Thứ nhất, tất cả các hành vi được điều
chỉnh bởi các ĐUQT chống khủng bố là
hành động khủng bố (quốc tế) và là tội phạm
theo pháp luật quốc tế. Các tội phạm khủng
bố có đặc điểm chung là luôn mang tính chất
bạo lực đối với dân chúng.
Thứ hai, khủng bố bao gồm nhiều
hành vi cụ thể chống lại dân thường như gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt về tính mạng
người dân, gây thiệt hại nghiêm trọng về sức
khỏe, hay bắt cóc con tin hay các hành vi
gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản.
Thứ ba, tội phạm khủng bố luôn được
thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp
với các mục đích:
- Nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ
trong công chúng hoặc nhóm người hoặc
một người nào đó, hoặc
- Nhằm đe dọa hay ép buộc người
khác, chính phủ hay tổ chức quốc tế làm hay
không làm một việc nào đó.
Động cơ phạm tội khủng bố rất đa
dạng (có thể liên quan đến chính trị, kinh tế,
tôn giáo hay hệ tư tưởng.) nhưng đây
không phải là dấu hiệu bắt buộc.
Tìm hiểu đặc điểm chung của tội
phạm khủng bố nêu trên sẽ tạo ra sự thống
nhất về nhận thức trong cộng đồng quốc tế
đối với tội phạm khủng bố, góp phần củng
cố “khung pháp lý quốc tế chung” chống
khủng bố và là cơ sở cho các quốc gia nội
luật hóa quy định trong các điều ước quốc
tế về loại tội phạm này
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tội phạm khủng bố trong pháp luật quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Trong xu thế toàn cầu hóa, quốc tế
hóa hiện nay, khủng bố xảy ra ở bất kỳ một
quốc gia nào cũng đều tác động tiêu cực đến
các quốc gia khác. Cựu Tổng thư ký Liên
hiệp quốc (LHQ) Ban Ki-moon đã nhấn
mạnh: “Khủng bố là một trong những mối
đe dọa thường trực đối với hòa bình và an
ninh thế giới. Khủng bố xâm phạm các
quyền con người, quyền tự do cơ bản cũng
như vi phạm các nguyên tắc cơ bản đảm bảo
sự bền vững toàn cầu cũng như mối liên kết
thống nhất giữa các quốc gia... Khủng bố là
22
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
TÖÅI PHAÅM KHUÃNG BÖË TRONG PHAÁP LUÊÅT QUÖËC TÏË
Nguyễn Quyết Thắng*
*ThS, Giảng viên Đại học An ninh nhân dân.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: khủng bố, tội phạm
khủng bố, pháp luật quốc tế.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 15/02/2017
Biên tập: 05/05/2017
Duyệt bài: 12/05/2017
Article Infomation:
Keywords: Terrorism, terror-
ist crime, international law.
Article History:
Received: 15 Feb. 2017
Edited: 05 May 2017
Approved: 12 May 2017
Tóm tắt:
Bài viết làm rõ nguồn gốc ra đời của thuật ngữ “khủng bố” cũng như đánh
giá của cộng đồng quốc về khủng bố thông qua các văn kiện pháp lý quốc tế
về loại tội phạm này. Việc xác định đặc điểm của tội phạm khủng bố trong
pháp luật quốc tế có ý nghĩa quan trọng, góp phần tạo ra sự thống nhất chung
về các mối đe dọa an ninh toàn cầu, tạo cơ sở để các quốc gia, trong đó có
Việt Nam tiếp tục nội luật hóa các cam kết quốc tế, tăng cường hợp tác quốc
tế trong đấu tranh phòng, chống khủng bố.
Abstract:
This article mentions the orgin of the term “terrorism” as well as the assess-
ments of the international community through the international regulations
against the terrorist crimes. The definition of this kind of crime has an im-
portant meaning of supporting an attempt to reach a consensus of opinion on
its threats to the global security. Besides, explanation of the terrorism as a
criminal law term will help all nations, including Viet Nam take on their com-
mitments and enhance their cooperation in terrorism prevention at interna-
tional level.
hiện thân của những đe dọa mang tính toàn
cầu”1. Ngày 9/12/1985, LHQ đã thông qua
Nghị quyết, chính thức khẳng định “rõ
ràng mọi hành vi, phương thức và biểu hiện
của chủ nghĩa khủng bố xảy ra ở bất cứ nơi
đâu và do bất cứ ai thực hiện đều là tội
phạm, bao gồm cả những hành vi gây thiệt
hại cho mối quan hệ ngoại giao giữa các
quốc gia cũng như an ninh quốc gia”2. Xuất
phát từ tính chất nguy hiểm và tính chất
quốc tế của hành vi khủng bố, với vai trò của
mình, LHQ đã kêu gọi cộng đồng quốc tế
cùng nhau chung tay, hợp tác để cùng tạo
nên “phản ứng toàn cầu” đối với tội phạm
khủng bố. Đặc biệt, thông qua các diễn đàn
quốc tế, nhiều giải pháp được cộng đồng
quốc tế đưa ra để đối phó với khủng bố.
Trong số các giải pháp đó thì “pháp luật là
nhân tố cốt lõi trong đấu tranh với khủng
bố”3. Chính vì vậy, các công cụ pháp lý quốc
tế đã được xây dựng. Chính các công cụ
pháp lý này, đặc biệt các điều ước quốc tế
(ĐUQT) chống khủng bố là có giá trị nhất
thể hiện “phản ứng toàn cầu” thông qua sự
buộc tội hành vi khủng bố, thể hiện sự cam
kết của các quốc gia trong việc đấu tranh với
khủng bố. Tuy nhiên, một vấn đề trước hết
đòi hỏi các quốc gia phải thống nhất là xác
định nội hàm khái niệm khủng bố thông qua
việc làm rõ đặc điểm chung của khủng bố,
làm cơ sở cho các quốc gia nội luật hóa,
trong đó bao gồm việc tội phạm hóa các
hành vi khủng bố trong pháp luật quốc gia.
Do vậy, việc tìm hiểu đặc điểm của tội phạm
khủng bố trong pháp luật quốc tế có ý nghĩa
quan trọng.
2. Thuật ngữ “khủng bố” có nguồn
gốc từ chữ La tinh, có nghĩa là “gây ra
hoảng sợ” (to frighten). Nó là một phần của
cụm từ “terror cimbricum” được sử dụng
bởi người La Mã cổ đại vào năm 105 trước
Công nguyên để diễn tả tình trạng lo lắng,
hoảng sợ trong quá trình chống lại những
cuộc tấn công của những bộ lạc hung tợn.
Nhiều năm sau đó, thuật ngữ này gắn liền
với thời kỳ “đẫm máu” của chính quyền
Maximilien Robespierre trong thời kỳ cách
mạng Pháp (1793 - 1794), khi thuật ngữ
“khủng bố” được dùng để chỉ tình trạng
căng thẳng và nỗi lo sợ tột độ mà chính
quyền của Robespierre mang đến cho người
dân Pháp, sau khi Robespierre đã trở thành
nhân vật lãnh đạo chủ chốt của chính quyền
cách mạng Pháp lúc bấy giờ. Và thuật ngữ
“kẻ khủng bố” đã được dùng để chỉ những
người đứng đầu của chính quyền độc tài,
lạm dụng vũ lực để trấn áp.
Về góc độ luật pháp quốc tế, chưa có
một ĐUQT nào lúc bấy giờ đưa ra định nghĩa
trực tiếp về tội phạm khủng bố. Vấn đề
khủng bố được đưa ra bàn luận trong các Hội
nghị quốc tế về Hợp nhất pháp luật hình
sự (International Conferences for Unification
of Criminal Law) diễn ra từ năm 1930 đến
năm 19354. Tại Hội nghị lần thứ 3 ở Brussels
(Bỉ) năm 1930, nội hàm khái niệm khủng bố
23
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1 LHQ (2008), “Các công cụ quốc tế về phòng ngừa và trừng trị khủng bố quốc tế” (International Instruments related
to the Prevention and Suppression of International Terrorism), New York. Xem (bản tiếng Anh) tại:
https://www.unodc.org/documents/terrorism/Publications/Int_Instruments_Prevention_and_Suppression_Int_Terror-
ism/Publication_-_English_-_08-25503_text.pdf, truy cập ngày 20/1/2016.
2 “Nghị quyết của LHQ về khủng bố”, Số A/RES/40/61 được thông qua tại cuộc họp thường niên lần thứ 108 (ngày
9/12/1985), xem nội dung tại: truy cập ngày 20/1/2016.
3 LHQ (2008), “Các công cụ quốc tế về phòng ngừa và trừng trị khủng bố quốc tế”, Lời nói đầu (Preface), tlđd.
4 Bao gồm: Hội nghị lần thứ 3 (Brussels 1930), lần thứ 4 (Paris 1931), lần thứ 5 (Madrid 1933) và lần thứ 6
(Copenhagen 1935).
lần đầu tiên được các quốc gia cùng nhau
thảo luận, theo đó “Biểu hiện của hành vi
khủng bố là việc cố ý sử dụng các công cụ,
phương tiện có thể tạo ra mối nguy hiểm đối
với cuộc sống, sự tự do, thể chất của người
khác, hoặc trực tiếp xâm hại đến tài sản cá
nhân hoặc của nhà nước với mục đích chính
trị hoặc xã hội đều sẽ trị trừng phạt”5. Các
hội nghị của Hội Quốc liên (League of Na-
tions) - tiền thân của tổ chức LHQ - diễn ra
từ năm 1934 đến năm 1937 đã thể hiện
những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế
trong việc tìm kiếm sự thống nhất chung
trong nhận thức về khủng bố với tư cách là
một tội phạm có tính chất quốc tế.
Sau sự kiện một số nhân vật cấp cao
của các quốc gia bị ám sát6, Pháp đã đề nghị
Hội Quốc liên xây dựng ĐUQT về chống
khủng bố. Tại Hội nghị về trừng trị khủng
bố, diễn ra tại trụ sở của Hội Quốc liên ở
Geneva (Thụy sĩ) từ ngày 1 đến ngày
16/10/1937, Công ước đầu tiên về chống
khủng bố - Công ước 1937 về ngăn chặn và
trừng trị khủng bố (Convention for the
Prevention and Punishment of Terrorism -
hay còn gọi là Công ước Giơnevơ 1937)7 -
đã được soạn thảo. Công ước yêu cầu các
quốc gia thành viên tội phạm hóa hành vi
khủng bố và khuyến khích các quốc gia đưa
các hành vi khủng bố ra khỏi nhóm tội phạm
chính trị bị từ chối dẫn độ. Điều ước đã thu
hút sự tham gia thảo luận của nhiều quốc
gia. Tuy nhiên, Công ước đã không thể phát
sinh hiệu lực do những bất đồng về quan
điểm giữa các quốc gia đối với những quy
định liên quan đến dẫn độ, làm ngăn cản tiến
trình phê chuẩn. Thêm vào đó, chiến tranh
thế giới thứ hai nổ ra đã gây cản trở cho việc
ký kết Công ước và tiếp đó là sự tan rã của
Hội Quốc liên, nên Công ước đã không
được các quốc gia thông qua và không thể
phát sinh hiệu lực.
Mặc dù không có hiệu lực nhưng
Công ước Giơnevơ 1937 đã phản ánh nỗ lực
chung của cộng đồng quốc tế trong việc chỉ
rõ các đặc điểm của tội phạm khủng bố,
đồng thời các quốc gia bước đầu đã có sự
thống nhất với nhau về quan điểm cũng như
cách nhìn nhận khủng bố là “tội phạm trực
tiếp chống lại một Nhà nước và cố ý hoặc
toan tính nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ,
lo lắng trong tâm trí con người hoặc một
nhóm người hoặc công chúng” (Điều 1(2)
Công ước 1937). Ngoài ra, Điều 2 Công ước
1937 đã liệt kê ra một số dạng hành vi khủng
bố cụ thể mà các quốc gia thành viên nơi tội
phạm diễn ra phải tội phạm hóa, bao gồm:
“1) Bất cứ hành vi cố ý nào gây thiệt
hại về tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm
trọng về sức khỏe hoặc tự do thân thể;
2/ Cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng
đối với tài sản công cộng hoặc tài sản dùng
cho mục đích công cộng...;
24
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5 Ben Saul (University of Syney - Sydney Law school), “Attempts to define ‘Terrorism’ in International Law” (10/2008),
xem tại:
truy cập ngày 20/1/2016.
6 Vào tháng 10 năm 1934, Vua của Nam Tư thời bấy giờ đã bị ám sát trong chuyến viếng thăm cấp nhà nước đến
Pháp, rồi Ngoại trưởng Pháp (Louis Barthou) cùng hai người khác cũng bị giết Những kẻ tình nghi đã đào tẩu
sang Ý và Pháp yêu cầu Ý dẫn độ những người này sang Pháp để xét xử. Tuy nhiên, Tòa án tối cao (Turin) của Ý
đã từ chối yêu cầu vì cho rằng tội phạm được thực hiện với động cơ, mục đích chính trị, cho nên thuộc trường hợp
từ chối dẫn độ. Chính quan điểm khác nhau giữa các quốc gia về tội phạm chính trị cũng như chưa có sự thống nhất
về tội phạm khủng bố đã thúc đẩy các quốc gia tìm kiếm các các giải pháp chung nhằm đấu tranh có hiệu quả với
loại tội phạm này.
7 League of Nation, “Convention for the Prevention and Punishment of Terrorism”, xem (bản tiếng Anh) tại:
https://www.wdl.org/en/item/11579/, truy cập ngày 20/1/2016.
3/ Hành vi cố ý gây nguy hiểm đến
tính mạng của công chúng;
4/ Bất cứ hành vi chuẩn bị nào (any
attempt) nhằm thực hiện một tội phạm bất
kỳ được nêu tại Điều này;
5/ Hành vi sản xuất, tàng trữ, chiếm
đoạt trái phép hoặc cung cấp vũ khí quân
dụng, chất nổ hoặc các chất nguy hại khác
để thực hiện các tội phạm nêu trên”.
Theo tinh thần của Công ước, mục
đích của tội phạm khủng bố là “nhằm gây ra
tình trạng hoảng sợ, lo lắng trong tâm trí
” chứ không phải vì chính trị hay vì bị ép
buộc. Tuy nhiên, cách quy định như vậy là
chưa thật sự rõ ràng, dễ dẫn đến tranh cãi.
Bởi lẽ, “tình trạng hoảng sợ, lo lắng trong
tâm trí” của người khác thuộc về phạm trù
chủ quan và khó xác định, và vấn đề này lại
không được lý giải trong Công ước. Ngoài
ra, trong Công ước, khi định nghĩa khủng bố
có đề cập đến “hành vi trực tiếp chống lại
một Nhà nước”. Vậy, khủng bố có bao gồm
cả hành vi lật đổ một nhà nước để lập nên
một nhà nước mới với thể chế chính trị mới
hay chỉ là các hành vi chống lại lợi ích của
nhà nước, an ninh và trật tự công cộng? Tuy
nhiên, rào cản lớn nhất đối với việc thông
qua Công ước không phải là những vấn đề
nêu trên, mà là các điều khoản về dẫn độ tội
phạm khủng bố.
Dù ở đâu và thời kỳ nào, khủng bố
luôn xâm phạm quyền con người, quyền tự
do và trật tự pháp luật quốc tế. Khủng bố
luôn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa
bình và an ninh thế giới. Do vậy, để phòng,
chống khủng bố hiệu quả đòi hỏi phải có sự
hợp tác toàn cầu nhằm tạo nên “phản ứng
toàn cầu”. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó,
sau khi ra đời, LHQ tiếp tục đóng vai trò
quan trọng trong việc kết nối các quốc gia
với nhau trong cuộc chiến chống khủng bố.
Ngày 9/12/1985, LHQ đã thông qua Nghị
quyết số A/RES/40/61 và lần đầu tiên chính
thức khẳng định “rõ ràng mọi hành vi,
phương thức và biểu hiện của chủ nghĩa
khủng bố xảy ra ở bất cứ nơi đâu và do bất
cứ ai thực hiện đều là tội phạm, bao gồm cả
những hành vi gây thiệt hại cho mối quan hệ
ngoại giao giữa các quốc gia cũng như an
ninh quốc gia”8. Cùng với việc chính thức
thừa nhận khủng bố là tội phạm, LHQ cũng
đã kêu gọi các quốc gia cùng nhau hợp tác,
xây dựng các công cụ pháp lý quốc tế hữu
hiệu để đấu tranh với tất cả các hình thức,
biểu hiện của khủng bố mà trước hết là việc
xây dựng các ĐUQT chống khủng bố.
Xác định công cụ pháp lý quốc tế là
yếu tố quan trọng để tạo nên “phản ứng
toàn cầu” chống lại khủng bố, các quốc gia
trên thế giới đã cũng nhau ký kết các
ĐUQT thể hiện quyết tâm và thiện chí của
các quốc gia trong việc đấu tranh chống lại
tất cả các dạng hành vi cũng như biểu hiện
của khủng bố.
Hiện nay, trong số 19 ĐUQT đa
phương về chống khủng bố (gồm 12 Công
ước; 7 Nghị định thư quốc tế chống khủng
bố)9 có 16 ĐUQT đã có hiệu lực. Cùng với
các ĐUQT toàn cầu, các điều ước khu vực,
hiệp định song phương, đa phương và một
số nghị quyết của Hội đồng bảo an LHQ10
cũng có ý nghĩa trong cuộc chiến chống
khủng bố.
25
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Nghị quyết của LHQ về khủng bố số A/RES/40/61 được thông qua tại cuộc họp thường niên lần thứ 108
(ngày 9/12/1985), xem nội dung tại: truy cập ngày 20/1/2016.
9 Ban chỉ đạo phòng, chống khủng bố - Bộ Công an, “Các ĐUQT, ASEAN và pháp luật Việt Nam về phòng, chống
khủng bố”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2013.
10 Điển hình như: Nghị quyết số 1267 (năm 1999), Nghị quyết số 1373 (năm 2013) của Hội đồng Bảo an LHQ về
chống khủng bố.
Tuy nhiên, việc chưa thể xây dựng
một ĐUQT chung về chống khủng bố, thể
hiện sự chưa thống nhất trong cộng đồng
quốc tế về chống khủng bố11. Năm 1998, các
vụ khủng bố vào đại sứ quán của Mỹ ở
Kenya và Tanzania đã khiến khủng bố lại trở
thành vấn đề quan ngại của nhiều quốc gia.
Trước tình hình đó, năm 2000, Ấn Độ đã đệ
trình lên Ủy ban đặc biệt của LHQ Dự thảo
Công ước chung về chống khủng bố và tiếp
đó, nhiều buổi thảo luận giữa các quốc gia
về chống khủng bố đã diễn ra. Sự kiện tấn
công khủng bố vào Trung tâm Thương mại
thế giới (ITC) ở New York và Lầu năm góc
- Trụ sở Bộ Quốc phòng Mỹ ngày 11/9/2001
càng làm thúc đẩy tiến trình thảo luận. Đến
năm 2002, các quốc gia đã thống nhất với
hầu hết 27 điều trong Dự thảo12. Các quốc
gia trên thế giới “gần như” đã thống nhất
những đặc điểm pháp lý chung về tội phạm
khủng bố. Cụ thể, tại Điều 2 (1) của Dự thảo
quy định, tội phạm khủng bố là “hành vi cố
ý bất hợp pháp gây thương vong hoặc gây
tổn hại nghiêm trọng về thân thể cho người
khác; gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản
cá nhân hoặc tài sản công cộng; hoặc hủy
hoại tài sản, nơi, các thiết bị hoặc hệ
thống tất yếu dẫn đến hoặc có thể dẫn đến
thiệt hại lớn về kinh tế”. Mục đích của tội
phạm, “về bản chất hoặc bối cảnh xảy ra”
(by its nature or context) là nhằm “hăm dọa
dân chúng hoặc ép buộc một chính phủ hoặc
một tổ chức quốc tế phải thực hiện hoặc
không thực hiện bất kỳ hành vi nào” mà
không đòi hỏi thêm mục đích về chính trị,
tôn giáo hay hệ tư tưởng. Tuy nhiên, do vẫn
còn một số vấn đề trong Dự thảo Công ước
vấp phải sự tranh luận gay gắt nên chưa đi
đến sự thống nhất cuối cùng. Cụ thể là13:
Thứ nhất, các hoạt động bạo lực do
các tổ chức, đảng phái thực hiện trong các
cuộc xung đột vũ trang có được loại trừ khỏi
phạm vi Công ước giống như các hoạt động
bạo lực được thực hiện bởi lực lượng vũ
trang của một quốc gia hay không? Nếu như
được loại trừ thì khi đó, hoạt động bạo lực
được tiến hành bởi thành viên các nhóm vũ
trang phi chính phủ (organized non-state)
của các tổ chức như: PLO, Hamas, Islamic
Jihad và Hezbollah sẽ không được xem là
khủng bố. Theo tinh thần Dự thảo của Công
ước thì hành vi khủng bố sẽ không bao gồm
hoạt động bạo lực được thực hiện (bởi bất
kỳ ai) trong phong trào đấu tranh đòi tự do.
Thứ hai, hành vi khủng bố có bao hàm
các trường hợp xung đột diễn ra ở vùng
chiếm đóng của các quốc gia nước ngoài
hay không? Vấn đề này khó đạt được sự
thống nhất giữa các quốc gia vì yếu tố chính
trị, nhất là khi xem xét hoạt động của các
nhóm vũ trang chống lại Nhà nước Israel ở
vùng lãnh thổ chiếm đóng của người
Palestine, hay hoạt động vũ trang chống lại
Ấn Độ ở vùng Kashmir. Vì thế, sự bất đồng
giữa các quốc gia trong việc xác định đặc
điểm pháp lý và đưa ra định nghĩa khủng bố
chủ yếu do lợi ích chính trị của các quốc gia
chứ không phải là vướng mắc về pháp lý,
bởi lẽ “một phần tử khủng bố đối với người
này lại là người đấu tranh vì tự do cho người
26
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11 Văn phòng LHQ về Ma tuý và Tội phạm (UNODC), “Hướng dẫn toàn cầu về việc hợp tác pháp luật và thực thi các
ĐUQT chống khủng bố” (2006), New York, Mỹ (đoạn 244); Xem (bản tiếng Anh) tại: https://www.unodc.org/
documents/terrorism/Publications/Guide_Legislative_Incorporation_Implementation/English.pdf, truy cập ngày
20/1/2016.
12 Xem nội dung Dự thảo trên https://www.ilsa.org/jessup/jessup08/basicmats/unterrorism.pdf, truy cập ngày 20/1/2016.
13 UNGA (57th Session) (6th Committee), Measures to Eliminate Intl Terrorism: Working Group Report, 16 October
2002, A/C.6/57/L.9, annex II, trang 7-8. Xem (bản tiếng Anh) tại https://documents-dds-
ny.un.org/doc/UNDOC/LTD/N02/643/89/PDF/N0264389.pdf?OpenElement, truy cập ngày 20/1/2016.
khác” (one man’s terrorist is another man’s
freedom fighter)14.
Thứ ba, các quốc gia chưa đi đến thống
nhất quan niệm: các hoạt động quân sự thực
hiện bởi lực lượng quân đội của một quốc gia
trong quá trình diễn tập hay thực hiện nhiệm
vụ chính thức (vào thời điểm có chiến tranh
hay hòa bình) có thuộc phạm vi điều chỉnh
của Công ước hay chỉ được điều chỉnh bởi
các nguyên tắc của luật pháp quốc tế?
Việc không đạt được sự thống nhất
chung nêu trên phần nào gây ra sự khó khăn
trong việc hợp tác quốc tế để đấu tranh chống
khủng bố. Chẳng hạn, sự khác nhau giữa các
quốc gia trong quan niệm về khủng bố hay
trong việc đưa ra định nghĩa khủng bố trong
pháp luật hình sự quốc gia có thể tạo ra những
khó khăn trong việc đảm bảo yêu cầu “tội
phạm kép” hay những yêu cầu khác về thủ
tục tố tụng trong dẫn độ tội phạm.
Cho dù các quốc gia trên thế giới chưa
đi đến một điều ước chung về chống khủng
bố với định nghĩa và đặc điểm chung về tội
phạm khủng bố, nhưng những nỗ lực của
cộng đồng quốc tế đã phát đi một thông điệp
rõ ràng rằng, chủ nghĩa khủng bố chưa bao
giờ và sẽ không bao giờ là một hành động
được chấp nhận trên toàn cầu. Và cũng
chính trong các nỗ lực chung đó của cộng
đồng quốc tế, 19 ĐUQT quy định các hành
vi khủng bố cụ thể ở các lĩnh vực khác nhau
đã ra đời. Các ĐUQT này thể hiện sự đoàn
kết, sự quyết tâm của cả cộng đồng quốc tế
trong việc phòng ngừa và đấu tranh với các
hoạt động khủng bố diễn ra trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
3. Như vậy, qua việc làm rõ nguồn gốc
ra đời của khủng bố, tìm hiểu những nỗ lực
của cộng đồng quốc tế trong việc xây dựng
một điều ước chung về chống khủng bố,
chúng ta thấy rằng, một số đặc điểm chung
về tội phạm khủng bố đã được cộng đồng
quốc tế thống nhất bước đầu với nhau. Có
thể tóm tắt những cơ sở pháp lý quốc tế quan
trọng giúp xác định các đặc điểm chung của
tội phạm khủng bố như sau:
Thứ nhất, tất cả các hành vi được điều
chỉnh bởi các ĐUQT chống khủng bố là
hành động khủng bố (quốc tế) và là tội phạm
theo pháp luật quốc tế. Các tội phạm khủng
bố có đặc điểm chung là luôn mang tính chất
bạo lực đối với dân chúng.
Thứ hai, khủng bố bao gồm nhiều
hành vi cụ thể chống lại dân thường như gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt về tính mạng
người dân, gây thiệt hại nghiêm trọng về sức
khỏe, hay bắt cóc con tin hay các hành vi
gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản.
Thứ ba, tội phạm khủng bố luôn được
thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp
với các mục đích:
- Nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ
trong công chúng hoặc nhóm người hoặc
một người nào đó, hoặc
- Nhằm đe dọa hay ép buộc người
khác, chính phủ hay tổ chức quốc tế làm hay
không làm một việc nào đó.
Động cơ phạm tội khủng bố rất đa
dạng (có thể liên quan đến chính trị, kinh tế,
tôn giáo hay hệ tư tưởng...) nhưng đây
không phải là dấu hiệu bắt buộc.
Tìm hiểu đặc điểm chung của tội
phạm khủng bố nêu trên sẽ tạo ra sự thống
nhất về nhận thức trong cộng đồng quốc tế
đối với tội phạm khủng bố, góp phần củng
cố “khung pháp lý quốc tế chung” chống
khủng bố và là cơ sở cho các quốc gia nội
luật hóa quy định trong các điều ước quốc
tế về loại tội phạm này n
27
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 LHQ (UN), A More Secure World: Our Shared Responsibility: Report of the High-level Panel on Threats, Challenges
and Change,” UN Doc. A/59/565, December 2, 2004. Xem (bản tiếng Anh) tại
/atf/cf/%7B65BFCF9B-6D27-4E9C-8CD3-CF6E4FF96FF9%7D/ CPR%20A%2059%20565.pd, truy cập ngày
20/01/2016 và 12/09/2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- toi_pham_khung_bo_trong_phap_luat_quoc_te.pdf