. Do cỡ mẫu n vào
khoảng từ 10% tổng số học sinh trở lên, nên ta
hiệu chỉnh cỡ mẫu theo kích thước quần thể. Cỡ
mẫu cuối cùng là Nhc = 401 học sinh
Kỹ thuật chọn mẫu
Bước 1: Chọn mẫu cụm với đơn vị cụm là
lớp, chọn được 9 lớp. Mỗi khối chọn ngẫu nhiên
3 lớp bằng cách bốc thăm ngẫu nhiên.
Bước 2: Lấy thông tin của tất cả các học sinh
trong lớp được chọn. Nếu học sinh vắng mặt thì
sẽ quay lại lấy thông tin vào ngày hôm sau.
Công cụ và cách thu thập số liệu
Bộ câu hỏi soạn sẵn, hướng dẫn cho học sinh
tự điền vào bộ câu hỏi
Tiêu chí chọn mẫu
Tiêu chí đưa vào
Học sinh có mặt tại thời điểm điều tra và
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại ra
Những học sinh trả lời không đủ 10 câu hỏi
trong bảng tự cảm nhận của Cohen.
Xử lý số liệu
Số liệu được nhập bằng phần mềm EpiData
3.1 và phân tích bằng phần mềm Stata 10.0.
Biến số đánh giá tình trạng bị stress: là biến
nhị giá, gồm 2 giá trị: có và không. Dựa vào bảng
cảm nhận stress của Cohen:
‐ Không bị stress hoặc phản ứng stress thích
nghi: <24 điểm.
‐ Stress bệnh lý: >=24 điểm.
‐ Stress bệnh lý nhẹ: từ 24 đến 29 điểm
‐ Stress bệnh lý nặng: >= 30 điểm
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm phân bố mẫu nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm dân số ‐ xã hội của mẫu nghiên
cứu (n= 400)
Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%)
Giới tính Nam 140 35
Nữ 260 65
Dân tộc Kinh 387 96,8
Hoa 11 2,8
Khác 2 0,4
Tôn giáo Thiên chúa 54 13,5
Tin lành 3 0,7
Phật giáo 152 38
Không có tôn giáo 184 46
Khác 7 1,8
Trình độ học
vấn
Lớp 10 134 33,5
Lớp 11 133 33,25
Lớp 12 133 33,25
Học lực hiện
nay
Giỏi 55 13,8
Khá 282 70,5
Trung bình 59 14,8
Yếu 3 0,7
Kém 1 0,2
Chỗ ở hiện tại Nhà gia đình 389 97,2
Nhà người quen 3 0,8
Nhà trọ 8 2,0
Ký túc xá 0 0
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 642
Tỷ lệ nữ trong mẫu nghiên cứu là 65%, tỷ lệ
nam là 35%. Số học sinh nữ cao gần gấp đôi số
học sinh nam. Đa số học sinh là dân tộc Kinh
chiếm 96,8%, tỷ lệ học sinh là người Hoa chiếm
2,8%. Phần lớn học sinh có học lực ở loại khá
(70,5%), số học sinh có học lực ở mức trung bình
và giỏi lần lượt chiếm tỷ lệ 14,8 và 13,8%. Có
97,2% học sinh đang ở nhà của mình, số học sinh
ở nhà trọ chiếm 2%.
Bảng 2: Tỷ lệ stress ở học sinh (n=400)
Stress Tần số Tỷ lệ (%)
Có 179 44,8
- Bệnh lý nhẹ (24-29) 139 34,8
- Bệnh lý nặng (>=30) 40 10
Không (<24điểm) 221 55,2
Điểm trung bình tự cảm nhận stress của đối
tượng tham gia là 23,9 +/‐ 4,35 điểm.
Tỷ lệ học sinh có biểu hiện stress theo thang
đo PSS‐10 (>=24 điểm) là 44,8%, trong đó stress
bệnh lý nhẹ chiếm 34,8%, stress bệnh lý nặng
chiếm 10%.
Bảng 3: Mối liên quan giữa tỷ lệ stress với các yếu tố
thuộc về bản thân học sinh (n=400)
Đặc điểm Stress (n, %)
p PR (KTC 95%) Có Không
Lo lắng về kết quả học tập 0,58
Không lo lắng 12 (40) 18 (60)
Có lo lắng 167
(45,1)
203 (54,9)
Lo lắng về ngoại hình bản thân
0,02
1,31 (1,03-
1,67)
Không lo lắng 56 (37,3)
123
94 (62,7)
Có lo lắng (49,2) 127 (50,8)
Lo lắng về bệnh của bản thân
0,65
Không lo lắng 37 (63,8) 21 (36,2)
Có lo lắng 3 (75) 1 (25)
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
tình trạng stress ở học sinh với việc lo lắng về
ngoại hình bản thân. Học sinh lo lắng nhiều về
ngoại hình bản thân bị stress cao gấp 1,31 lần
học sinh không lo lắng, p=0,02<0,05, PR=1,31
(KTC 95%: 1,03‐1,67).
Bảng 4: Mối liên quan giữa tỷ lệ stress với các yếu tố
gia đình (n=400)
Đặc điểm Stress (n, %)
p PR (KTC 95%) Có Không
Lo lắng về kinh tế gia đình
0,004
1,56 (1,1-
2,1)
Không lo lắng 26 (30,9) 58 (69,1)
Có lo lắng 153
(48,4)
163 (51,6)
Lo lắng về hôn nhân của cha mẹ
0,3
Không lo lắng 116
(42,9)
154 (57,1)
Có lo lắng 63 (48,5) 67 (51,5)
Lo lắng về xáo trộn trong gia đình
0,5
Không lo lắng 3 (75) 1 (25)
Có lo lắng 41 (58,5) 29 (41,5)
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ
lệ stress ở học sinh với sự lo lắng của học sinh về
tình trạng kinh tế gia đình (p<0,01), PR = 1,56
(KTC 95%: 1,1‐2,1), theo đó học sinh lo lắng về
tình trạng kinh tế gia đình bị stress cao gấp 1,56
lần học sinh không lo lắng về kinh tế gia đình.
Bảng 5: Mối liên quan giữa tỷ lệ stress với các yếu tố
thuộc về nhà trường (n=400)
Đặc điểm Stress (n, %)
p PR (KTC 95%)Có Không
Lo lắng về quan hệ với thầy cô 0,2
Không lo lắng 100 (42,2)
79
137
(57,8)
Có lo lắng (48,5) 84 (51,5)
Lo lắng về áp lực học từ thầy cô 0,002 1,81
(1,16-2,84) Không lo lắng 15 (26,3) 42 (73,7)
Có lo lắng 164
(47,8)
179
(52,2)
Lo lắng về khối lượng bài vở <0,001 2,26 (1,57-
2,27) Vừa 24 (23,1) 80 (76,9)
Nhiều 155 (52,4) 141
(47,6)
Lo lắng về thi cử 0,5
Không lo lắng 9 (39,1) 14,
(60,9)
Có lo lắng 170 (45,2) 206
(54,8)
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ
lệ stress ở học sinh với việc học sinh lo lắng về
những áp lực học tập từ phía thầy cô, với
p<0,002, PR=1,81 (KTC 95%: 1,16‐2,84), theo đó
những học sinh lo lắng về áp lực học tập xuất
phát từ phía thầy cô bị stress cao gấp 1,81 lần
học sinh không lo lắng về những áp lực này.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 643
Bảng 6: Mối liên quan giữa tỷ lệ học sinh bị stress
với các yếu tố thuộc về môi trường xã hội (n=400)
Đặc điểm Stress (n, %)
p PR (KTC 95%)Có Không
Lo lắng vì không có bạn để chia sẻ <0,001 1,57
(1,26-1,96)Không lo lắng 76 (35,3) 139 (64,7)
Có lo lắng 103 (55,7) 82 (44,3)
Lo lắng về an ninh nơi ở <0,001 1,5
(1,19-1,88)Không lo lắng 72 (35,8) 129 (64,2)
Có lo lắng 107 (53,7) 92 (46,3)
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ
lệ stress của học sinh với việc học sinh lo lắng vì
không có bạn thân để chia sẻ khi có chuyện
buồn, p <0,001, PR = 1,57 (KTC 95%: 1,26‐1,96),
theo đó học sinh lo lắng vì không có bạn để chia
sẻ bị stress cao gấp 1,57 lần học sinh không lo
lắng về vấn đề này.
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ
lệ stress của học sinh với việc học sinh lo lắng về
tình hình an ninh nơi ở, p <0,001, PR=1,5 (KTC
95%: 1,19‐1,88), theo đó những học sinh lo lắng
về an ninh nơi ở bị stress cao gấp 1,5 lần học sinh
không cảm thấy lo lắng.
BÀN LUẬN
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Qua khảo sát 400 học sinh của trường trung
học phổ thông Nam Hà, có 140 học sinh nam
(35%) và 260 học sinh nữ (65%). Tỷ lệ học sinh
nữ nhiều gần gấp đôi tỷ lệ học sinh nam, sự
chênh lệch về giới tính trong mẫu khảo sát hoàn
toàn phù hợp với sự phân bố giới tính tại trường
THPT Nam Hà.
Về học lực
Đa số học sinh có học lực khá, giỏi. Tỷ lệ học
sinh giỏi là 13,7%, khá 70,5%, trung bình 14,8%
và yếu kém là 0,7%.
Về nơi ở hiện tại
Tỷ lệ học sinh sống chung với gia đình khá
cao (97,2%).
Mức độ stress ở học sinh và các mối liên
quan
Tỷ lệ stress chung ở học sinh khối 10, 11, 12
là 44,8%, trong đó, học sinh có biểu hiện stress
bệnh lý nặng là 10%, stress bệnh lý nhẹ là 34,8%.
Tỷ lệ này khá cao so với nghiên cứu trên sinh
viên năm thứ nhất đại học Y dược TP.HCM,
trong đó stress nặng chiếm 4,3% và stress nhẹ
chiếm 24,8%. Sự khác biệt này có thể là do đối
tượng khảo sát ở nghiên cứu này là học sinh cấp
3, đang ở lứa tuổi vị thành niên, chưa biết cách
ứng phó stress và các học sinh lớp 12 phải đối
mặt với kỳ thi đại học nên chịu áp lực học tập
nhiều hơn.
Kết quả tỷ lệ stress thu được từ nghiên cứu
cũng cao hơn nghiên cứu ở 182 sinh viên khoa Y
tế công cộng của tác giả Lê Thu Huyền, trong đó
có 44 sinh viên bị stress bệnh lý chiếm tỷ lệ
24,2%, trong đó stress nhẹ chiếm tỷ lệ 21,4% và
stress nặng chiếm 2,8% (4).
Mối liên quan giữa tình trạng stress và các
yếu tố thuộc về bản thân học sinh
Cảm nhận về ngoại hình bản thân và lo lắng
về ngoại hình
Ngoại hình bản thân là yếu tố nguy cơ gây
stress cao ở học sinh trung học phổ thông vì đây
là giai đoạn trẻ đang lớn, có nhiều thay đổi về
thể chất và tâm sinh lý.
Lo lắng về kết quả học tập và tương lai
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ
lệ stress ở học sinh với tỷ lệ học sinh cảm thấy lo
lắng về kết quả học tập, về tương lai và về bệnh
của bản thân, p <0,05.
Mối liên quan giữa tình trạng stress và các
yếu tố thuộc về gia đình
Hoàn cảnh kinh tế gia đình là một trong
những yếu tố gây stress ở học sinh. Tình trạng
kinh tế gia đình càng kém thì lo lắng và stress
càng tăng lên. Những học sinh lo lắng về kinh tế
gia đình bị stress cao gấp 1,56 lần học sinh không
lo lắng về kinh tế gia đình (p=0,004).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 644
Mối liên quan giữa tình trạng stress và các
yếu tố thuộc về nhà trường
Áp lực học tập và mối lo lắng của học sinh
Theo điều tra về stress do học tập của tác giả
Phạm Thanh Bình, trong đó có 15,3% học sinh có
stress nặng(6).
Trong nghiên cứu 333 học sinh tại hai trường
trung học phổ thông Massachusette (106 học
sinh) và Washington (227 học sinh) tác giả có
nhận định rằng nhiều học sinh chịu gánh nặng
stress từ chương trình học nặng nề và sức ép
phải vào được các trường danh tiếng(2).
Môi trường học tập trong nhà trường cũng
có ảnh hưởng đáng kể đến stress, trong đó quan
trọng nhất là áp lực từ thầy cô và khối lượng bài
vở. Nghiên cứu cũng cho thấy học sinh lo lắng
nhiều về áp lực học tập sẽ bị stress gấp 1,81 lần
học sinh không lo lắng và vượt qua được. Kết
quả này theo tác giả Hồ Hữu Tính nghiên cứu
trên học sinh trung học phổ thông tại Phan Thiết
là 1,62 lần(1).
Khối lượng bài vở
Kết quả nghiên cứu cho thấy khi khối lượng bài
vở học tập tăng lên, tỷ lệ stress của học sinh tăng
lên. Học sinh cảm nhận khối lượng bài vở nhiều
bị stress gấp 2,26 lần so với học sinh có khối
lượng bài vở ở mức vừa phải.
Mối liên quan giữa tình trạng stress và các yếu
tố thuộc về môi trường xã hội
Có hai yếu tố khảo sát là mối quan hệ bạn bè
ngoài xã hội và tình hình an ninh nơi ở.
Quan hệ với bạn bè ngoài xã hội
Việc không có bạn thân để chia sẻ khi gặp
chuyện buồn lại gây stress cao ở học sinh. Tỷ lệ
học sinh lo lắng vì không có bạn để chia sẻ cao
gấp 1,57 lần học sinh không lo lắng (KTC95%:
1,26‐1,96) (p <0,05).
An ninh nơi ở
Có mối liên quan giữa việc lo lắng về an ninh
nơi ở và tình trạng stress của học sinh. Nhóm
học sinh lo lắng về tình hình an ninh nơi ở bị
stress gấp 1,5 lần nhóm không lo lắng. Nghiên
cứu của Hồ Hữu Tính cũng cho kết quả tương tự
với nhóm an ninh nơi ở kém có tỷ lệ stress tăng
lên gấp 1,53 lần nhóm ở nơi có an ninh tốt (1).
KẾT LUẬN
Tỷ lệ stress ở học sinh phân bố theo đặc
tính mẫu
Tỷ lệ stress ở học sinh là 44,8%, trong đó
stress bệnh lý nhẹ là 34,8%, stress bệnh lý nặng
là 10%. Tỷ lệ stress ở nữ là 51,5%, ở nam là
32,1%.
Mối liên quan giữa tỷ lệ stress và 4 nhóm
yếu tố: bản thân học sinh, gia đình, môi
trường học tập, xã hội
Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa tình
trạng stress của học sinh với lo lắng về: ngoại
hình bản thân, kinh tế gia đình, áp lực học tập từ
phía thầy cô, an ninh nơi ở, không có bạn bè để
chia sẻ khi gặp chuyện buồn. Trong đó, áp lực
học tập từ phía thầy cô và kinh tế gia đình là 2
yếu tố gây stress chính ở học sinh. Đây cũng là
hai nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến sức
khỏe tâm thần của học sinh trung học cơ sở.
KIẾN NGHỊ
Nhà trường cần xây dựng phòng tư vấn tâm
lý và chăm sóc sức khỏe tâm thần để giải tỏa các
vấn đề tâm lý cho học sinh như học tập quá căng
thẳng, vấn đề gia đình có xáo trộn, sức khỏe kém
ảnh hưởng việc học; tránh việc học sinh bị stress
lâu dài có thể dẫn đến các hậu quả không tốt
như bị trầm cảm, các bệnh lý tâm thần, tự sát.
Bổ sung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
trong nhà trường, đưa chương trình giáo dục kỹ
năng sống vào chương trình chính khóa hoặc
ngoại khóa tại trường, trong đó nên có kỹ năng
đương đầu với stress và đề ra cách ứng phó với
stress.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 645
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Hữu Tính (2009). Thực trạng stress lo âu và những liên
quan đến lo âu ở học sinh lớp 12 trường THPT Phan Bội
Châu. Phan Thiết. Bình Thuận. Luận văn tốt nghiệp cử nhân
Y Tế công cộng năm 2009. Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí
Minh. Tr. 185.
2. Lauren DF (2011). Students Stress in high‐pressure college
preparatory schools. Degree of Bachelor of Arts. Wesleyan
University. Pp 42.
3. Lê Thị Thanh Thủy (2009). Stress trong học tập và cách ứng
phó ở học sinh cuối cấp trung học phổ thông. Tạp chí Tâm lý
y học. 4. 22.
4. Lê Thu Huyền (2010). Tình trạng stress và các yếu tố liên
quan của sinh viên Y tế công cộng. đại học Y Dược thành phố
Hồ Chí Minh. năm 2010. Luận văn tốt nghiệp cử nhân y tế
công cộng. Đại học Y dược Thành Phố Hồ Chí Minh. Tr 91.
5. Ngô Toàn Định (1995). Tâm lý y học. Nhà xuất bản y học. Hà
Nội. 89‐89.
6. Phạm Thanh Bình (2007). Stress trong học tập của học sinh
trung học phổ thông. Tạp chí tâm lý y học. 12 (105).
Ngày nhận bài báo: 13/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 12/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_trang_stress_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_hoc_sinh_truong.pdf