Thứ năm, về phạm vi chịu TNHS
của pháp nhân. Theo Điều 76 liệt kê các
tội danh(1) cụ thể mà pháp nhân có thể
phải chịu TNHS về các tội danh đó. Theo
quan điểm của chúng tôi, với việc quy
định như Điều 76, người đọc có thể nhận
biết được phạm vi chịu TNHS của pháp
nhân thương mại phạm tội về những
tội danh đã được liệt kê. Tuy nhiên, về
mặt kỹ thuật lập pháp quy định này lại
chưa hợp lý, vì khi thêm hoặc bớt 1 tội
danh có quy định TNHS của pháp nhân
thì không những phải sửa đổi điều luật
về tội danh có liên quan mà cũng phải
sửa cả Điều 76. Hơn nữa, việc quy định
về cùng một nội dung không nhất thiết
phải sử dụng phương pháp “bắc cầu”
giữa 2 điều luật.
Mặc dù BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017 đã đánh dấu một bước
tiến quan trọng trong tư duy lập pháp
hình sự; tiếp tục thể hiện tinh thần chủ
động phòng ngừa và kiên quyết đấu
tranh chống tội phạm, góp phần bảo vệ
chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ
chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ
chức, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
của nước ta. BLHS năm 2015 quy định
pháp nhân là chủ thể của tội phạm, đây
là điểm mới nổi bật, mang tính đột phá
trong chính sách và tư duy lập pháp
hình sự nước ta. Tuy nhiên, đây là vấn
đề mới nên BLHS năm 2015 quy định
trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo
hướng chỉ áp dụng trách nhiệm hình
sự đối với pháp nhân thương mại; xác
định cụ thể 33 tội danh, là các tội danh
mang tính chất thuần túy về kinh tế, môi
trường, an toàn công cộng và trật tự công
cộng; quy định rõ ba điều kiện để một
pháp nhân thương mại phải chịu trách
nhiệm hình sự và quy định các chế tài áp
dụng đối với pháp nhân phạm tội bao
gồm ba hình phạt chính, ba hình phạt bổ
sung và bốn biện pháp tư pháp. Để triển
khai và áp dụng có hiệu quả, thiết nghĩ
các cơ quan chức năng cần có văn bản
hướng dẫn cụ thể để khắc phục các hạn
chế như: các trường hợp đã phân tích ở
trên và thậm chí trường hợp pháp nhân
bị đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc
đình chỉ hoạt động vĩnh viễn thì quyền
lợi của người lao động, của chủ nợ, các
đối tác đang có hợp đồng hợp tác, kinh
doanh với pháp nhân này sẽ được giải
quyết như thế nào?
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội theo quy định của bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
48 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Điểm mới
so với BLHS năm 1999 là chế định TNHS
của pháp nhân thương mại lần đầu tiên
được quy định và ghi nhận chế định này
bằng việc xác định rõ loại pháp nhân, điều
kiện, phạm vi trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân, đồng thời cũng quy định rõ
các loại tội phạm cụ thể mà pháp nhân có
thể phải chịu TNHS và hình phạt đối với
tội phạm đó. Việc bổ sung quy định TNHS
đối với pháp nhân vào BLHS sẽ làm thay
đổi hoàn toàn các quan niệm trước đây
về năng lực TNHS, lỗi, hình phạt trong lý
luận khoa học luật hình sự và trong luật
thực định và thực tiễn xét xử của Tòa án.
Pháp nhân thương mại phạm tội
là những pháp nhân có mục tiêu chính
là tìm kiếm lợi nhuận thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội xâm phạm vào các
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ,
có lỗi và phải bị xử lý bằng hình phạt.
Theo quy định tại Điều 75 BLHS năm
2015 thì pháp nhân thương mại chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi
* Thạc sĩ, Khoa Luật, Học viện Cảnh sát nhân dân
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI PHẠM TỘI
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015,
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017
ĐỖ LƯỜNG THIỆN *
So với Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999, đây là lần đầu tiên trong lịch
sử pháp luật hình sự nước ta, BLHS năm 2015 đã quy định và ghi nhận trách
nhiệm hình sự (TNHS) đối với pháp nhân thương mại phạm tội bằng việc
xác định rõ loại pháp nhân, điều kiện, phạm vi TNHS đối với pháp nhân,
đồng thời cũng quy định rõ các loại tội phạm cụ thể mà pháp nhân có thể
phải chịu TNHS và hình phạt đối với tội phạm đó. Trên cơ sở nghiên cứu
những quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm
tội, tác giả đã chỉ ra được điều kiện, phạm vi chịu trách nhiệm hình sự đối
với pháp nhân thương mại phạm tội, đồng thời đưa ra được một số lưu ý
khi xác định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
Keyword: Bộ luật hình sự, pháp nhân thương mại, trách nhiệm hình sự.
Compared with the Penal Code in 1999, this is the first time in the history
of our criminal law that the Penal Code of 2015 has stipulated and recognized
the criminal liability of a commercial criminal entities by defining the type
Legal entities, conditions and scope of criminal liability for legal persons,
as well as specific types of crimes that can be punishable by a legal person.
On the basis of studying the provisions on criminal liability of criminalized
commercial legal persons, the author has pointed out the conditions and scope
of criminal liability for commercial criminal offenders. There are a number
of considerations in determining criminal liability for a commercial offender.
Keyword: The Penal Code, commercial criminal offenders, criminal
liability.
ĐỖ LƯỜNG THIỆN
49Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
phạm tội được thực hiện nhân danh pháp
nhân thương mại, vì lợi ích của pháp nhân
thương mại, có sự chỉ đạo, điều hành hoặc
chấp thuận của pháp nhân thương mại và
chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của BLHS.
Để truy cứu trách nhiệm hình sự của
pháp nhân theo quy định của BLHS, phải
thỏa mãn các điều kiện sau:
Một là, pháp nhân có thể phải chịu
trách nhiệm hình sự trong trường hợp
nghĩa vụ do pháp luật quy định cho pháp
nhân đó (hay còn gọi là nghĩa vụ của
tổ chức) không được thực hiện và sự vi
phạm nghĩa vụ này ở mức độ nghiêm
trọng (bị coi là tội phạm). Ví dụ: Doanh
nghiệp không thực hiện nghĩa vụ đóng
thuế cho nhà nước hay nghĩa vụ phải
đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Đây là nghĩa vụ được quy định trực tiếp
cho doanh nghiệp. Khi không thực hiện
nghĩa vụ này ở mức độ nghiêm trọng (bị
coi là tội phạm), doanh nghiệp có thể phải
chịu trách nhiệm hình sự.
Hai là, pháp nhân thương mại phải
chịu trách nhiệm hình sự trong trường
hợp thành viên của pháp nhân đã phạm
tội nhưng tội phạm được thực hiện là
nhân danh và có lợi cho tổ chức(1). Hành
vi phạm tội có những dấu hiệu đặc biệt
liên quan đến tổ chức và những dấu hiệu
này mà TNHS có thể được mở rộng đến
tổ chức. Ở đây có mối quan hệ giữa thành
viên của tổ chức với tổ chức về tội phạm
đã thực hiện và trách nhiệm hình sự đối
với tội phạm đó.
Hành vi phạm tội là hành vi của con
người cụ thể, họ là chủ thể của tội phạm
nhưng tổ chức phải chịu TNHS về tội
phạm này vì tội phạm được thực hiện
1 Xem: Điều 75 Điều kiện chị trách hình sự của pháp
nhân thương mại; nxb chính trị QG sự thật, năm
2017, tr54
nhân danh pháp nhân và vì lợi ích chung
của tổ chức, thể hiện “lí trí” và “ý chí” của
tổ chức (thông qua lãnh đạo hoặc người
đại diện của pháp nhân). Theo đó, có thể
coi hành vi mà thành viên đã thực hiện
cũng là hành vi của tổ chức. Như vậy,
hành vi của thành viên tổ chức có thể được
coi là hành vi của tổ chức khi hành vi đó
thỏa mãn 2 dấu hiệu: nhân danh tổ chức
và vì lợi ích của tổ chức. Để đảm bảo tính
“nhân danh” đòi hỏi người thực hiện tội
phạm phải là người lãnh đạo hoặc thuộc
cơ quan lãnh đạo của tổ chức, có quyền
quyết định hoạt động của tổ chức.(2) Họ
có thể trực tiếp thực hiện hoặc giao cho
người khác thực hiện. Hành vi tự ý của
các thành viên bình thường của tổ chức,
không thể là hành vi nhân danh của tổ
chức. Đặc điểm nhân danh tổ chức là điều
kiện cần cho việc xác định hành vi cụ thể
được coi là hành vi của tổ chức nhưng
chưa phải là điều kiện đủ. Hành vi nhân
danh tổ chức chỉ được coi là hành vi của
tổ chức khi hành vi được thực hiện là có
lợi hoặc nhằm có lợi cho tổ chức. Qua đó,
tổ chức có thể nhận được (hoặc giữ lại) lợi
ích vật chất, lợi ích tinh thần hoặc lợi thế
nhất định. Khi hành vi vi phạm được thực
hiện nhân danh tổ chức nhưng không
vì lợi ích của tổ chức mà vì lợi ích của
cá nhân hoặc nhóm cá nhân thì hành vi
phạm tội đó không thể được coi là hành vi
của pháp nhân nên không thể buộc pháp
nhân-tổ chức phải chịu TNHS về hành vi
phạm tội này.
Chính vì vậy, TNHS của pháp nhân
bắt nguồn từ hành vi phạm tội và TNHS
của thành viên tổ chức. Hành vi phạm tội
tuy là của thành viên tổ chức nhưng khi
thực hiện hành vi phạm tội, người này
đã nhân danh pháp nhân và vì lợi ích của
pháp nhân nên hành vi phạm tội cũng
2 Xem: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập 1, Học
viện Cảnh sát nhân dân, trang 283-300
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI...
50 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
được coi là hành vi phạm tội của tổ chức
và tổ chức phải chịu TNHS về hành vi
phạm tội này.
Ba là, hành vi phạm tội được thực
hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp
thuận của pháp nhân thương mại.
Pháp nhân phải chịu TNHS trong
trường hợp thành viên của pháp nhân
phạm tội khi thực hiện công việc này
được pháp nhân giao và việc phạm tội
này là lỗi của pháp nhân. Ví dụ: Trong khi
thực hiện công việc được doanh nghiệp
giao như trong trường hợp làm chết
người theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 242 tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản.
Trong trường hợp này, hành vi phạm tội
không phải là hành vi vi phạm nghĩa vụ
của pháp nhân như trường hợp thứ nhất
và cũng không phải hành vi nhân danh và
vì lợi ích của pháp nhân như trường hợp
thứ hai. Tuy nhiên, hành vi vi phạm này
cũng có dấu hiệu đặc biệt liên quan đến tổ
chức và vì những dấu hiệu này mà TNHS
có thể được xác định cho pháp nhân.
Trước hết, hành vi phạm tội xảy ra khi
người phạm tội thực hiện công việc của
pháp nhân và thứ hai, quan trọng hơn,
hành vi phạm tội đã xảy ra có nguyên
nhân xuất phát từ pháp nhân. Pháp nhân
đã không thực hiện đầy đủ trách nhiệm
phòng ngừa hậu quả nguy hiểm có thể xảy
ra từ hoạt động của thành viên (và cũng là
hoạt động của pháp nhân). Mặc dù vậy,
hành vi này phải xuất phát từ lỗi vô ý,
không phải người đại diện pháp nhân cố
ý gây ra. Do đó, việc truy cứu TNHS đối
với pháp nhân trong trường hợp này là
có cơ sở và cần thiết để răn đe pháp nhân,
buộc pháp nhân phải có biện pháp phòng
ngừa sự tái diễn hành vi phạm tội tương
tự trong tương lai.
Như vậy, TNHS của pháp nhân dựa
trên cơ sở thiệt hại đã xảy ra trong hoạt
động của tổ chức mà nguyên nhân của
thiệt hại có phần do sai phạm của pháp
nhân. Ở đây có sự độc lập tương đối giữa
sai phạm của thành viên pháp nhân và sai
phạm của pháp nhân. Do vậy, TNHS của
pháp nhân cũng có sự độc lập tương đối
với TNHS của thành viên pháp nhân.
Chú ý: Trong mỗi trường hợp, TNHS
của pháp nhân có mối quan hệ khác nhau
với hành vi của thành viên pháp nhân cũng
như TNHS của họ. Tuy vậy, một nguyên
tắc chung được thừa nhận là TNHS của
pháp nhân không loại trừ TNHS của cá
nhân. Hai loại TNHS này có thể cùng phát
sinh từ một sự việc.
Bốn là, chưa hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự. Dù là người phạm tội
hay pháp nhân thương mại phạm tội thì
bao giờ BLHS sự cũng quy định thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự(1). Theo đó,
tội phạm do pháp nhân thương mại thực
hiện được phân loại căn cứ vào tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội và quy định tương ứng đối với
các tội phạm được quy định tại Điều 76 của
BLHS năm 2015 (là các tội phạm mà pháp
nhân thương mại bị truy cứu TNHS). Tuy
nhiên, khi áp dụng các điều kiện chịu trách
nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
phạm tội cần chú ý:
Nếu người của pháp nhân thương
mại thực hiện hành vi nhân danh pháp
nhân thương mại và pháp nhân thương
mại bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì
tùy trường hợp người thực hiện hành vi
phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình
sự với tư cách là cá nhân. Quy định này
chống việc lợi dụng pháp nhân thương
mại để thực hiện hành vi phạm tội nhằm
thoát sự trừng trị của pháp luật.
Pháp nhân thương mại tuy là chủ thể
1 Xem: Điều 27 BLHS 2015, khoản 2, 3. NXB Chính trị
QG sự thật, năm 2017, tr20-21
ĐỖ LƯỜNG THIỆN
51Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
của tội phạm, nhưng không phải là chủ
thể của tất cả các tội phạm quy định trong
BLHS, mà chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự một số tội phạm có liên quan trực tiếp
đến hoạt động của pháp nhân thương mại.
Trong số 33 tội danh pháp nhân
thương mại có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự thì có những tội liên quan trực tiếp
đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của
pháp nhân thương mại như tội trốn thuế;
tội buôn lậu; tội trốn đóng bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
cho người lao động, nhưng cũng có tội
ít liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh
doanh của pháp nhân thương mại như:
Tội tài trợ khủng bố và Tội rửa tiền.
Những pháp nhân thương mại có
hành vi cố tình vi phạm BLHS sẽ “tự mình
đào thải mình”. Điều này cũng khắc phục
được thực tiễn áp dụng pháp luật thời
gian qua bởi cơ chế xử phạt vi phạm hành
chính và bồi thường thiệt hại áp dụng đối
với pháp nhân thương mại trước đây tỏ
ra bất cập, không đủ sức răn đe; nhiều
pháp nhân sẵn sàng chịu phạt để tiếp tục
vi phạm, làm giảm hiệu lực của công tác
quản lý Nhà nước.
Tuy nhiên, quy định TNHS của pháp
nhân là chế định hoàn toàn mới, chưa có
tiền lệ nên chắc chắn trong quy định của
pháp luật, cũng như việc thực thi trên thực
tế sẽ không thể tránh khỏi những thiếu
sót, hạn chế và vướng mắc nhất định.
Thứ nhất, tội phạm do pháp nhân
thương mại thực hiện được phân loại căn
cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy
định tại khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015
và quy định tương ứng tại Điều 76 BLHS
này. Đây là quy định mới được bổ sung
khi sửa đổi BLHS năm 2015, theo đó, tội
phạm do pháp nhân thương mại thực
hiện cũng được phân loại làm cơ sở để
tiến hành các hoạt động tố tụng, xác định
các vấn đề khác có liên quan như thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hạn
điều tra, thẩm quyền điều tra...
Ví dụ: khoản 6 Điều 188 BLHS quy
định về tội buôn lậu(1). Nếu pháp nhân
phạm tội thuộc điểm a khoản 6 Điều 188,
thì tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi tương ứng với khoản 1 Điều 188(2). Theo
quy định này thì mức cao nhất của khung
hình phạt do BLHS quy định đối với tội
này là 3 năm tù, tội phạm mà pháp nhân
thương mại thực hiện. Do vậy, tội phạm
mà pháp nhân thương mại thực hiện nếu
xác định thuộc điểm a khoản 6 Điều 188 là
tội phạm ít nghiêm trọng.
Tương tự, nếu pháp nhân phạm tội
thuộc điểm b khoản 6 Điều 188 là tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng; nếu thuộc điểm d,
khoản 6 Điều 188, tội phạm mà pháp nhân
1 Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều
này, thì bị phạt như sau:
a) Pháp nhân thương mại thực hiện hành vi quy định tại
khoản 1 Điều này với hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ,
kim khí quý, đá quý trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới
300.000.000 đồng hoặc di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch
sử, văn hóa mà đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành
vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 189,
190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật hình
sự 2015 hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm, trừ trường hợp quy định
tại điểm đ khoản này, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng
đến 1.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2
Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến
3.000.000.000 đồng;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3
Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến
7.000.000.000 đồng;
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản
4 Điều này, thì bị phạt tiền từ 7.000.000.000
đồng đến 15.000.000.000 đồng hoặc bị đình chỉ
hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;
đ) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của
Bộ luật hình sự 2015, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
e) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh,
hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy
động vốn từ 01 năm đến 03 năm
2 Xem, Điều 188 BLHS năm 2015. NXB Chính trị QG
sự thật, năm 2017, tr142-143
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI...
52 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
thương mại thực hiện sẽ là tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng.
Tuy nhiên, nếu tội phạm mà pháp
nhân thương mại thực hiện tại điểm đ,
khoản 6 Điều 188: “phạm tội thuộc trường
hợp quy định tại Điều 188: Phạm tội thuộc
trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật
này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn”. Vậy,
trường hợp này, dựa vào tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, loại
tội phạm mà pháp nhân thương mại thực
hiện là tội phạm nào khi không có khoản
tương ứng đối với hành vi phạm tội do cá
nhân thực hiện?
Theo quy định của BLHS năm 2015
có 21 trường hợp có quy định tương tự
như điểm đ khoản 6 Điều 188 bao gồm:
điểm đ khoản 6 Điều 188, điểm d khoản 5
Điều 189, điểm d khoản 5 Điều 190, điểm
d khoản 5 Điều 191, điểm d khoản 5 Điều
192, điểm đ khoản 6 Điều 193, điểm đ
khoản 6 Điều 194, điểm đ khoản 6 Điều
195, điểm d khoản 5 Điểu 200, điểm c
khoản 4 Điểu 203, điểm c khoản 4 Điểu 211,
điểm d khoản 5 Điều 234, điểm d khoản 5
Điều 235, điểm d khoản 5 Điều 237, điểm
d khoản 5 Điều 238, điểm d khoản 5 Điều
239, điểm d khoản 5 Điều 243, điểm d
khoản 5 Điều 244, điểm c khoản 4 Điều
245, điểm b khoản 4 Điều 300, điểm d
khoản 6 Điều 324. Những trường hợp này
cũng không phân loại tội phạm được đối
với pháp nhân thương mại phạm tội.(1)
Thứ hai, khoản 2, Điều 75 BLHS năm
2015 quy định việc pháp nhân thương
mại chịu TNHS không loại trừ TNHS của
cá nhân. Quy định này làm phát sinh một
vấn đề là cá nhân và pháp nhân thương
mại là cùng nhau phạm tội thì có được
xem là đồng phạm trong cùng một vụ án
hay không? Xác định lỗi và vai trò của cá
1 Nguyễn Văn Thuyết, Bình luận những điểm mới của
Bộ luật hình sự hiện hành, sửa đổi, bổ sung năm 2017,
NXB Chính trị Quốc gia sự thật, năm 2018, tr29-32
nhân và pháp nhân thương mại với một
hành vi phạm tội của pháp nhân thương
mại như thế nào? Trong một vụ phạm tội
của pháp nhân thì cá nhân sẽ phải chịu
trách nhiệm về cùng một tội danh hay sẽ
bị xử lý theo tội danh khác? Tội danh khác
đó, nếu có là tội gì? Trong trường hợp bị
xét xử cùng một tội danh thì có xem xét
vấn đề đồng phạm không?(2) Tất cả những
câu trả hỏi này BLHS năm 2015 không
quy định rõ.
Thứ ba, khoản 1 Điều 75 BLHS năm
2015 quy định những điều kiện cần và
đủ để xác định TNHS đối với pháp nhân.
Điều này cho thấy BLHS năm 2015 đã áp
dụng các điều kiện để truy cứu TNHS của
pháp nhân theo học thuyết đồng nhất hóa
TNHS(3). Tuy nhiên, để áp dụng thuận
lợi và thống nhất trong thực tiễn xét xử,
phòng ngừa đấu tranh và chống tội phạm,
vì ở nước ta mặc dù đã ban hành nghị
quyết ban hành án lệ của Tòa án nhân dân
tối cao, tuy nhiên Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao lại chưa ban hành
án lệ về trường hợp này. Theo chúng tôi,
để giải quyết vướng mắc này cần phải
phân loại TNHS theo dạng hành vi cụ thể
của pháp nhân với 3 trường hợp: (i) Pháp
nhân có thể phải chịu TNHS về hành vi
không được thực hiện nghĩa vụ được quy
định trực tiếp cho pháp nhân; (ii) Pháp
nhân có thể phải chịu TNHS về hành vi
phạm tội được thực hiện nhân danh và
vì lợi ích của pháp nhân; (iii) Pháp nhân
phải chịu TNHS trong trường hợp người
của pháp nhân đã phạm tội khi thực hiện
công việc được pháp nhân giao và việc
2 Bạch Ngọc Du (2016), Một số vấn đề về trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thương mại quy định trong
Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Nghề Luật, Số
4/2016, tr. 39 - 43.
3 Ths. Vũ Hoài Nam, NXBTP – Bộ Tư pháp, Tìm hiểu
học thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm trong khoa
học luật hình sự,
nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1698
ĐỖ LƯỜNG THIỆN
53Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
phạm tội này có phần lỗi của pháp nhân.(1)
Theo chúng tôi, cách xác định này cũng
có những điểm hợp lí và có thể phù hợp
cho việc truy cứu TNHS của pháp nhân
và đặc biệt, phù hợp với lí luận khoa học
luật hình sự Việt Nam.(2)
Thứ tư, xác định “lỗi” của pháp nhân
Trong việc quyết định cấu trúc pháp
lý của trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân, thì lỗi của chủ thể thuộc về mặt chủ
quan của hành vi phạm tội là vấn đề gây
tranh cãi chủ yếu nhất. Lỗi được hiểu là
nhận thức, thái độ tâm lý của con người
về hành vi của chính mình. Trong khi đó,
pháp nhân là một thực thể có tính pháp lý
(do pháp luật đặt ra) không thể có nhận
thức hay tâm lý như một con người. Vì
vậy, yếu tố lỗi của chủ thể như là một
yếu tố không thể thiếu được của hành vi
không thể có ở pháp nhân và do đó, khái
niệm “lỗi” không thể áp dụng trực tiếp
cho chủ thể là pháp nhân.(3) Tuy nhiên
như đã phân tích ở trên, theo chúng tôi lỗi
của pháp nhân được hiểu dựa trên những
yếu tố nằm trong lỗi thuộc về hành vi của
người lãnh đạo hoặc người dại diện có thẩm
quyền của pháp nhân. Khi hành vi phạm
tội do người lãnh đạo, người đại diện có
thẩm quyền gây ra thì pháp nhân phải
chịu trách nhiệm hình sự với tư cách là
người thực hiện, còn khi nhân viên của
pháp nhân đóng vai trò đồng phạm hành
vi tội phạm thì pháp nhân phải chịu trách
nhiệm hình sự với tư cách là đồng phạm.
Thêm vào đó, việc quy định về điều
kiện truy cứu trách nhiệm hình sự của
1 Nguyễn Ngọc Hòa (2014), Trách nhiệm hình sự của
chủ thể là tổ chức và vấn đề sửa đổi Bộ luật Hình sự Việt
Nam, Tạp chí Luật học, số 12, tr9-16.
2 TS. Phan Thị Nhật Tài & Trịnh Tuấn Anh, Khoa
Luật, Đại học Duy Tân.
tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=410
3 Đào Trí Úc, Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân
trong Luật hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
3/2015, tr 49-55
pháp nhân thương mại theo quan điểm
của chúng tôi là chưa phù hợp.
Ví dụ: tại Điều 216 tội trốn đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động. Đối với tội
này là trường hợp quy định về việc pháp
nhân phải chịu TNHS về hành vi không
thực hiện nghĩa vụ được quy định trực
tiếp cho pháp nhân. Khi không thực hiện
nghĩa vụ này ở mức độ nghiêm trọng (bị
coi là tội phạm), doanh nghiệp có thể phải
chịu TNHS. Đối với dạng hành vi này
không thực hiện nghĩa vụ này, luật không
đòi hỏi thêm điều kiện để xác định TNHS
như Điều 75.
Ngoài ra, ở điều kiện (a) và (b) của
Điều 75 BLHS, hành vi phạm tội được
thực hiện nhân danh pháp nhân thương
mại, hành vi phạm tội được thực hiện
vì lợi ích của pháp nhân thương mại. Ví
dụ doanh nghiệp có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự về việc lãnh đạo doanh
nghiệp hoặc về việc công nhân phá rừng
trái phép vì lợi ích của doanh nghiệp theo
sự chỉ đạo của lãnh đạo doanh nghiệp.(4)
Trong trường hợp này, vấn đề TNHS của
pháp nhân mới cần 2 điều kiện là hành vi
phạm tội phải nhân danh và vì lợi ích của
pháp nhân. Như vậy, chỉ cần 2 điều kiện
được quy định tại điểm (a) và điểm (b) có
ý nghĩa xác định TNHS của pháp nhân
trong trường hợp này.
Ở điều kiện thứ 3 hành vi phạm tội
được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành
hoặc chấp thuận của pháp nhân thương
mại, chúng tôi cho rằng, pháp nhân phải
chịu TNHS trong trường hợp người của
pháp nhân đã phạm tội khi thực hiện công
việc được pháp nhân giao và việc phạm
tội này có phần lỗi của pháp nhân.
4 Xem Điều 232 tội vi phạm quy định về khai thác,
bảo vệ rừng và lâm sản, BLHS 2015. NXB Chính trị
Quốc gia năm 2017, tr 214
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI...
54 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
Ví dụ: Trong khi thực hiện công việc
được doanh nghiệp giao, người lao động
đã gây hậu quả làm chết người theo
điểm c khoản 3 Điều 192 - Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả, rõ ràng sự việc xảy
ra có phần lỗi của doanh nghiệp... Việc
truy cứu TNHS đối với pháp nhân trong
trường hợp này là có cơ sở và cần thiết
để răn đe, buộc pháp nhân phải có biện
pháp phòng ngừa sự tái diễn hành vi
phạm tội tương tự trong tương lai. Do đó,
các điều kiện được quy định tại khoản 1
Điều 75 hoàn toàn không có ý nghĩa đối
với việc xác định TNHS của pháp nhân
trong trường hợp thứ 3.
Thứ năm, về phạm vi chịu TNHS
của pháp nhân. Theo Điều 76 liệt kê các
tội danh(1) cụ thể mà pháp nhân có thể
phải chịu TNHS về các tội danh đó. Theo
quan điểm của chúng tôi, với việc quy
định như Điều 76, người đọc có thể nhận
biết được phạm vi chịu TNHS của pháp
nhân thương mại phạm tội về những
tội danh đã được liệt kê. Tuy nhiên, về
mặt kỹ thuật lập pháp quy định này lại
chưa hợp lý, vì khi thêm hoặc bớt 1 tội
danh có quy định TNHS của pháp nhân
thì không những phải sửa đổi điều luật
về tội danh có liên quan mà cũng phải
sửa cả Điều 76. Hơn nữa, việc quy định
về cùng một nội dung không nhất thiết
phải sử dụng phương pháp “bắc cầu”
giữa 2 điều luật.
Mặc dù BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017 đã đánh dấu một bước
tiến quan trọng trong tư duy lập pháp
hình sự; tiếp tục thể hiện tinh thần chủ
động phòng ngừa và kiên quyết đấu
1 Nguyễn Văn Thuyết, So sánh và thống kê BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với BLHS năm 1999
(sửa đổi bổ sung năm 2009), nxb Lao động, năm 2018.
tr 339
tranh chống tội phạm, góp phần bảo vệ
chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ
chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ
chức, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
của nước ta. BLHS năm 2015 quy định
pháp nhân là chủ thể của tội phạm, đây
là điểm mới nổi bật, mang tính đột phá
trong chính sách và tư duy lập pháp
hình sự nước ta. Tuy nhiên, đây là vấn
đề mới nên BLHS năm 2015 quy định
trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo
hướng chỉ áp dụng trách nhiệm hình
sự đối với pháp nhân thương mại; xác
định cụ thể 33 tội danh, là các tội danh
mang tính chất thuần túy về kinh tế, môi
trường, an toàn công cộng và trật tự công
cộng; quy định rõ ba điều kiện để một
pháp nhân thương mại phải chịu trách
nhiệm hình sự và quy định các chế tài áp
dụng đối với pháp nhân phạm tội bao
gồm ba hình phạt chính, ba hình phạt bổ
sung và bốn biện pháp tư pháp. Để triển
khai và áp dụng có hiệu quả, thiết nghĩ
các cơ quan chức năng cần có văn bản
hướng dẫn cụ thể để khắc phục các hạn
chế như: các trường hợp đã phân tích ở
trên và thậm chí trường hợp pháp nhân
bị đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc
đình chỉ hoạt động vĩnh viễn thì quyền
lợi của người lao động, của chủ nợ, các
đối tác đang có hợp đồng hợp tác, kinh
doanh với pháp nhân này sẽ được giải
quyết như thế nào?
Những vấn đề này BLHS năm 2015
chưa dự trù đến. Điều này cần tiếp tục
nghiên cứu, hoàn thiện để có những văn bản
hướng dẫn thi hành BLHS mới, có những
bước tiến hành thận trọng, phù hợp./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trach_nhiem_hinh_su_cua_phap_nhan_thuong_mai_pham_toi_theo_q.pdf