Đối với thiệt hại hình thành trong
tương lai hay không thể khai thác
Qua thực tiễn xét xử có thể thấy khả
năng bên bị thiệt hại có thể được bồi thường
đối với các thiệt hại hình thành trong tương
lai hay mất khả năng khai thác tài nguyên, khi
chứng minh rõ ràng, thuyết phục về những
thiệt hại đó. Trong những năm 1950, Hoa
Kỳ đã tiến hành một số thử nghiệm hạt nhân,
gây thiệt hại cho Atoll Enewatak và Quần
đảo Marshall. Giải quyết vấn đề Hoa Kỳ đã
thực hiện các khoản bồi thường vì thiệt hại
đã gây ra. Tuy nhiên, Chính phủ Nhật Bản
tuyên bố rằng “Chính phủ Hoa Kỳ có trách
nhiệm bồi thường tổn thất kinh tế có thể có vì
đã thiết lập vùng nguy hiểm”51. Đáp lại, Hoa
Kỳ không bác bỏ việc quy trách nhiệm, nếu
có bất kỳ bằng chứng về thiệt hại kinh tế đáng
kể thì họ sẽ xem xét đến vấn đề bồi thường52.
Trong vụ Gabčíkovo-Nagymaros, khi
nộp đơn trước Toà án, Hungary đã lập luận
rằng việc xây dựng dự án đập lớn trên sông
Danube đặt ra một mối nguy hiểm nghiêm
trọng đối với tài nguyên môi trường và nguồn
nước. Ngoài ra, nó có thể đe dọa thực vật và
động vật đang tồn tại, trái với nguyên tắc cấm
gây tổn hại xuyên biên giới đối với các quốc
gia láng giềng, như đã được phản ánh trong
vụ Trọng tài Trail Smelter, vụ kênh Corfu và
Nguyên tắc 21 của Tuyên bố Stockholm53.
Kết quả là Hungary, khi đối mặt với nguy cơ
thiệt hại cho môi trường, đã quyết định ngừng
các công việc trong khu vực54.
Như vậy, có thể thấy rằng, trong những
trường hợp đó, các cơ quan tài phán quốc tế
thừa nhận rằng môi trường của các quốc gia
láng giềng hiện tại không bị tổn hại, nhưng
nếu tương lai dẫn đến thiệt hại, các quốc
gia này xứng đáng được bồi thường. Chúng
tôi ủng hộ quan điểm này, vì về nguyên tắc
pháp luật chung, nếu thiệt hại có mối quan
hệ nhân quả với hành vi gây hại thì chủ thể
gây thiệt hại phải bồi thường, trong trường
này cũng tương tự như vậy.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia gây thiệt hại khi khai thác tài nguyên xuyên quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUỐC TẾ CỦA QUỐC GIA
GÂY THIỆT HẠI KHI KHAI THÁC TÀI NGUYÊN XUYÊN QUỐC GIA
Tóm tắt:
Tài nguyên xuyên biên giới như nguồn nước quốc tế, môi trường
không khí là những loại dùng chung giữa các quốc gia, đặc biệt
là các quốc gia láng giềng. Pháp luật quốc tế đòi hỏi các quốc gia
phải có trách nhiệm không gây thiệt hại khi khai thác, sử dụng
những loại tài nguyên này 1. Tuy nhiên, trên thực tế, có những
quốc gia vẫn thực hiện những hành vi gây hại cho môi trường
của quốc gia khác. Vậy việc truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc
tế của những quốc gia này sẽ được thực hiện như thế nào khi luật
quốc tế chưa có những điều ước quy định về trách nhiệm pháp lý
quốc tế, mà thường giải quyết thông qua những tập quán quốc tế,
phán quyết trước đó của những cơ quan tài phán quốc tế? Thông
qua những vụ việc đã được giải quyết, bài viết phân tích về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của quốc gia khi thực hiện những hành
vi gây ô nhiễm không khí xuyên biên giới hay gây thiệt hại cho
nguồn nước quốc tế (nước ngọt).
1 Xem thêm Lê Minh Nhựt, Trách nhiệm không gây thiệt hại khi khai thác nguồn nước quốc tế và môi trường không khí,
Tạp chí Khoa học pháp lý số 01/2019.
Lê Minh Nhựt*
Phùng Hồng Thanh**
* ThS. GV. Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
* ThS. GV. Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Abstract
Transboundary resources such as international water sources
and air are those shared among countries, especially neighboring
countries. International law requires the countries for non-
damage responsibility when exploiting and using these resources.
However, the reality shows that there are countries that still carry
out acts that are harmful to the environment of other countries.
How will these countries' international legal responsibilities be
pursued when there is no international treaty about this issue,
which are often resolved through customs and practices. Through
the resolved cases, this article analyzes the nation's responsibility
to compensate for damage fromcausingtransboundary air
pollutionor casusingdamageforinternational water resources.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: trách nhiệm pháp lý quốc tế,
bồi thường thiệt hại về môi trường,
nguồn nước quốc tế, ô nhiễm không khí
xuyên biên giới
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 20/04/2019
Biên tập : 05/05/2019
Duyệt bài : 08/05/2019
Article Infomation:
Keywords: international legal
responsibility; compensation for
environmental damages; international
watercourses; transboundary air
pollution
Article History:
Received : 20 Apr. 2019
Edited : 05 May 2019
Approved : 08 May 2019
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 19(395) T10/2019
Hiện nay, cả Việt Nam và Trung Quốc đều chưa là thành viên của một điều ước quốc tế nào điều chỉnh trực
tiếp về ô nhiễm không khí xuyên biên giới
(ONKKXBG), đồng thời, Hiệp định ASEAN
về kiểm soát ô nhiễm khói mù xuyên biên
giới (AATHP)2 không đủ hữu hiệu để Việt
Nam có thể yêu cầu Indonesia hay những
quốc gia khác chịu trách nhiệm pháp lý
quốc tế khi họ gây ra ONKKXBG. Ngoài
ra, Hiệp định sông Mekong năm 1995 cũng
không phát huy được vai trò của mình trong
việc bảo vệ nguồn nước sông Mekong3...
Do đó, Việt Nam cần thông qua các vụ việc
được xét xử bởi các cơ quan tài phán quốc
tế về bồi thường thiệt hại đối với hành vi
gây ONKKXBG và gây hại cho nguồn nước
quốc tế, để có những đối sách phù hợp trước
những hành vi gây hại cho môi trường quốc
gia do quốc gia khác gây nên.
Thứ nhất, quốc gia phải có nghĩa vụ
“tận tâm” trong việc khai thác tài nguyên
xuyên biên giới
Việc cho phép thực hiện những hành
vi như xây dựng nhà máy, đốt rừng để sản
xuất nông nghiệp, điều chỉnh dòng chảy,
xả thải gây ô nhiễm; hay việc không có
những biện pháp thích hợp để ngăn chặn
những hành vi vi phạm pháp luật; quản lý
không hiệu quả sẽ tạo ra trách nhiệm của
quốc gia gây thiệt hại. Điều này đã được Ủy
ban Pháp luật quốc tế khẳng định4. Theo
đó, các hành động hoặc những thiếu sót có
thể tạo ra trách nhiệm pháp lý quốc tế cho
2 AATHP: ASEAN Agreement on Transboundary Haze Pollution.
3 Nguyễn Minh Quang, Cuộc chiến nguồn nước trên dòng Mê Kông và nguy cơ Việt Nam, Tạp chí Năng lượng Việt Nam,
tháng 8/2017.
4 UN Doc A/32/183 arts 5-8, 10-14 (1977), 16 Int L Mat 1249.
5 Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển (The United Nations Conference on Environment and Development
- UNCED), còn được gọi là Hội nghị Thượng đỉnh Trái Đất Rio de Janeiro và Hội nghị Rio, là một hội nghị của Liên
hợp quốc được tổ chức tại Rio de Janeiro từ ngày 3 tới ngày 14/6/1992.
6 Rio Declaration on Sustainable Development and Agenda 21, 31 ILM (1992) at 874.
7 Convention on Long-Range Transboundary Air Pollution (CLRTAP).
8 OJ NOC 22230/8/80. Điều 6(8) of the 1974 Helsinki Convention on the Baltic Sea, 13 ILM (1974) at 546. Điều 204 và
Điều 207 UNCLOS 1982, 21 ILM (1982) at 1261; 1140 UNTS at 133.
quốc gia sẽ bao gồm hành động của các cơ
quan lập pháp, hành pháp, tư pháp hay chính
sách, pháp luật của chính quyền địa phương.
Tuy nhiên, việc hành động hoặc không hành
động để kiểm soát ONKKXBG, gây hại cho
nguồn nước quốc tế của quốc gia đến mức độ
nào thì cần phải làm rõ hơn. Ở đây, quốc gia
cũng sẽ phải chịu trách nhiệm khi các quan
chức của họ đã không hành động một cách
“tận tâm” (the due diligence obligations) và
không ngăn cản hành vi của cá nhân, tổ chức
của quốc gia gây ra thiệt hại.
Hiện nay, khái niệm “tận tâm” đã được
đề cập trong một số điều ước quốc tế nhưng
không có giải thích rõ ràng. Hội nghị Liên
hợp quốc về Môi trường và Phát triển5 ngầm
công nhận nghĩa vụ về “tận tâm”, với khuyến
cáo ngăn ngừa ô nhiễm môi trường phải được
lồng ghép vào quá trình phát triển, trong điều
kiện của từng quốc gia6. Nghĩa vụ “tận tâm”
cũng được ghi nhận trong Chương 2 Điều
2 của Hiệp ước CLRTAP 19797 đòi hỏi các
bên phải “nỗ lực để hạn chế, và càng nhiều
càng tốt dần dần làm giảm và ngăn ngừa ô
nhiễm không khí”. Thuật ngữ tương tự được
sử dụng trong Nghị quyết của Hội đồng EEC
năm 1980 về ONKKXBG gây ra bởi sulphur
dioxide và bụi. Nghị quyết buộc các quốc gia
thành viên phải nỗ lực để “hạn chế, giảm dần
dần và ngăn ngừa tình trạng ONKKXBG”8.
Như vậy, các điều ước này đều đặt ra nghĩa
vụ cho các quốc gia là phải “tận tâm” kiểm
soát ONKKXBG, nhưng không giải thích thế
nào là nghĩa vụ “tận tâm”.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 19(395) T10/2019
Trong vụ Gabčikovo-Nagymaros,
Hungary đã lập luận rằng, nghĩa vụ phòng
ngừa thiệt hại không phải là một điều tuyệt
đối, nguyên tắc sử dụng vô hại của lãnh thổ
sẽ được áp dụng theo từng quốc gia cụ thể9.
Đề xuất của Hungary không bị phản đối bởi
Cộng hòa Slovakia. Theo đó, Slovakia cho
rằng, trong từng hoàn cảnh cụ thể, Hungary
đã làm tất cả những gì có thể mong đợi từ
một chính phủ để thực hiện hợp lý các nghĩa
vụ quốc tế. Trong vụ Salvador Prats, Uỷ ban
Các yêu cầu bồi thường Mexico - Hoa Kỳ
cho rằng “Nhiệm vụ bảo vệ môi trường của
chính phủ phải được thực hiện theo nguyên
tắc chung của luật pháp quốc tế hoặc được
quy định trong các điều ước, và chỉ được
thực hiện trong khả năng của quốc gia đó”10.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế
nào để đánh giá việc hành động hay không
hành động trong kiểm soát thiệt hại có phù
hợp với “khả năng” của các quốc gia? Điều
này rất khó để chứng minh. Theo chúng tôi,
quốc gia sẽ phải chịu trách nhiệm về việc
không hành động một cách hợp lý để bảo
vệ con người, tài sản của công dân quốc gia
khác, vì đã cho phép các cá nhân, pháp nhân
trên lãnh thổ của mình gây ô nhiễm không
khí. Ngoài ra, trách nhiệm cũng có thể xảy
ra khi quốc gia không có hành động để truy
tố các cá nhân, tổ chức có liên quan gây ra
thiệt hại, cũng có thể chịu trách nhiệm khi
từ chối hoặc cản trở việc tiếp cận với tòa án,
thủ tục giải quyết chậm trễ, một phán quyết
rõ ràng không công bằng hoặc không bồi
thường hợp lý11.
9 Counter-Memorial of the Republic of Hungary, Vol. I, para 6.134.
10 Moore, International Arbitrations, n. 28 above at 2886–93. See also the Alabama Arbitration, Moore, Arbitrations, Vol.
I, at 494–682; but see Montijo Case (1874) (UnitedStates v. Colombia), Moore, Arbitrations, Vol. II, at 1421–44.
11 Sharon Williams, Public International Law Governing Transboundary Pollution, 12 Int'l Bus. Law. 243, 252 (1984).
12 IV RIAA, at 60; Commission in the Laura Mecham Case, IV RIAA at 440–3.
13 Verbatim Record CR 95/20, Public Sitting of 12 September 1995 at 33.
14 Lier, op cit., I H van Lier, Acid Rain and International Law (1981), p 127; I Brownlie, Principles of Public International
Law (3rd ed., 1979), pp 436-439.
Trong trường hợp L. F. H. Neer and
Pauline Neer (U.S.A.) v. United Mexican
States, Ủy ban bồi thường Mexico - Hoa
Kỳ cho rằng, Mexico không bắt giữ và
trừng phạt những kẻ có tội trong việc giết
một công dân Hoa Kỳ là vi phạm luật pháp
quốc tế, vì đã cố ý không thực hiện nghĩa vụ
hoặc sự thiếu sót trong hành động của chính
phủ12. Trong Nuclear Test case năm 1995,
New Zealand đã lập luận: Pháp chỉ có thể
khẳng định là họ đã tuân thủ các nghĩa vụ
về “sự tận tâm” bằng cách chứng minh rằng
họ đã thực hiện một đánh giá tác động môi
trường và khẳng định tuyệt đối rằng không
có thiệt hại môi trường sẽ xảy ra và phải
tham khảo các tiêu chuẩn đánh giá tác động
môi trường quốc tế13.
Như vậy, cơ sở để truy cứu trách nhiệm
pháp lý quốc tế khi gây ra ô nhiễm môi
trường không khí xuyên biên giới trước hết
phải là hành động hoặc thiếu sót của quốc
gia hoặc được quốc gia thừa nhận, trong đó
những hành động phải được thực hiện “tận
tâm”. Sự tận tâm sẽ được tính đến trong từng
điều kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia và
sẽ được thực hiện theo hướng quốc gia phải
nỗ lực nhiều nhất trong điều kiện có thể để
kiểm soát ONKKXBG.
Thứ hai, xác định lỗi
Khó khăn nhất của vấn đề trách nhiệm
pháp lý quốc tế đối với hành vi gây thiệt hại
là xác định lỗi. Bởi lẽ, nếu không có lỗi thì
quốc gia sẽ không chịu trách nhiệm. Tuy
nhiên, hành vi gây ô nhiễm không khí sẽ
phải chịu trách nhiệm với lỗi chủ quan hay
lỗi khách quan?14
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 19(395) T10/2019
Lỗi khách quan có nghĩa rằng, quốc
gia không chủ tâm gây ô nhiễm mà do thiếu
sót về pháp luật, quản lý hay không có hành
động thích hợp dẫn đến thiệt hại. Ví dụ,
quốc gia không kiểm tra, giám sát các nhà
máy, các khu rừng dẫn đến nhà máy xả thải
nghiêm trọng hay rừng bị đốt phá để sản
xuất nông nghiệp gây ra ô nhiễm. Đối với
những hành vi như vậy, việc truy cứu trách
nhiệm pháp lý quốc tế về môi trường sẽ có
tính chất khác với những hành vi chủ tâm
gây thiệt hại môi trường xuyên biên giới.
Khi đó, trách nhiệm pháp lý quốc tế chắc
chắn sẽ nặng nề hơn.
Như vậy, trách nhiệm pháp lý quốc tế
đối với hành vi gây ONKKXBG là do lỗi
khách quan, sẽ bị truy cứu theo trách nhiệm
pháp lý quốc tế khách quan15. Nghĩa là quốc
gia có quyền sử dụng, khai thác tài nguyên
không khí trong lãnh thổ của mình, nhưng
gây ra thiệt hại thì sẽ phải có trách nhiệm bồi
thường, khắc phục hậu quả. Trong vụ San
Juan River16, một Ủy ban trọng tài được thành
lập bởi Costa Rica và Nicaragua để phân định
ranh giới chung của họ theo các điều khoản
của Hiệp ước Cañas-Jerez Treaty năm 185817.
Theo Hiệp ước Cañas-Jerez năm 1858, được
tái khẳng định bởi trọng tài được chọn là tổng
thống Grover Cleveland của Hoa Kỳ vào năm
1888 và được giải thích bởi Tòa án Công lý
15 I H van Lier, Acid Rain and International Law (1981), p. 128.
16 J. B. Moore, International Arbitrations to which the United States has been a Party, Vol. II at p.1964.
17 J. B. Moore, p. 4706.
18 Costa Rica không thể ngăn Nicaragua thực hiện trong lãnh thổ của mình các công trình cải tiến, với điều kiện những
cải tiến như vậy không dẫn đến sự chiếm đóng hoặc ngập lụt hay thiệt hại trên lãnh thổ Costa Rica, hoặc trong việc phá
hoại hoặc suy yếu nghiêm trọng sự lưu thông của dòng sông nêu trên hoặc bất kỳ nhánh nào của nó tại bất kỳ điểm nào
mà Costa Rica có quyền lưu thông như vậy. Costa Rica có quyền yêu cầu bồi thường cho bất kỳ vùng đất nào trên cùng
một lưu vực của sông San Juan có thể bị ngập lụt hoặc thiệt hại dưới bất kỳ hình thức nào khác do hậu quả của các hoạt
động cải tiến. Các quyền tự nhiên của Costa Rica được coi là bị thiệt hại trong bất kỳ trường hợp nào mà lãnh thổ thuộc
Costa Rica bị chiếm giữ hoặc bị ngập lụt. (J. B. Moore, International Arbitrations to which the United States has been
a Party, Vol. II at 1964–6).
19 L F E Goldie, Liability for Damage and the Progressive Development of International Law (1965), 14 Int and Comp L
Q 1201, at pp 1227- 1231.
20 Trail Smelter Arbitration (1941), 111 UNRIAA 1905.
21 I H van Lier, Acid Rain and International Law (1981), p128.
22 Between Canada and the United States (1968), 8 Int L Mat 118.
Trung Mỹ năm 1916 (trường hợp Costa Rica
với Nicaragua), Nicaragua có chủ quyền đối
với Río San Juan và Costa Rica có quyền lưu
thông qua một phần của con sông nhằm mục
đích thương mại trong trường hợp cần thiết.
Trọng tài đã cho rằng, Costa Rica không thể
ngăn Nicaragua các dự án nhưng có quyền
yêu cầu bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra18.
Như vậy, Nicaragua vẫn được phép thực hiện
những dự án trên sông San Juan, điều này phù
hợp với thỏa thuận giữa hai bên, nhưng phải
bồi thường thiệt hại cho Costa Rica nếu có
thiệt hại xảy ra. Do đó, có thể thấy rằng, hành
vi của Nicaragua không vi phạm luật quốc tế,
thiệt hại và lỗi là khách quan.
Ngoài ra, có thể thấy rằng, trách
nhiệm pháp lý quốc tế đối với hành vi gây
ONKKXBG nói riêng và gây thiệt hại do
khai thác tài nguyên xuyên quốc gia nói
chung, trong nhiều trường hợp, cơ quan tài
phán không xem xét đến yếu tố lỗi. Nghĩa
là cho dù lỗi hay không, quốc gia gây thiệt
hại cũng phải bồi thường và khắc phục sự
cố. Thực tiễn xét xử của cơ quan tài phán
quốc tế trong trường hợp của kênh Corfu19
và Trail Smelter20 thậm chí không có lỗi nào
được hình thành21. Tương tự, vụ Gut Dam
năm 1968 liên quan đến hồ Ontario22, trọng
tài không quan tâm đến việc Canada có lỗi
hoặc nhận biết được thiệt hại trong tương
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 19(395) T10/2019
lai hay không, Canada đã phải chịu trách
nhiệm. Trong vụ Lac Lanoux23 giữa Pháp và
Tây Ban Nha, lỗi của phía Pháp không phải
là yêu cầu bắt buộc phải có. Trong Tuyên
bố Stockholm ngày 16/6/1972 cũng không
đề cập đến yếu tố lỗi24. Một số quốc gia
thuộc OECD25 cho rằng buộc phải chịu trách
nhiệm mặc dù không có lỗi26.
Như vậy, việc truy cứu trách nhiệm
quốc tế trong lĩnh vực môi trường nói chung
và cụ thể là ONKKXBG, thông thường là do
lỗi khách quan, thậm chí không tính đến yếu
tố lỗi. Chỉ cần xác định nguyên nhân gây
thiệt hại về con người, tài sản, môi trường là
do quốc gia đã không hành động hoặc hành
động không phù hợp gây nên thì quốc gia
đó phải có trách nhiệm bồi thường. Cho dù
quốc gia đó viện dẫn rằng, họ chỉ đang thực
hiện chủ quyền về khai thác tài nguyên trong
lãnh thổ của họ.
Thứ ba, xác định thiệt hại
Về nguyên tắc, hành vi gây thiệt hại
môi trường xuyên biên giới do lỗi khách
quan gây ra thì cần có sự xuất hiện của hậu
quả của hành vi, nghĩa là phải có thiệt hại,
và thiệt hại ở đây phải là thiệt hại “nghiêm
trọng”, “đáng kể”, vậy làm thế nào xác định
mức độ nghiêm trọng của thiệt hại? Tiếp
đến, thiệt hại trong trường hợp ô nhiễm môi
trường không khí xuyên biên giới là những
loại thiệt hại nào, thiệt hại vật chất, thiệt hại
tinh thần hay thiệt hại chắc chắn hình thành
trong tương lai?
23 United Nations Reports of International Arbitral Awards, XII UNRIAA, 1957, p.303.
24 Declaration of the United Nations Conference on the Human Environment, Doc A/CONF 48/14/Rev 1, principles 21
and 22.
25 Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (tiếng Anh: Organization for Economic Co-operation and Development). OECD
có 34 thành viên là các nước kinh tế thị trường phát triển nhất thế giới cũng như 70 nước không phải là thành viên, cùng
nhau bàn bạc, trao đổi kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề kinh tế cũng như các vấn đề chung khác.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tổ_chức_Hợp_tác_và_Phát_triển_Kinh_tế (truy cập 05/12/2018).
26 I H van Lier, Acid Rain and International Law (1981), p. 129; L F E Goldie, Liability for Damage and the Progressive
Development of International Law (1965), 14 Int and Comp L Q 1201, at pp 1231-1233; J Schneider, World Public
Order of the Environment: towards an International Ecological Law and Organisation (1979), p. 167.
27 D. P. O'Connell, InternationalLaw, Vol. II, at 945 (1970). For an interesting treatment of this general concept in munic-
ipal law, see W. Keeton and C. Morris, “Balancing the Equities,” 18 Tex. L. R. 412 (1940).
Trước hết, xác định mức độ nghiêm
trọng của thiệt hại. Vấn đề đặt ra là như thế
nào được xem là ô nhiễm “đáng kể” hoặc
“hậu quả nghiêm trọng”? Có nhiều quan
điểm cho rằng, phải dựa vào tiêu chí “hợp
lý và khách quan” để đánh giá từng trường
hợp cụ thể27. Điều đó cần cân bằng các lợi ích
xã hội, kinh tế và chính trị của các quốc gia
có liên quan. Một điều đáng lưu ý là các văn
bản điều ước trong lĩnh vực môi trường nói
chung và ONKKXBG nói riêng không đưa
ra định nghĩa rõ ràng, nhưng qua thực tiễn xét
xử cũng như tham khảo trong quan hệ quốc
tế về sử dụng nguồn nước quốc tế cũng phần
nào diễn giải về “thiệt hại nghiêm trọng”.
Trong việc sử dụng nguồn nước quốc
tế. Nguyên tắc Tránh gây thiệt hại nghiêm
trọng (avoid causing significant harm) được
đề cập ở khá nhiều điều ước quốc tế về nguồn
nước xuyên biên giới như Điều 7 Công ước
New York năm 1997 về Luật Sử dụng các
nguồn nước xuyên biên giới vì mục đích phi
giao thông đường thủy của Liên hợp quốc;
Điều 2.1, Điều 9, Điều 10 Công ước Helsinki
năm 1992 về bảo vệ và sử dụng các nguồn
nước xuyên biên giới và các hồ quốc tế của
Ủy ban Kinh tế Châu Âu, thông qua năm
1992, có hiệu lực năm 1996, Điều 2 Tuyên
bố Rio năm 1992 về môi trường và phát triển
của Liên hợp quốc, Công ước Nordic về Bảo
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 19(395) T10/2019
vệ Môi trường năm 197628. Nhưng chưa có
sự giải thích thống nhất nào về tính “nghiêm
trọng” của hành vi gây thiệt hại. Trên thực
tế, hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hay
không còn tùy thuộc vào từng trường hợp
nhất định và sự thống nhất trong cách đánh
giá của các quốc gia có liên quan.
Điều 10 Công ước Helsinki năm 1992
không cấm gây ô nhiễm, thay vào đó, nó đề
xuất rằng nếu tác động của ô nhiễm như vậy
không phù hợp với khái niệm sử dụng công
bằng29 và “thiệt hại nghiêm trọng” được gây
ra trong lãnh thổ của một quốc gia khác, thì
quốc gia có nghĩa vụ chịu trách nhiệm theo
Điều 11 để chấm dứt hành vi sai trái và bồi
thường cho quốc gia cùng lưu vực bị thiệt
hại. Không phải mọi thiệt hại đều được xem
là “nghiêm trọng”.
Như vậy, có thể hiểu việc gây thiệt hại
nghiêm trọng đối với môi trường sẽ bao gồm
các thiệt hại hoặc tác động bất lợi đến môi
trường sinh thái hoặc sự phát triển kinh tế xã
hội (như tính mạng, sức khỏe của con người,
công nghiệp, tài sản, nông nghiệp). Các thiệt
hại này có thể thể hiện ở các bằng chứng
khách quan, có thể tính toán được, nhưng
cũng có thể là những mối nguy hại đe dọa
sẽ xảy ra một cách tất yếu trong trường hợp
hành vi gây thiệt hại được thực hiện.
Mặc dù rất ít án lệ quốc tế giải quyết
tranh chấp ONKKXBG xác định mức độ
nghiêm trọng của thiệt hại, nhưng qua các
vụ việc về sử dụng công bằng, hợp lý nguồn
28 The Asian-African Legal Consultative Committee in 1973, UN Doc A/CN 4/274 (VolII), p.226. Handl, Balancing
of Interests andInternational Liability for the Pollution ofInternational Watercourses: Customary Principles of Law
Revised (1975), 13 Can Yr Bk Int L 156 at p.186.
29 Lê Minh Nhựt, Khái niệm công bằng tại nguyên tắc công bằng, hợp lý trong sử dụng tài nguyên xuyên quốc gia, Tạp
chí Khoa học pháp lý, Số 05/2018.
30 Third Report, UN Doc. A/CN.4/246 and Add. 1-3, [19711 2 ILC Y.B., part I, 199.
31 350.000 USD cho thiệt hại xảy ra cho đến tháng 1 năm 1932, và 78.000 USD cho những thiệt hại xảy ra giữa tháng 1
năm 1932 và tháng mười năm 1937; không có thiệt hại đã xảy ra giữa 1 tháng 10 năm 1937 và tháng mười một, 1940
(Trail Smelter Arbitration (1941), 111 UNRIAA 1905).
32 J. E. Read, in “The Trail Smelter Dispute,” i Canadian Yearbook of InternationalLaw at 221 (1963).
33 J. B. Moore, International Arbitrations to which the United States has been a Party, Vol. II at 1964.
34 “Comienza dragado del Río San Juan”. La Prensa (Managua) (in Spanish). 2010-10-18. Retrieved 2010-11-16.
nước quốc tế, cũng là một loại tài nguyên
xuyên biên giới, có thể xác định rằng: mức
độ nghiêm trọng hay đáng kể của thiệt hại
sẽ tùy thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh,
năng lực của quốc gia.
Thứ tư, bồi thường thiệt hại
Khi đã xác định được trách nhiệm
pháp lý quốc tế cho quốc gia gây ra thiệt hại
môi trường xuyên biên giới thì vấn đề bồi
thường thiệt hại được đặt ra. Tuy nhiên, đây
là việc không dễ dàng. Các vấn đề đặt ra là
bồi thường thiệt hại trong trường hợp này
bao gồm những loại nào, có thể bao gồm bất
kỳ hậu quả thiệt hại nào cho việc mất lợi
nhuận kinh doanh trong tương lai hay thiệt
hại về tinh thần hay không30; có bắt buộc
chấm dứt hành vi vi phạm, khôi phục lại
trạng thái ban đầu hay có những biện pháp
phòng ngừa thiệt hại trong tương lai.
Đối với thiệt hại vật chất
Trọng tài trong vụ việc Trail Smelter
đã đưa ra phán quyết yêu cầu Chính phủ
Canada phải trả 428.000 USD cho Hoa Kỳ31.
Quan trọng hơn, Trọng tài cũng áp đặt “một
quy chế để kiểm soát lượng khí thải sulphur
dioxide”. Chi phí phát sinh của nhà máy
luyện kim trong việc tuân thủ quy chế này
lên tới 20 triệu đô la32.
Trong vụ San Juan River33, vào
8/10/2010, Nicaragua đã bắt đầu các hoạt
động nạo vét luồng sông San Juan 33 km và
xây dựng các công trình34. Ngày 20/10/2010,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 19(395) T10/2019
Costa Rica cáo buộc Nicaragua vi phạm
chủ quyền của họ khi quân đội Nicaragua
vào lãnh thổ Costa Rica và việc nạo vét
dòng sông gây ra thiệt hại về môi trường ở
những vùng đất ngập nước ở Isla Calero,
một phần của khu bảo tồn thiên nhiên, trong
khu vực thuộc lãnh thổ Costa Rica35. Ngày
18/11/2010, Costa Rica đã khởi kiện chống
lại Nicaragua tại Toà án Công lý Quốc tế
(ICJ). Ngày 16/12/2015, ICJ đã đưa ra phán
quyết và cho rằng Nicaragua có nghĩa vụ bồi
thường cho Costa Rica về thiệt hại vật chất36.
Tháng 6/2016, Costa Rica ước tính khoản
thiệt hại phải trả là 6.700.000 USD37. Ngày
6/6/2016, Nicaragua tuyên bố công khai rằng
họ sẵn sàng trả tiền phạt38. Trong trường hợp
này, các bên cũng chỉ đề cập đến thiệt hại về
vật chất xuất phát từ các hoạt động vi phạm
nghĩa vụ đã được hai bên thỏa thuận.
Như vậy có thể thấy, vấn đề bồi thường
thiệt hại vật chất không gặp phải sự tranh cãi
nhiều trong thực tiễn xét xử quốc tế. Đặc biệt,
thiệt hại vật chất có thể được bồi thường cũng
có thể là thiệt hại về sức khỏe39.
35 Marianela Jimenez (2010-11-02); “Costa Rica denounces alleged Nicaraguan incursion”; Washington Post. Retrieved
2010-11-14.
36 ICJ cho rằng: “Costa Rica có chủ quyền đối với lãnh thổ tranh chấp. Bằng cách vét dòng sông và thiết lập một sự hiện
diện quân sự trên lãnh thổ Costa Rica, Nicaragua đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Costa Rica. Nicaragua vi phạm
phán quyết tạm thời do Tòa án đưa ra vào ngày 8/3/2011. Ngoài ra, Nicaragua đã vi phạm các quyền quy định của Costa
Rica trên sông San Juan theo Cañas-Jerez năm 1858. Nicaragua có nghĩa vụ bồi thường cho Costa Rica về thiệt hại vật
chất do các hoạt động bất hợp pháp của Nicaragua trên lãnh thổ Costa Rica gây ra. Bồi thường sẽ được các bên thoả
thuận trước ngày 16/12/2016 hoặc, nếu không thoả thuận, sẽ do tòa xác định”.
Case Concerning Certain Activities carried out by Nicaragua in the Border Area (Costa Rica v. Nicaragua), International
Court of Justice, 16 December 2015.
37 L. Arias (2016-12-17); “Costa Rica extends deadline to settle payment with Nicaragua for environmental damage”; The
Tico Times, Retrieved 2017-05-15.
38 “Nicaragua Confirms Plans to Pay Costa Rica for Environmental Damages”; The Costa Rica Star. 2016-12-07.
Retrieved 2017-05-27.
39 Diversion of Water from River Meuse (1937), PCIJ, Ser A/B, No 70, pp 4, 73, 76; AngloIranian Oil Co, case, (1951), 1
CJR 89, 93-94, 95; The Electricity Company of Sofia and Bulgaria case (1939), PCIJ Series A/B, No 79, pp 194, 199;
BelgianChinese case (1927), PCIJ, Series A, No 8, pp 6, 7-8.
40 Trọng tài cho rằng: “... không một quốc gia nào có quyền sử dụng hoặc cho phép sử dụng lãnh thổ của mình theo cách
như vậy gây ra thiệt hại bởi khói bụi trong hoặc đến lãnh thổ của người khác hoặc tài sản hoặc con người trong đó, khi
trường hợp có hậu quả nghiêm trọng và thương tích được xác lập bằng bằng chứng rõ ràng và thuyết phục”.
3 UN R.I.A.A. 1905. The Trail Smelter Arbitration, 50 OnEcoN L. ILtv. 259 (1971); and Read, The Trail Smelter
Dispute, 1 C~uAnI Y.B. WrL'r. L. 213 (1963).
41 Tlđd, 1966.
Đối với thiệt hại về tinh thần
Thực tiễn quốc tế cho thấy, dường như
không có đủ cơ sở để chấp nhận bồi thường
về phương diện này và không thể truy cứu
trách nhiệm quốc gia gây thiệt hại nếu không
chứng minh được thiệt hại tinh thần. Trong
vụ việc Trail Smelter, Trọng tài cho rằng,
bên gây ô nhiễm có nghĩa vụ bồi thường cho
những thiệt hại nghiêm trọng với điều kiện
nó phải được chứng minh rõ ràng và thuyết
phục40, nhưng không có giải thích nào thêm
về ý kiến này. Do đó, câu hỏi thiết yếu về
việc “thiệt hại” chỉ có nghĩa là thiệt hại vật
chất hay bao gồm cả thiệt hại về tinh thần
cũng chưa được giải quyết dứt điểm.
Trong quyết định năm 1938, Trọng
tài đã bác bỏ tuyên bố của Hoa Kỳ về “thiệt
hại liên quan đến việc Hoa Kỳ bị vi phạm
chủ quyền”41. Mục duy nhất mà Hoa Kỳ đưa
ra theo yêu cầu bồi thường thiệt hại về “vi
phạm chủ quyền” là một khoản tiền dành cho
“cuộc điều tra được tiến hành bởi Chính phủ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 19(395) T10/2019
Hoa Kỳ về các vấn đề được tạo ra tại Hoa
Kỳ do hoạt động của nhà máy luyện kim”42.
Trọng tài kết luận rằng: “Vì Hoa Kỳ đã
không xác định bất kỳ loại thiệt hại nào dựa
trên cáo buộc vi phạm chủ quyền của họ, vì
vậy trọng tài không cảm thấy rằng họ sẽ có
thẩm quyền đương nhiên để xem xét trong
thực tế, bồi thường thiệt hại có thể đã được
xem xét nếu có cáo buộc cụ thể”43. Rõ ràng
là Trọng tài đã từ chối yêu cầu bồi thường
của Hoa Kỳ bởi vì họ cho rằng, điều khoản
mà Hoa Kỳ đưa ra dưới lý do “vi phạm chủ
quyền”, chi phí tiền phát sinh do hậu quả
của sự vi phạm chủ quyền là không đủ tiêu
chuẩn để được xem là “thiệt hại”. Trọng tài
đã không xem xét và do đó đã bác bỏ yêu
cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần dựa trên
sự vi phạm chủ quyền. Thay vào đó, Trọng
tài chỉ xem xét thiệt hại vật chất bị cáo buộc.
Tương tự, trong phán quyết Lake
Lanoux44, vấn đề bồi thường thiệt hại về tinh
thần cũng không được đề cập đến. Trong vụ
việc San Juan River 45, thiệt hại tinh thần
không được Costa Rica đưa ra và ICJ cũng
như Trọng tài trước đó không xem xét đến.
Trong vụ việc Corfu Channel, ICJ cho rằng
42 Tlđd, 1933.
43 UN R.I.A.A. 1905. The Trail Smelter Arbitration, 50 OnEcoN L. ILtv. 259 (1971); and Read, The Trail Smelter Dispute,
1 C~uAnI Y.B. WrL'r. L. 213 (1963).
44 12 UN R.I.A.A. 281.
45 J. B. Moore, International Arbitrations to which the United States has been a Party, Vol. II at 1964.
46 ICJ REP, 1949, 22, at 35.
47 Tlđd.
48 UN Doe. A/CN.4/96, [1956] 2 ILC Y.B. 219, para. 241.
49 Sự khẳng định tồn tại mối liên hệ giữa chứng minh thiệt hại vật chất và tính hợp pháp hoặc bất hợp pháp của hoạt động
đó gây ảnh hưởng đến môi trường ngoài lãnh thổ đã được khẳng định trong Nuclear Tests case: “Chỉ thị về các biện
pháp tạm thời dường như được hình thành dựa trên sự tồn tại của một quy tắc chung mới của luật pháp quốc tế cấm các
quốc gia tiến hành các cuộc thử nghiệm hạt nhân trong khí quyển. 1973 [1973] ICJ REI. 302, 310.
50 Nhiều quyết định tư pháp quốc tế cũng như thực tiễn của quốc gia khẳng định quan điểm được đưa ra ở đây rằng việc
đền bù thiệt hại về đạo đức cho quốc gia chỉ có thể được thực hiện nếu kết quả thiệt hại do hành vi vi phạm một nghĩa
vụ cụ thể và rõ ràng của luật quốc tế. Do đó, trong Manouba case (Pháp/Ý) phát sinh từ việc bắt giữ và tạm giữ một
chiếc tàu của Pháp trong cuộc chiến Turco-Italia năm 1912, tòa đã đã nhận định rằng, khi không có hàng lậu, việc bắt
giữ và giam giữ tàu trung lập của Pháp, sau khi thực thi quyền hợp pháp của quyền tìm kiếm của các cơ quan chức năng
của Ý, rõ ràng là không hợp pháp. Tuy nhiên, tuyên bố của Pháp về thiệt hại một Franc vì tội xâm phạm lá cờ Pháp bị
bác bỏ. Tương tự trong The Carthage case. Wilson, the Hague Arbitration case 326, 345, 369-370 (1915).
Operation Retail, một hoạt động quét mìn
do các đơn vị hải quân Anh ở vùng biển
Albanian thực hiện, diễn ra ở lãnh hải của
Albanian mà không có sự cho phép trước
Albanian46. ICJ nhận định, yêu cầu của
Albanian về bồi thường cho thiệt hại về
tinh thần thông qua việc vi phạm chủ quyền
Albania là không phù hợp47. Một khoản bồi
thường tổn thất về tinh thần chỉ có thể đặt ra
khi quốc gia có những hành động vi phạm
luật pháp quốc tế, một nghĩa vụ được quy
định chi tiết bởi một điều ước quốc tế48.
Như vậy, qua nghiên cứu các án lệ
quốc tế có liên quan như: Corfu Channel
case, San Juan River case, Trail Smelter
case, Nuclear Tests case49 và I'm Alone
cases50 có thể thấy rằng, việc bồi thường
thiệt hại về tinh thần khi có thiệt hại là rất
khó. Bởi vì, theo nguyên tắc chung của luật
quốc tế, chỉ có trách nhiệm pháp lý quốc tế
chủ quan, tức quốc gia vi phạm nghĩa vụ
cụ thể của luật quốc tế mới phải chịu trách
nhiệm bồi thường về tinh thần. Trong khi
đó, việc sử dụng, khai thác tài nguyên trong
lãnh thổ quốc gia là được phép, nó thuộc
về chủ quyền quốc gia, nhưng từ việc khai
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 19(395) T10/2019
thác, sử dụng đó gây ra thiệt hại cho quốc
gia khác là lỗi khách quan (như đã phân tích
ở trên), nên bồi thường thiệt hại về tinh thần
không thể đặt ra trong trường hợp này.
Đối với thiệt hại hình thành trong
tương lai hay không thể khai thác
Qua thực tiễn xét xử có thể thấy khả
năng bên bị thiệt hại có thể được bồi thường
đối với các thiệt hại hình thành trong tương
lai hay mất khả năng khai thác tài nguyên, khi
chứng minh rõ ràng, thuyết phục về những
thiệt hại đó. Trong những năm 1950, Hoa
Kỳ đã tiến hành một số thử nghiệm hạt nhân,
gây thiệt hại cho Atoll Enewatak và Quần
đảo Marshall. Giải quyết vấn đề Hoa Kỳ đã
thực hiện các khoản bồi thường vì thiệt hại
đã gây ra. Tuy nhiên, Chính phủ Nhật Bản
tuyên bố rằng “Chính phủ Hoa Kỳ có trách
nhiệm bồi thường tổn thất kinh tế có thể có vì
đã thiết lập vùng nguy hiểm”51. Đáp lại, Hoa
Kỳ không bác bỏ việc quy trách nhiệm, nếu
có bất kỳ bằng chứng về thiệt hại kinh tế đáng
kể thì họ sẽ xem xét đến vấn đề bồi thường52.
Trong vụ Gabčíkovo-Nagymaros, khi
nộp đơn trước Toà án, Hungary đã lập luận
rằng việc xây dựng dự án đập lớn trên sông
Danube đặt ra một mối nguy hiểm nghiêm
trọng đối với tài nguyên môi trường và nguồn
nước. Ngoài ra, nó có thể đe dọa thực vật và
động vật đang tồn tại, trái với nguyên tắc cấm
gây tổn hại xuyên biên giới đối với các quốc
gia láng giềng, như đã được phản ánh trong
vụ Trọng tài Trail Smelter, vụ kênh Corfu và
Nguyên tắc 21 của Tuyên bố Stockholm53.
Kết quả là Hungary, khi đối mặt với nguy cơ
51 Whiteman, digest of international law, 585-86 (1965).
52 Ld, 587.
53 Hungary's arguments for termination of the Treaty see Treaty Concerning the Construction and Operation of the
Gabcikovo-Nagymaros System of Locks and Hungarian Termination of Treaty, Sept. 16, 1977, 32 I.L.M. 1247,
1282,1287 (1993).
54 Gabikovo-Nagymaros Project (Hung. v. Slovk.), 1997 I.C.J. 7,150 (Sept. 25).
thiệt hại cho môi trường, đã quyết định ngừng
các công việc trong khu vực54.
Như vậy, có thể thấy rằng, trong những
trường hợp đó, các cơ quan tài phán quốc tế
thừa nhận rằng môi trường của các quốc gia
láng giềng hiện tại không bị tổn hại, nhưng
nếu tương lai dẫn đến thiệt hại, các quốc
gia này xứng đáng được bồi thường. Chúng
tôi ủng hộ quan điểm này, vì về nguyên tắc
pháp luật chung, nếu thiệt hại có mối quan
hệ nhân quả với hành vi gây hại thì chủ thể
gây thiệt hại phải bồi thường, trong trường
này cũng tương tự như vậy.
Kết luận
Vấn đề bồi thường thiệt hại khi có
hành vi gây thiệt hại môi trường xuyên biên
giới không phải lúc nào cũng được giải
quyết một cách dễ dàng. Tuy nhiên, thông
qua những vụ việc được phân tích, chúng ta
thấy rằng, thực tiễn xét xử của các cơ quan
tài phán quốc tế đã dần hoàn thiện về nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại khi có hành vi gây
thiệt hại môi trường xuyên biên giới. Đây
sẽ là cơ sở quan trọng để những quốc gia bị
thiệt hại, trong đó có Việt Nam, tiến hành
các biện pháp ngoại giao (như: đàm phán,
thương lượng, trung gian, hòa giải) hay các
biện pháp tài phán (trọng tài quốc tế, tòa án
quốc tế) để bảo vệ quyền lợi cho mình. Cụ
thể hơn là xác định các thiệt hại xảy ra và
tính toán các yêu sách đòi bồi thường thiệt
hại, khắc phục hậu quả do các hành vi gây ô
nhiễm môi trường xuyên biên giới gây ra
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
28 Số 19(395) T10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trach_nhiem_phap_ly_quoc_te_cua_quoc_gia_gay_thiet_hai_khi_k.pdf