Cũng tại quy định này, “giá trị hoàn lại”
được đề cập nhưng chưa có quy định giải thích
và hướng dẫn thực hiện. Trên thực tiễn, giá trị
hoàn lại thường chỉ quy định trong Bộ quy tắc
và Điều khoản của DNBH, điều này gây ra
không ít bối rối cho BMBH. Cụ thể: “trường
hợp của chị H (Nha Trang) hoàn toàn bất ngờ
khi nhận được một số tiền hoàn lại là 1,3 triệu
đồng khi chị đề nghị chấm dứt hợp đồng trong
khi tổng số phí chị đóng trong 21 tháng qua là
3,5 triệu đồng” [20, 85]. Giá trị hoàn lại trong
trường hợp này nhỏ rất nhiều so với số tiền phí
bảo hiểm mà chị đã đóng. Như vậy, để thống
nhất cũng như có cơ sở để BMBH có thể dựa
vào đó có thể xác định được giá trị hoàn lại,
mặc khác vừa để đảm bảo quyền lợi của
BMBH, tránh trường hợp DNBH quy định bất
lợi cho BMBH.
Tóm lại, qua thực tiễn hoạt động bảo hiểm
ở Việt Nam, các vụ tranh chấp liên quan đến
việc cung cấp thông tin của các bên trong quan
hệ bảo hiểm ngày càng gia tăng đáng kể. Việc
tìm hiểu bản chất bất cân xứng thông tin trong
quan hệ tiền hợp đồng bảo hiểm và các quy
định pháp luật về trách nhiệm cung cấp
thông tin, đồng thời chỉ ra các khiếm
khuyết của luật viết và nhu cầu hoàn thiện
các quy định này là những việc cần thiết và
quan trọng. Những nội dung nghiên cứu
trong bài viết mong muốn góp phần cung
cấp cơ sở lý luận, định hướng hoàn thiện
quy định pháp luật có liên quan, và cung
cấp giải pháp pháp lý cho việc giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn
hoạt động bảo hiểm liên quan đến trách
nhiệm cung cấp thông tin.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 341 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trách nhiệm cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm giai đoạn tiền hợp đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 74-84
74
Review Article
Duty to Provide Information in Insurance Contracts
in the Pre-Contractual Period
Bach Thi Nha Nam*
University of Economics and Law, Ho Chi Minh City National University,
Quarter 3, Linh Xuan Ward, Thu Duc District, Ho Chi Minh City
Received 24 June 2020
Revised 06 September 2020; Accepted 26 September 2020
Abstract: The obligation to provide information in insurance contracts in the pre-contractual
period is one of the fundamental factors to form an insurance contract. Before participating in
insurance contract, the insurers mainly rely on the information provided by the prospective
policyholder, to assess risks on the information provided, then decide whether or not to engage in
an insurance contract. Concurrently, the responsibility to provide information on the pre-
contractual period is not only set for the prospective policyholders, but also for the insurers in
explaining the terms and the standard clauses of the insurance contract. In the article, the author
analyzes the asymmetric information in insurance business and its interaction with the goodfaith
principle, and presents the drawbacks of the current legal framework relating to duty to provide
information in the insurance disputes in Vietnam.
Keywords: Insurance, obligation, good faith, information.
D*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: nambtn@uel.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4303
N.D. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 2 (2019) 74-84
75
Trách nhiệm cung cấp thông tin
trong hợp đồng bảo hiểm giai đoạn tiền hợp đồng
Bạch Thị Nhã Nam*
Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Khu phố 3, Phường Linh Xuân, Quận Thủ Đức, Thành phố. Hồ Chí Minh
Nhận ngày 24 tháng 6 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 06 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 26 tháng 9 năm 2020
Tóm tắt: Trách nhiệm cung cấp thông tin trong giai đoạn hợp đồng bảo hiểm là một trong những
yếu tố nền tảng để hình thành việc giao kết hợp đồng bảo hiểm. Trước khi tham gia bảo hiểm,
doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) chủ yếu dựa vào những thông tin được cung cấp bởi bên dự định
mua bảo hiểm, để đánh giá những rủi ro trên những thông tin được cung cấp, DNBH đi đến việc có
thực hiện việc giao kết HĐBH hay không. Đồng thời, trách nhiệm cung cấp thông tin giai đoạn
tiền hợp đồng không chỉ đặt ra đối với bên dự định mua bảo hiểm mà còn đối với DNBH trong
việc giải thích các nội dung điều khoản của hợp đồng bảo hiểm đối với bên dự định mua bảo hiểm.
Trong bài viết tác giả phân tích tính bất cân xứng thông tin trong quan hệ bảo hiểm và mối quan hệ
với nguyên tắc trung thực, thiện chí, các quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm cung cấp
thông tin trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm và chỉ ra các
bất cập của việc áp dụng quy định này trong thực tiễn tranh chấp bảo hiểm ở Việt Nam..
Từ khóa: Bảo hiểm, trách nhiệm, thiện chí, thông tin.
1. Tính bất cân xứng về thông tin và mối
quan hệ với nguyên tắc trung thực, thiện chí*
Hợp đồng nói chung, và hợp đồng bảo hiểm
(HĐBH) nói riêng là sự thống nhất ý chí. Trong
giai đoạn tiền hợp đồng trước khi tiến hành giao
kết, thông tin có một vai trò rất quan trọng giúp
cho các bên hiểu rõ hơn về những gì mỗi bên
mong muốn khi giao kết hợp đồng. Trong quá
trình đàm phán HĐBH, cụ thể doanh nghiệp
bảo hiểm (DNBH) cần bên mua bảo hiểm
(BMBH) cung cấp các thông tin về đối tượng
được bảo hiểm, để từ đó đánh giá, phân tích và
đi đến kết luận có chấp nhận bảo hiểm hay
không. Ngược lại, BMBH cần những thông tin
về HĐBH để hiểu rõ hơn về các điều khoản
trong HĐBH, quyền và nghĩa vụ của mình,
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: nambtn@uel.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4303
cách xử lý khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra hoặc
những thông tin nào mà DNBH cần BMBH
cung cấp.
Hợp đồng bảo hiểm là quan hệ chia sẻ rủi
ro. Do đó, những hiểu biết về rủi ro là căn cứ
chủ yếu để các bên cân nhắc, tính toán lợi ích,
thỏa thuận và thể hiện ý chí của mình về việc có
tham gia hay không tham gia hợp đồng, hoặc
nếu tham gia thì ở mức độ, điều kiện như thế
nào: mức phí bảo hiểm ra sao và các điều kiện
bảo hiểm cụ thể là gì. Tính chất không rõ ràng
của rủi ro tiềm ẩn một nguy cơ mà làm các bên
dễ có cách hiểu khác nhau.
Khi hoạt động bảo hiểm trở nên ngày càng
phổ biến, trong việc giao kết hợp đồng bảo
hiểm, người ta đã ngày càng nhận ra rằng, quan
hệ bảo hiểm mang một đặc thù là DNBH và
BMBH không nắm giữ thông tin như nhau đối
với những thông tin liên quan đến đối tượng
được bảo hiểm, cần được đánh giá, dự đoán rủi
ro. Việc thông tin bất cân xứng này, dẫn đến hệ
B.T.N. Nam / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 74-84
76
quả bên mạnh thế, bên yếu thế trong hợp đồng
bảo hiểm. Rủi ro là điểm nút của quan hệ bảo
hiểm, vì vậy, những hiểu biết khác nhau về rủi
ro tiếp đến tự nó sẽ ngăn cản thống nhất ý chí
của các bên. Trong khi đó, nguyên tắc tự do ý
chí - nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất chi phối
mọi loại hình quan hệ hợp đồng bao gồm cả
quan hệ bảo hiểm - lại đòi hỏi hợp đồng phải là
sự thống nhất ý chí thật của các bên tham gia.
Như vậy, giữa tồn tại đặc thù của quan hệ bảo
hiểm và nguyên tắc tự do ý chí phát sinh mâu
thuẫn trái ngược nhau. Nhận thức về mâu thuẫn
này, luật pháp các nước, nhằm đảm bảo sự tồn
tại và vận hành thông suốt của nguyên tắc tự do
ý chí, đã đưa ra giải pháp là phải lập lại trật tự
nắm giữ lượng thông tin nhằm giúp cho sự bất
cân xứng thông tin trở nên cân bằng hơn [1].
Đây cũng chính là cơ sở cho việc áp đặt, hình
thành một nghĩa vụ mà theo đó BMBH, trong mọi
khả năng có thể của mình, phải cung cấp cho
BMBH một cách đầy đủ và trung thực nhất những
thông tin liên quan phục vụ việc dự đoán, đánh
giá rủi ro trong giai đoạn tiền hợp đồng. Nghĩa vụ
này được gọi là nghĩa vụ thiện chí, trung thực
trong việc giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Khoảng thời gian trước khi hợp đồng được
xác lập được xem giai đoạn “tiền hợp đồng” và
mục đích của giai đoạn tiền hợp đồng nhằm
giúp các bên trao đổi các thông tin cơ bản và
cần thiết về nội dung, đối tượng, mục đích của
việc giao kết hợp đồng, xem xét khả năng giao
kết hợp đồng, thương lượng những điều khoản
nhất định và tạo những điều kiện cần thiết cho
việc giao kết [2]. Nguyên tắc thiện chí, trung
thực đã được pháp luật các nước đề cập đến
trong giai đoạn tiền hợp đồng trong mối quan
hệ thương lượng hợp đồng giữa các bên, liên
quan đến việc trao đổi và cung cấp thông tin cơ
bản cho nhau. Ngoài ra, nguyên tắc trung thực,
thiện chí còn được áp dụng trải dài không chỉ
trong suốt quá trình từ đàm phán, giao kết, mà
còn trong quá trình thực hiện hay thay đổi,
chấm dứt hợp đồng [3, 109].
Ở Việt Nam, nguyên tắc trung thực, thiện
chí không được ghi nhận trong Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế năm 1989 và Pháp lệnh hợp đồng
dân sự năm 1991. Đến Bộ luật Dân sự (BLDS)
1995, nguyên tắc “thiện chí, trung thực” đã
chính thức được ghi nhận tại Điều 9 theo đó
“trong hệ dân sự, các bên phải thiện chí, trung
thực, không chỉ quan tâm, chăm lo đến quyền
lợi ích hợp pháp của mình mà còn phải tôn
trọng, quan tâm đến lợi ích của Nhà nước, lợi
ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, không bên
nào được lừa dối bên nào; nếu một bên cho
rằng bên kia không trung thực, thì phải có
chứng cứ”. BLDS 2005 cụ thể hóa bằng việc
đưa ra nguyên tắc này trong trường hợp khi cá
nhân, pháp nhân tham gia giao dịch dân sự [4].
Theo BLDS 2005, quy định về nguyên tắc thiện
chí, trung thực như sau: “Trong quan hệ dân
sự, các bên phải thiện chí, trung thực trong việc
xác lập, thực hiện quyền, trách nhiệm dân sự,
không bên nào được lừa dối bên nào.” [5, Điều
6]. Ở BLDS 2005, phạm vi điều chỉnh của
nguyên tắc này được thể hiện cụ thể hơn, đó là
việc các bên phải thiện chí, trung thực trong
việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự,
qua đó có thể thấy rằng với quy định này,
nguyên tắc thiện chí, trung thực không chỉ áp
dụng trong việc thực hiện mà còn trong cả việc
xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự. Trên cơ sở kế
thừa nguyên tắc này trong BLDS 2005, trong
BLDS 2015 cũng quy định các cá nhân, pháp
nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ của mình một cách thiện chí, trung
thực [6, khoản 3, Điều 3].
Xét về nội hàm từ ngữ trong Tiếng Việt,
thiện chí là ý định, suy nghĩ tốt và luôn thực
lòng mong muốn đi đến kết quả tốt khi giải
quyết việc gì [7]. BLDS 1995 còn chỉ rõ “thiện
chí không chỉ quan tâm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của mình mà còn phải tôn trọng, quan tâm
đến lợi ích hợp pháp của người khác” tại Điều
9. Còn trung thực là ngay thẳng thật thà, không
làm cho sự việc sai khác đi so với bản chất. Nội
dung cơ bản của nguyên tắc này trong giai đoạn
tiền hợp đồng yêu cầu các bên phải tự nguyện
cung cấp cho nhau những thông tin đầy đủ,
trung thực liên quan đến việc giao kết, đàm
phán hợp đồng [8, 48.]
Trên thực tế, việc một bên nắm rõ thông tin
về đối tượng được bảo hiểm hơn bên còn lại là
B.T.N. Nam / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 74-84
77
vấn đề phổ biến. BMBH, người nắm rõ nhất về
tình hình của đối tượng được bảo hiểm và tiếp
cận thông tin về rủi ro sẽ nhiều hơn so với bên
DNBH. DNBH là bên biết rất ít thông tin về đối
tượng được bảo hiểm thậm chí là không có
thông tin nào về đối tượng được bảo hiểm hoặc
rủi ro có thể xảy ra đối với đối tượng được bảo
hiểm. Tuy nhiên, để DNBH quyết định được
mức bảo hiểm phí là bao nhiêu, hoặc quyết định
có bảo hiểm hay không, thì DNBH lại cần có
đầy đủ thông tin để đánh giá, dự đoán đúng về
rủi ro. Tùy theo mức độ của rủi ro mà DNBH sẽ
đưa ra mức phí bảo hiểm cao hay thấp hoặc
thậm chí không nhận bảo hiểm.
Cho nên sự nắm giữ thông tin một phía của
BMBH đẩy DNBH vào một trong hai tình
huống: nếu muốn đưa ra một quyết định bảo
hiểm hợp lý và đảm bảo lợi ích chính đáng của
mình, hoặc thứ nhất, DNBH phải tự mình điều
tra thông tin và gánh chịu những phí tổn cho
công việc điều tra cũng như chấp nhận việc
điều tra có thể không hoàn toàn chính xác và
đầy đủ, hoặc thứ hai, DNBH phải chịu sự lệ
thuộc vào chia sẻ thông tin từ phía BMBH,
đồng thời cũng sẽ chịu luôn nguy cơ người mua
bảo hiểm không cung cấp đủ các thông tin, từ
đó người bảo hiểm sẽ đánh giá thấp rủi ro và
đưa ra mức bảo hiểm phí thấp tương ứng hoặc
thậm chí nhận bảo hiểm vượt quá khả năng của
mình [9, 55]. Cả hai tình huống trên đều gây bất
lợi cho phía DNBH. Do đó, nếu không có một
sự ràng buộc cụ thể về nghĩa vụ cung cấp thông
tin, thì vấn đề mỗi bên tự nguyện cung cấp đầy
đủ thông tin cho bên còn lại sẽ khó mà thực
hiện tốt. Rõ ràng, trong lĩnh vực bảo hiểm,
BMBH có xu hướng che giấu những thông tin
có thể ảnh hưởng đến việc xác định phí bảo
hiểm, hay việc trả tiền bảo hiểm của DNBH,
nên trong một số trường hợp nếu như không áp
đặt một nghĩa vụ thì sẽ ảnh hưởng đến sự công
bằng trong HĐBH.
Mặc dù việc thông tin bất cân xứng trong
quan hệ bảo hiểm thường nghiêng về BMBH,
nhưng trên thực tiễn có những thông tin mà
DNBH không cung cấp, không giải thích những
nội dung, điều khoản trong HĐBH cho BMBH.
Do vậy, nếu như nghĩa vụ trung thực, thiện chí
được áp đặt lên mỗi BMBH thì ngược lại,
DNBH cũng có nghĩa vụ tương ứng trong giai
đoạn tiền hợp đồng.
Nghĩa vụ trung thực, thiện chí trong bảo
hiểm lần đầu tiên được đề cập trong một án lệ
về bảo hiểm ở Anh trong vụ Carter và Boehm
vào năm 1766 [10]. Trong vụ án này thẩm phán
Lord Manfield đã đưa ra phán quyết rằng: “Bảo
hiểm là một hợp đồng dựa trên sự suy đoán,
thiện chí. Cấm các bên che giấu những gì mà
biết, nhằm làm cho bên còn lại hiểu sai về thực
tế.” Hiện nay, nội dung cơ bản của nguyên tắc
trung thực thiện chí ở các nước đều yêu cầu các
bên khi giao kết hợp đồng bảo hiểm phải cung
cấp cho nhau một cách tự nguyện, đầy đủ và
trung thực đối với những thông tin giúp đánh
giá, dự đoán rủi ro. Đạo luật bảo hiểm hàng hải
của Anh 1906 quy định về nguyên tắc trung
thực, thiện chí như sau: “Người mua bảo hiểm
phải tiết lộ cho người bảo hiểm mọi thông tin
quan trọng được biết đến bởi người mua bảo
hiểm, và người mua bảo hiểm được coi là biết
đến mọi thông tin nếu trong quá trình hoạt
động kinh doanh bình thường của mình, anh ta
phải biết về thông tin đó, mọi thông tin được coi
là quan trọng nếu nó ảnh hưởng tới đánh giá
của một người bảo hiểm khôn ngoan trong việc
định mức bảo hiểm phí, hoặc quyết định liệu có
chấp nhận rủi ro hay không” [11].
Đối với nghĩa vụ trung thực, thiện chí của
DNBH trong việc cung cấp thông tin cho
BMBH, Luật bảo hiểm của Pháp quy định nội
dung cụ thể: “người bảo hiểm phải tiết lộ chính
xác, thời điểm hợp đồng được hình thành, tất cả
các trường hợp trong kiến thức của mình có thể
ảnh hưởng tới nhận thức của người mua bảo
hiểm về rủi ro” [12, Điều 172].
2. Trách nhiệm cung cấp thông tin trong
pháp luật bảo hiểm Việt Nam
Trách nhiệm cung cấp thông tin trong kinh
doanh bảo hiểm được du nhập vào Việt Nam và
được ghi nhận lần đầu tiên trong hệ thống pháp
luật bảo hiểm của Việt Nam vào năm 1990 tại
Điều 204, 207 của Bộ luật Hàng hải 1990. Tuy
nhiên, nghĩa vụ này chỉ được áp dụng riêng cho
quan hệ bảo hiểm hàng hải. Do các hoạt động
B.T.N. Nam / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 74-84
78
hàng hải mang tính quốc tế cao, cho nên, từ
việc đã nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều nước
trên thế giới, các nhà soạn thảo Bộ luật Hàng
hải đã đưa những nội dung của Bộ luật hòa
nhập và thống nhất với các nước trên thế giới
[13]. Cụ thể theo Điều 204 của Bộ luật Hàng
hải quy định: “Người được bảo hiểm có nghĩa
vụ cung cấp cho người bảo hiểm biết tất cả các
thông tin mà mình biết hoặc cần thiết phải
biết liên quan đến việc ký kết hợp đồng bảo
hiểm, có thể ảnh hưởng đến việc xác định khả
năng xảy ra hiểm họa hoặc quyết định của
người bảo hiểm về việc nhận bảo hiểm và các
điều kiện bảo hiểm, trừ loại thông tin mà mọi
người đều biết hoặc người bảo hiểm đã biết
hoặc cần phải biết”.
Đến BLDS 1995, hoạt động bảo hiểm nói
chung được đề cập trong BLDS và quy định về
trách nhiệm cung cấp thông tin được quy định
một cách chung nhất tại Điều 577, áp dụng cho
mọi loại hình bảo hiểm, bao gồm cả bảo hiểm
hàng hải. Tuy nhiên, BLDS lại được xây dựng
theo hướng hoàn toàn khác biệt với quy định tại
BLHH. Điểm khác biệt lớn nhất là ở tính tự
nguyện và tính đầy đủ của trách nhiệm. Nếu
như trách nhiệm theo BLHH xác định người
mua bảo hiểm phải tự nguyện cung cấp mọi
thông tin liên quan mà mình biết cho DNBH thì
theo BLDS 1995, BMBH chỉ cần thụ động cung
cấp các thông tin mà DNBH yêu cầu: “theo yêu
cầu của bên bảo hiểm, BMBH phải cung cấp
cho DNBH đầy đủ các thông tin có liên quan
đến đối tượng bảo hiểm, trừ các thông tin mà
bên bảo hiểm đã biết hoặc phải biết”.
Vào những năm 1999, hoạt động của thị
trường bảo hiểm Việt Nam đã có phần sôi động
hơn so với nhiều năm trước, đặc biệt là đã có sự
tham gia của các DNBH nhân thọ lớn trên thế
giới như AIA, Prudential, Manulife. Sự tham
gia thị trường bảo hiểm Việt Nam của các
DNBH giàu kinh nghiệm mang vào Việt Nam
những hợp đồng mẫu, trong đó làm rõ trình tự,
thủ tục để các bên xem xét ký kết HĐBH. Vấn
đề trách nhiệm cung cấp thông tin trở thành một
nghĩa vụ ràng buộc của bên dự định tham gia
bảo hiểm, và cần thiết được pháp luật quan tâm
đúng mức. Chính vì vậy, Luật Kinh doanh bảo
hiểm (KDBH) ra đời năm 2000 và được sửa đổi
bổ sung vào năm 2010, và năm 2019 đã quy
định mới và chi tiết hơn về trách nhiệm cung
cấp thông tin tại các Điều 17, 18, 19. Cụ thể, tại
điểm b, khoản 2, Điều 18 Luật KDBH có nội
dung gần tương tự với khoản 1, Điều 577
BLDS 1995, quy định về việc cung cấp theo
yêu cầu của DNBH. Trong khi đó, tại khoản 1,
Điều 19 Luật KDBH quy định về một phạm vi
trách nhiệm gần như không có giới hạn của
người mua bảo hiểm “BMBH có trách nhiệm
cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối
tượng bảo hiểm cho DNBH”. BLDS 2005 ra đời
thay thế cho BLDS 1995, trong đó tại khoản 1,
Điều 573 BLDS 2005, trách nhiệm cung cấp
thông tin cũng được đề cập đến, cụ thể: “Khi
giao kết hợp đồng bảo hiểm, theo yêu cầu của
bên mua bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải
cung cấp cho bên bảo hiểm đầy đủ thông tin có
liên quan đến đối tượng bảo hiểm, trừ thông tin
mà bên bảo hiểm đã biết hoặc phải biết”. Quy
định này liên quan đến nghĩa vụ tiền hợp đồng,
tuy nhiên quy định này mới chỉ áp đặt nghĩa vụ
thông tin cho BMBH trong khi chưa quy định
về nghĩa vụ tương ứng của DNBH, đồng thời
việc quy định loại trừ “thông tin mà bên bảo
hiểm đã biết hoặc phải biết” có phần gây lúng
túng cho DNBH. Tiếp đến, BLDS 2015 đã bỏ
đi các quy định chuyên biệt về HĐBH, gồm cả
trách nhiệm cung cấp thông tin, vì Luật kinh
doanh bảo hiểm (KDBH) 2000, sau đó được
sửa đổi bổ sung 2010, và 2019 đã được xem là
luật chuyên ngành, điều chỉnh riêng biệt quan
hệ pháp luật bảo hiểm, trong đó nghĩa vụ cung
cấp thông tin của các bên đã được quy định cụ
thể tại các Điều 17, 18, 19 nói trên.
Đối với lĩnh vực bảo hiểm hàng hải, Bộ luật
Hàng hải 2005 (tại Khoản 1, Điều 229) và sau
đấy là Bộ luật Hàng hải 2015 (khoản 1, Điều
308) hiện có hiệu lực, tiếp tục giữ quan điểm về
nghĩa vụ của BMBH phải cung cấp thông tin
biết hoặc phải biết của BMBH cho DNBH. Cụ
thể Bộ luật Hàng hải 2015 quy định: “Người
được bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho người
bảo hiểm biết tất cả thông tin mà mình biết
hoặc phải biết liên quan đến việc giao kết hợp
đồng bảo hiểm có thể ảnh hưởng đến việc xác
định khả năng xảy ra rủi ro hoặc quyết định
của người bảo hiểm về việc nhận bảo hiểm và
B.T.N. Nam / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 74-84
79
các điều kiện bảo hiểm, trừ thông tin mà mọi
người biết hoặc người bảo hiểm đã biết hoặc
phải biết.” [14, khoản 1, Điều 308].
Nhận định có sự khác nhau trong quy định
về trách nhiệm cung cấp thông tin của BMBH
cho DNBH trong hai văn bản pháp luật về
KDBH và bảo hiểm hàng hải, tác giả lý giải cho
việc luật định khác nhau này dựa trên cơ sở
phân loại bảo hiểm và mức độ áp đặt nghĩa vụ
tương ứng với từng loại hình. Theo đó, các
nước có xu hướng phân thành hai loại hình sản
phẩm bảo hiểm: loại hình sản phẩm bảo hiểm
mang tính kinh doanh (tức người mua bảo hiểm
cho các đối tượng bảo hiểm phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh như bảo hiểm hàng
hải, hay bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp), và
loại thứ hai là các sản phẩm bảo hiểm cho mục
đích tiêu dùng cá nhân (như bảo hiểm nhân thọ,
bảo hiểm vật chất cho các tài sản cá nhân).
Đối với loại hình bảo hiểm kinh doanh, không
ai khác ngoài BMBH nắm rõ được các thông tin
và rủi ro về đối tượng được bảo hiểm trong quá
trình hoạt động thông thường, nên gánh nặng về
việc cung cấp thông tin đặt lên phía BMBH,
chứ không phải DNBH. Trong khi đó đối với
các sản phẩm bảo hiểm mang tính tiêu dùng,
BMBH không được xem là bên hoàn toàn nắm
giữ các thông tin về đối tượng được bảo hiểm,
và những rủi ro có thể xảy ra đối với đối tượng
được bảo hiểm, khi làm phép so sánh với
DNBH, một đơn vị hoạt động chuyên nghiệp,
có khối lượng dữ liệu lớn liên quan đến sản
phẩm bảo hiểm dự kiến tiến hành, có kinh
nghiệm trong việc đánh giá rủi ro đối với loại
sản phẩm bảo hiểm này sẽ có thể tính toán và
đo lường mức độ, tần suất rủi ro và đánh giá các
loại thông tin nào cần thiết phải được cung cấp
bởi BMBH. Tất nhiên, vấn đề này cần được các
nhà làm luật lưu tâm và đưa ra các quy định minh
bạch hơn về phạm vi áp dụng đối với nghĩa vụ
cung cấp thông tin trong các sản phẩm bảo hiểm
khác nhau trong tương lai ở Việt Nam.
3. Bình luận trách nhiệm cung cấp thông tin
trong thực tiễn tranh chấp bảo hiểm ở Việt Nam
Đối tượng và phạm vi thông tin phải cung cấp
Theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 18
Luật KDBH hiện hành, quy định về thông tin
mà BMBH có nghĩa vụ cung cấp cho DNBH,
theo đó, BMBH có nghĩa vụ kê khai đầu đủ,
trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp
đồng bảo hiểm theo yêu cầu của DNBH. Sở dĩ,
pháp luật quy định BMBH phải cung cấp thông
tin theo yêu cầu của DNBH như trên là xuất
phát từ đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo
hiểm là hoạt động yêu cầu chủ thể kinh doanh
phải có sự am hiểu nhất định về lĩnh vực bảo
hiểm, sản phẩm bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm
[15, 134].
Nếu BMBH không có những hiểu biết nhất
định về đối tượng yêu cầu bảo hiểm thì DNBH
không thể nhận biết được các rủi ro có thể xảy
ra với đối tượng được bảo hiểm và nhận sự
hoán chuyển rủi ro từ BMBH, để đảm bảo bồi
thường tổn thất khi những rủi ro xảy ra. Trên
thực tế, việc cung cấp thông tin của BMBH
thường thông qua giấy/đơn yêu cầu bảo hiểm.
Ví dụ thông tin quan trọng và đáng chú ý trong
đơn yêu cầu bảo hiểm nhân thọ là tình trạng sức
khỏe của người được bảo hiểm, bởi vì đây là
những thông tin mà dựa vào đó DNBH đánh giá
để đưa ra kết luận có chấp nhận bảo hiểm hay
không và cơ sở tính phí bảo hiểm. Các tranh
chấp trên thực tế đa phần xuất phát từ thông tin
liên quan đến tình trạng sức khỏe của người
được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ.
Cũng liên quan đến việc cung cấp thông tin
của BMBH, cụ thể tại khoản 1, Điều 19 Luật
KDBH quy định khi giao kết hợp đồng bảo
hiểm thì BMBH có trách nhiệm cung cấp đầy
đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm
cho DNBH. Liệu phạm vi yêu cầu thông tin của
hai quy định có khác biệt nhau khi điểm b,
khoản 2, Điều 18 Luật KDBH quy định BMBH
phải cung cấp thông tin theo yêu cầu của
DNBH, trong khi đó khoản 1, Điều 19 Luật
KDBH quy định cung cấp đầy đủ các thông tin
liên quan đến đối tượng bảo hiểm. Như vậy,
trong trường hợp này BMBH chỉ cung cấp
trong phạm vi của đơn yêu cầu bảo hiểm đã
đảm bảo đầy đủ những thông tin liên quan đến
đối tượng bảo hiểm mà chưa được quy định
trong đơn yêu cầu bảo hiểm không? Có những
trường hợp BMBH có những thông tin quan
B.T.N. Nam / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 74-84
80
trọng mà DNBH chưa yêu cầu cung cấp, hậu
quả của việc này tạo sự bất lợi cho DNBH đánh
giá rủi ro và khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ví dụ
cho trường hợp này, vào thời điểm giao kết
HĐBH, người được bảo hiểm hoàn toàn khỏe
mạnh, bình thường nhưng do có thói quen uống
rượu. Việc thường xuyên uống rượu là một căn
cứ quan trọng đối với DNBH trong việc đánh
giá rủi ro và căn cứ để xác định lại phí bảo
hiểm. Ngược lại, BMBH mặc dù không cung
cấp thông tin này nhưng cũng không vi phạm
nghĩa vụ cung cấp thông tin bởi vì DNBH
không yêu cầu.
Một vấn đề nữa cũng liên quan đến nghĩa
vụ cung cấp thông tin của BMBH tại điểm b,
khoản 2, Điều 18 đó chính là cụm từ “mọi chi
tiết có liên quan đến HĐBH”. Với cách quy
định như vậy, có thể thấy được đối tượng và
phạm vi thông tin được quy định chưa thực sự
thống nhất và rõ ràng (mọi chi tiết nhưng theo
yêu cầu của DNBH) [16, 55].
Thực tiễn xét xử, Tòa án đã có quan điểm
cho vấn đề này thông qua bản án Số
313/2016/DS-PT ngày 16/03/2016 về tranh
chấp hợp đồng bảo hiểm [17]. Trong vụ việc
này, phía công ty bảo hiểm cho rằng tại câu hỏi
số 54 Đơn yêu cầu bảo hiểm ngày 25/3/2009:
“Loét đường tiêu hóa, xuất huyết tiêu hóa, viêm
tụy, viêm kiết tràng, khó tiêu thường xuyên, khó
nuốt, hoặc rối loạn tại dạ dày, ruột gan hoặc
túi mật?” bà H (người được bảo hiểm) đánh
dấu vào ô không (nghĩa là bà H khai không bị
rối loạn dạ dày) trong khi bà H bị đau dạ dày là
khai báo không trung thực, cụm từ rối loạn tại
dạ dày bao gồm tất cả các bệnh liên quan đến
dạ dày trong đó có bệnh đau dạ dày.
Quan điểm của Tòa án cho rằng có sự khác
nhau giữa “rối loạn dạ dày” trong câu hỏi và
căn bệnh “đau dạ dày” trên thực tế của bà H.
Tòa án xét xử theo hướng đối tượng của nghĩa
vụ cung cấp cấp thông tin phải nằm trong câu
hỏi của DNBH. Tòa án còn viện dẫn thêm quy
định tại khoản 2, Điều 407 trong BLDS 2005 về
trường hợp “hợp đồng dân sự theo mẫu có điều
khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng
theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều
khoản đó.” cùng với Điều 21 Luật KDBH quy
định giải thích theo hướng có lợi cho người
mua bảo hiểm trong trường hợp HĐBH có điều
khoản không rõ ràng. Như vậy, những nội dung
mà không được đề cập trong Đơn yêu cầu bảo
hiểm thì sẽ không thuộc đối tượng của nghĩa vụ
cung cấp thông tin của BMBH hay nói cách
khác, BMBH chỉ phải cung cấp các thông tin
mà DNBH yêu cầu.
Tính không trung thực của thông tin
Tính trung thực của thông tin trong HĐBH
là yếu tố quan trọng khi giao kết HĐBH. Trên
thực tiễn, các tranh chấp về HĐBH đa phần
xuất phát từ việc DNBH cho rằng BMBH đã cố
ý cung cấp thông tin không đúng sự thật, từ đó
từ chối chi trả quyền lợi cho BMBH. Khi xảy ra
tranh chấp BMBH cũng đưa ra lập luận cho
rằng bản thân mình không biết những thông tin
đó hoặc nếu cố tình che giấu thông tin thì cũng
lập luận theo hướng lừa dối để yêu cầu Tòa án
tuyên HĐBH vô hiệu. Cụ thể, theo một Tòa án,
“xét trước khi ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
với Công ty Manulife, ông Ngọc đã từng khám
bệnh theo bảo hiểm y tế tại Bệnh viện Nguyễn
Trãi và được bác sĩ của Công ty manulife khám
bệnh cũng như kiểm tra sức khỏe tại Trung tâm
Hòa hảo nhưng đều không biết ông Ngọc bị
bệnh lao não. Xét các triệu chứng bệnh của ông
Ngọc khi khám bệnh tại Bệnh viên Nguyễn Trãi
như: chóng mặt, nhức đầu là bệnh thường
xuyên của con người, việc ông Ngọc không khai
khi kiểm tra sức khỏe không phải là ông Ngọc
biết bệnh lao não nhưng giấu không khai. Xét
trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ giữa Công
ty Manulife và ông Ngọc không quy định nếu
người ký hợp đồng khai sai những điểm trong
phiếu kiểm tra sức khỏe thì không được thanh
toán quyền lợi bảo hiểm. Do đó, Công ty
Manulife đã ký hợp đồng bảo hiểm với ông
Ngọc thì Công ty Manulife phải trả cho bà Liên
(người đại diện của ông Ngọc) quyền lợi bảo
hiểm của ông Ngọc” [18].
Như vậy, theo nhận định của Tòa án trong
bản án này có thể hiểu, bệnh lao não của ông
Ngọc là có thật và việc này không được ông
Ngọc khai báo khi xác lập HĐBH nhân thọ là
không vi phạm bởi vì trường hợp này ông Ngọc
không hề biết trong người ông đang có căn
bệnh lao não theo nhận định Tòa án.
B.T.N. Nam / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 74-84
81
Qua bản án này có thể thấy rằng, để xác
định tính không trung thực của thông tin cho
phép DNBH từ chối thanh toán tiền bảo hiểm,
đó phải là thông tin mà BMBH biết nhưng
không kê khai. Trong trường hợp này, ông
Ngọc không biết về thông tin bệnh lao não, vậy
DNBH không thể từ chối thanh toán tiền bảo
hiểm cho ông Ngọc. Do đó, việc biết và không
công khai là hai thành tố quan trọng trong việc
xác định tính không trung thực của thông tin.
Đối chiếu với quy định của pháp luật kinh
doanh bảo hiểm thì hiển tại, Luật KDBH mới
chỉ quy định các bên có nghĩa vụ cung cấp
thông tin một cách trung thực nhưng chưa quy
định cụ thể các trường hợp có thể loại trừ.
Chế tài không đồng nhất đối với việc vi
phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin
Đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp
thông tin, Luật KDBH hiện hành quy định các
biện pháp xử lý khác nhau như hợp đồng có thể
bị đình chỉ, bị hủy bỏ hoặc bị vô hiệu. Theo
khoản 2, Điều 19 Luật KDBH quy định:
“Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương
đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu
phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện
hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có
một trong những hành vi sau đây: a) Cố ý cung
cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp
đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc
được bồi thường; b) Không thực hiện các nghĩa
vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh
nghiệp bảo hiểm theo quy định tại điểm c khoản
2 Điều 18 của Luật này”.
Mặc khác, tại điểm d, khoản 1, Điều 22 của
Luật này quy định về trường hợp HĐBH vô
hiệu khi BMBH hoặc DNBH có hành vi lừa dối
khi giao kết HĐBH. Khi đó, DNBH sẽ hoàn trả
lại phí bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã đóng
trước đó, và không phát sinh trách nhiệm chi trả
số tiền bảo hiểm hay số tiền bồi thường cho
BMBH.
Vậy, liệu hành vi cố ý cung cấp thông tin
sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm có
phải là một hành vi lừa dối?
Tại Điều 127, BLDS 2015 cũng định nghĩa
về hành vi lừa dối trong giao dịch dân sự, theo
đó: “Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi
cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm
làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính
chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch
dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.”. Qua quy
định trên có thể hiểu một hành vi được xem là
lừa dối khi: Thứ nhất, đưa ra thông tin sai lệch
về chủ thể, đối tượng hoặc nội dung của giao
dịch dân sự đó; Thứ hai, bản thân người đưa ra
thông tin biết rõ rằng thông tin đó là sai lệch sự
thật với chủ ý làm cho người nghe tin vào thông
tin đó; Thứ ba, người nhận thông tin đã tin
tưởng vào thông tin đó nên giao kết hợp đồng.
Như vậy, có thể thấy hành vi cố ý cung cấp
thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng
bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được
bồi thường thường theo như quy định tại điểm
a, khoản 2, Điều 19 của Luật KDBH là một
dạng hành vi lừa dối. Tuy nhiên, Luật KDBH
cung cấp hai chế tài với hai hậu quả pháp lý
hoàn toàn khác nhau đối với cùng một hành vi
cố ý cung cấp thông tin sai sự thật. Đối với chế
tài DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực
hiện hợp đồng và thu phí đến thời điểm đình chỉ
thực hiện hợp đồng, quy định này có nghĩa là
cho đến thời điểm đình chỉ thực hiện, HĐBH
vẫn có giá trị pháp lý và chỉ bị triệt tiêu trong
tương lai. Mặt khác, đối với hành vi lừa dối,
hậu quả pháp lý là HĐBH bị tuyên vô hiệu mà
mỗi bên sẽ hoàn trả lại cho nhau những gì đã
nhận (căn cứ theo quy định tại Điều 131, BLDS
2015). Trên thực tế, có một số DNBH xây dựng
điều khoản mẫu HĐBH theo quy định tại khoản
2, Điều 19 Luật KDBH, điển hình là như trường
hợp của Công ty Prudential Việt Nam theo
hướng hoàn phí bảo hiểm khi BMBH vi phạm
nghĩa vụ cung cấp thông tin, xem xét một điều
khoản trong Quy tắc sản phẩm bảo hiểm của
Công ty:
Điều 11.2 a), ii) Nghĩa vụ của Bên mua bảo
hiểm và Người được bảo hiểm:
a. Kê khai chính xác thông tin cần thiết
ii. Nếu bên mua bảo hiểm/Người được bảo
hiểm cố ý kế khai không đầy đủ, chính xác và
trung thực các thông tin cần thiết theo yêu của
Prudential, theo đó, nếu với thông tin chính xác,
Prudential sẽ không chấp nhận bảo hiểm,
Prudential không có trách nhiệm chi trả các
quyền lợi bảo hiểm và có quyền đơn phương
đình chỉ Hợp đồng bảo hiểm này ngay sau khi
B.T.N. Nam / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 74-84
82
phát hiện ra hành vi vi phạm của bên mua bảo
hiểm và chỉ trả cho bên mua bảo hiểm Giá trị
quỹ của hợp đồng tại Ngày định giá kế tiếp
ngay sau khi Hợp đồng bảo hiểm bị đình chỉ
sau khi trừ đi chi phí khám sức khỏe, cá Quyền
lợi đã chi trả hoặc chấp thuận chi trả hoặc đã
chi trả các Khoản nợ, nếu có, tính đến ngày
đình chỉ Hợp đồng bảo hiểm.
Một số DNBH khác lựa chọn việc vô hiệu
HĐBH ngay từ đầu hay hủy bỏ HĐBH khi có
sự vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin, ví dụ
như điều khoản HĐBH trong bản án được lựa
chọn làm án lệ số 22/2018/AL: “Nếu bất cứ
thông tin nào bên mua bảo hiểm hoặc người
được bảo hiểm cung cấp cố ý che giấu hoặc
khai báo sai sự thật làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyết định đánh giá chấp nhận bảo
hiểm thì công ty có thể hủy bỏ hợp đồng và hợp
đồng không có hiệu lực ngay từ đầu”.
Dù có sự không đồng nhất trong cách quy
định chế tài trong HĐBH hay quy tắc sản phẩm
bảo hiểm, tuy nhiên, tất cả những cách xây
dựng quy định trên đều được Bộ Tài chính chấp
thuận phê chuẩn trong các quy tắc sản phẩm
bảo hiểm của DNBH và cho phép DNBH tiến
hành kinh doanh trên thực tiễn.
Cũng chính vì quy định của Luật KDBH
chưa rõ ràng về vấn đề này, và việc áp dụng
pháp luật trên thực tiễn quá đa dạng, nên việc
xét xử Tòa án đóng vai trò quan trọng để cung
cấp giải pháp hợp lý công bằng cho các bên
trong quan hệ bảo hiểm. Giải pháp được đa số
Tòa án lựa chọn thông qua thực tiễn giải quyết
tranh chấp là tuyên hợp đồng vô hiệu nên
DNBH phải hoàn lại phí bảo hiểm mà BMBH
đã nộp, và DNBH không phát sinh trách nhiệm
bồi thường hay chi trả số tiền bảo hiểm. Cụ thể,
theo một bản án vào năm 2007 của Tòa án nhân
dân TP.Hồ Chí Minh, “tại thời điểm ông Hùng
lập thủ tục yêu cầu bảo hiểm, ông Hùng đã có
bệnh tăng huyết áp nhưng ông Hùng không khai
đầy đủ vào hồ sơ mua bảo hiểm tình trạng tăng
huyết áp của mình đúng như thỏa thuận tại
Điều 3.1 của HĐBH mà hai bên đã ký. Theo
quy định tại khoản 1, Điều 573 BLDS 2005 thì
khi giao kết HĐBH, theo yêu cầu của bên bảo
hiểm, BMBH phải cung cấp cho bên bảo hiểm
đầy đủ thông tin có liên quan đến đối tượng
được bảo hiểm, trừ thông tin mà bên bảo hiểm
đã biết hoặc phải biết” nên HĐBH số
05000009806008UL-A ngày 29/06/2006 được
xác lập giữa ông Hùng với Công ty ACE là vô
hiệu từ thời điểm ký kếtDo HĐBH vô hiệu
nên không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác
lập, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” [19].
Qua thực tiễn tranh chấp bảo hiểm, có thể
nhận thấy một điểm chung rằng việc cung cấp
thông tin sai đa phần đều xuất phát từ thời điểm
giao kết hợp đồng bảo hiểm. Nếu nguyên nhân
dẫn đến tranh chấp tồn tại trong giai đoạn tiền
hợp đồng bảo hiểm lại được xử lý bằng giải
pháp“đình chỉ”, tức là vẫn giữ lại quá khứ của
hợp đồng và chỉ làm mất giá trị trong tương lai
của hợp đồng có tạo ra sự hợp lý không? Trong
khi đó, nếu theo hướng vô hiệu HĐBH thì các
bên trong quan hệ HĐBH sẽ quay trở lại thời
điểm trước khi giao kết HĐBH.
Từ những phân tích trên, một vấn đề được
đặt ra là với cùng một hành vi là cố ý cung cấp
thông tin sai sự thật của bên mua bảo hiểm thì
khi nào thì nên áp dụng quy định tại khoản 2,
Điều 19 của Luật KDBH, khi nào áp dụng quy
định tại điểm d, khoản 1, Điều 22 để giải quyết?
Có nên thống nhất hướng giải quyết bằng việc
tuyên HĐBH theo hướng vô hiệu để thống nhất
trong xét xử? Đây là những câu hỏi mà các nhà
làm luật và cơ quan tư pháp cần giải đáp, để
góp phần hạn chế được tình trạng tranh chấp
bảo hiểm, mặc khác, khi phát sinh tranh chấp,
các bên dựa vào đó có thể xác định chế tài một
cách dễ dàng hơn.
DNBH hủy bỏ HĐBH nếu BMBH thông báo
sai tuổi của người được bảo hiểm
Ngoài hai hậu quả pháp lý là đình chỉ hoặc
tuyên vố vô hiệu như trình bày ở trên, HĐBH
có thể bị DNBH hủy bỏ nếu BMBH thông báo
sai tuổi của người được bảo hiểm. Độ tuổi là
một trong những yếu tố gắn liền với tình trạng
sức khỏe của mỗi người, dựa vào đó DNBH có
thể đánh giá mức độ rủi ro, cơ sở để tính phí
bảo hiểm. Người đó độ tuổi lớn phí bảo hiểm sẽ
khác so với bảo hiểm cho một người có độ tuổi
nhỏ hơn. Theo quy định tại khoản 2, Điều 34
của Luật KDBH quy định về thông báo sai tuổi
B.T.N. Nam / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 74-84
83
của người được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân
thọ, “doanh nghiệp bảo hiểm có quyền huỷ bỏ
hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số phí bảo hiểm
đã đóng cho bên mua bảo hiểm sau khi đã trừ
các chi phí hợp lý có liên quan, trường hợp hợp
đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở
lên thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên
mua bảo hiểm giá trị hoàn lại”. Qua quy định
này có thể hiểu HĐBH vẫn có hiệu lực pháp lý
cho đến khi HĐBH bị hủy bỏ bởi DNBH.
Tuy nhiên, BLDS 2015 tại Điều 427 quy
định về hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp
đồng, thì khi hợp đồng bị hủy bỏ đồng nghĩa
với việc hợp đồng không có hiệu lực từ thời
điểm giao kết, các bên không phải thực hiện
nghĩa vụ đã thỏa thuận. Trái ngược với quy
định trong BLDS 2015, trong Luật KDBH quy
định HĐBH bị hủy bỏ nhưng DNBH vẫn phải
hoàn trả lại giá trị hoàn lại của HĐBH cho
BMBH. Do vậy, quy định trong Luật KDBH có
sự mâu thuẫn, chưa có sự thống nhất với việc
xử lý hợp đồng bị hủy bỏ theo quy định của
BLDS 2015. Để tạo sự thống nhất với quy định
trong BLDS 2015, thiết nghĩ Luật KDBH nên
có phương hướng giải quyết để phù hợp với
trong BLDS 2015.
Cũng tại quy định này, “giá trị hoàn lại”
được đề cập nhưng chưa có quy định giải thích
và hướng dẫn thực hiện. Trên thực tiễn, giá trị
hoàn lại thường chỉ quy định trong Bộ quy tắc
và Điều khoản của DNBH, điều này gây ra
không ít bối rối cho BMBH. Cụ thể: “trường
hợp của chị H (Nha Trang) hoàn toàn bất ngờ
khi nhận được một số tiền hoàn lại là 1,3 triệu
đồng khi chị đề nghị chấm dứt hợp đồng trong
khi tổng số phí chị đóng trong 21 tháng qua là
3,5 triệu đồng” [20, 85]. Giá trị hoàn lại trong
trường hợp này nhỏ rất nhiều so với số tiền phí
bảo hiểm mà chị đã đóng. Như vậy, để thống
nhất cũng như có cơ sở để BMBH có thể dựa
vào đó có thể xác định được giá trị hoàn lại,
mặc khác vừa để đảm bảo quyền lợi của
BMBH, tránh trường hợp DNBH quy định bất
lợi cho BMBH.
Tóm lại, qua thực tiễn hoạt động bảo hiểm
ở Việt Nam, các vụ tranh chấp liên quan đến
việc cung cấp thông tin của các bên trong quan
hệ bảo hiểm ngày càng gia tăng đáng kể. Việc
tìm hiểu bản chất bất cân xứng thông tin trong
quan hệ tiền hợp đồng bảo hiểm và các quy
định pháp luật về trách nhiệm cung cấp
thông tin, đồng thời chỉ ra các khiếm
khuyết của luật viết và nhu cầu hoàn thiện
các quy định này là những việc cần thiết và
quan trọng. Những nội dung nghiên cứu
trong bài viết mong muốn góp phần cung
cấp cơ sở lý luận, định hướng hoàn thiện
quy định pháp luật có liên quan, và cung
cấp giải pháp pháp lý cho việc giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn
hoạt động bảo hiểm liên quan đến trách
nhiệm cung cấp thông tin.
Tài liệu tham khảo
[1] Roger Brownsword, Norma J. Hird, Geraint
Howells, 1999, Good faith in Contract: concept
and context, NXB. Dartmouth Pub Co.
[2] Rodrigo Novoa, 2005, “Culpa in contrahendo: a
comparative law study: Chilean law and the
United Nations Convention on contracts for the
international sales of goods (CISG)”, Arizona
Journal of international and Comparative law,
Vol.22 .No.3. 91; và Anil Ozturk , 2017, “The
Conceptual Analysis of 'Culpa in Contrahendo':
A Critical Study in EU Private International
Law”, LL.M Thesis, School of Law, The
University of Dublin, Trinity College.
[3] Rolger Halson, 2013, Contract law, 2th ed, Paula
Giliker University of Bristol.
[4] Bản thuyết minh dự thảo Bộ luật Dân sự 2015.
[5] Bộ luật Dân sự 2005.
[6] Bộ luật Dân sự 2015.
[7] Từ điển Tiếng Việt Soha:
[8]
n_ch%C3%AD, truy cập ngày 26/06/2020.
[9] Lê Trường Sơn, 2016, Giai đoạn tiền hợp đồng
trong pháp luật Việt Nam, NXB. Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam.
[10] Đỗ Văn Đại, 2018, “Một số vấn đề pháp lý phát
sinh trong thực tiễn về bảo hiểm nhân thọ”, Tạp
chí Khoa học pháp lý, số 07(119)/2018.
[11] Phán quyết vụ án Carter v Boehm (1766) 3 Burr
1905:
B.T.N. Nam / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 74-84
84
[12]
atterson_2008_on_Carter_v_Boehm_1766.pdf,
truy cập ngày 26/06/2020.
[13] Đạo Luật bảo hiểm hàng hải Anh 1906 (Marine
insurance Act 1906).
[14] Luật bảo hiểm Pháp 1967 (Code des Assurance),
toàn văn tại
truy
cập ngày 26/06/2020.
[15] Phạm Sĩ Hải Quỳnh, 2004, “Cơ sở hình thành
nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giao kết hợp
đồng bảo hiểm”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số
3/2004, toàn văn bài viết có thể truy cập tại
https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/01/30/
423546/, truy cập ngày 26/06/2020.
[16] Bộ luật Hàng hải 2015.
[17] Bản án được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao quyết định ban hành thành Án lệ số
22/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm
2018 và được công bố theo Quyết định số
269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
[18] Bản án số 1966/DS-ST ngày 10/09/2004 của Tòa
án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
[19] Bản án số 598/2007/DS-PT ngày 07/06/2007 của
Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí Minh.
[20] Trần Vũ Hải, 2006, Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB.Tư
pháp, Hà Nội.
p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trach_nhiem_cung_cap_thong_tin_trong_hop_dong_bao_hiem_giai.pdf