Tư duy mới về mối quan hệ giữa các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa

6. Cần chú ý xử lý tốt mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Trong những năm qua, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong vận hành nền KTTT chưa được giải quyết phù hợp với quy luật thị trường. Để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, chúng ta phải đổi mới tư duy, làm cùng một lúc cả 3 việc lớn: kiện toàn bộ máy nhà nước, kiện toàn hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô, hoàn thiện và phát triển thị trường. Về kiện toàn bộ máy nhà nước: Có thể nói rằng hệ thống luật pháp và bộ máy nhà nước của chúng ta được chú ý củng cố và phát triển, song hiệu lực của hệ thống bộ máy nhà nước và năng lực của cán bộ viên chức còn nhiều mặt không đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ. Điều quan trọng nhất là phải làm cho bộ máy nhà nước vận hành hoàn toàn trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật với những chức năng và kỹ năng ngày càng hoàn thiện, có quyền lực thực chất và hiệu lực mạnh trong toàn bộ lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Về kiện toàn hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô: Cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức để tạo điều kiện phát triển và quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về hoàn thiện và phát triển thị trường: Yêu cầu tối thượng của vấn đề này là cuối cùng, mọi hoạt động kinh tế của bất kỳ ai trong xã hội nước ta đều chịu sự cọ xát, sàng lọc của một thị trường rõ ràng, lành mạnh, được nhà nước kiểm soát, dẫn dắt bằng luật pháp, bằng các chế tài và bằng các biện pháp khuyến khích. Một nền kinh tế mạnh đòi hỏi phải có một thị trường hạn chế được xuống mức thấp nhất các hiện tượng đầu cơ, cửa quyền, độc quyền, kinh tế ngầm, các mafia, sàng lọc các hoạt động kinh tế kém hiệu quả, cung cấp những tín hiệu hữu ích cho mọi quyết định của từng thành viên kinh tế trong xã hội, có khả năng huy động mạnh mẽ nguồn lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

pdf17 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư duy mới về mối quan hệ giữa các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
117 TƢ DUY MỚI VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC QUY LUẬT CỦA KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VÀ ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TS. Đỗ Quang Dũng Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Ở nước ta, mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” từng bước được hình thành trong quá trình đổi mới. Mô hình này đã từng bước được hình thành từ Đại hội VI, đến Đại hội IX được Đảng ta khẳng định là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ. Trong quá trình thực hiện, mô hình này được cụ thể hóa, bổ sung, phát triển, hoàn thiện từng bước qua Đại hội X, XI và XII của Đảng. Tuy nhiên, đến nay việc lý giải một số nội dung liên quan tới mối quan hệ giữa các quy luật của kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn những nhận thức, cách hiểu khác nhau gây khó khăn, lúng túng cho chỉ đạo thực tiễn và sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, trong xã hội. Đây là vấn đề mới trong lý luận và trong thực tiễn ở Việt Nam, hơn nữa là vấn đề cốt tử của sự phát triển, nhưng đã bị che khuất nhiều năm nay mặc dù có nhiều đề tài, chương trình đề cập tới "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Logic vấn đề là ở chỗ, vấn đề mới thì cần phảỉ có tư duy mới để làm rõ hơn bản chất, nội dung và có hướng giải quyết đúng đắn mối quan hệ này. I. Diễn tiến nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa kinh tế thị trƣờng và định hƣớng xã hội chủ nghĩa Đại hội VI (1986) đề ra đường lối đổi mới, trong đó coi sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản (CNTB), thừa nhận sự tồn tại khách quan của “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần” trên con đường đi lên CNXH1. Khẳng định các yếu tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế hàng hoá trong giai đoạn quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Đây chính là cơ sở lý luận hình thành nên mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN.. Tuy nhiên, khi khái quát về cơ chế quản lý kinh tế mới, Đại hội VI của Đảng mới chỉ khẳng định "Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ"2, mà chưa đạt tới nhận thức về kinh tế thị trường. 1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1987, tr. 63. 2 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr. 63, 64. 118 Đại hội Đảng VII (1991), nhấn mạnh vai trò của thị trường “lấy thị trường làm đối tượng và là căn cứ quan trọng nhất” của kế hoạch; đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng đã bổ sung làm rõ 6 nội dung định hướng XHCN nền KTTT; đồng thời, với cách nhìn: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng” là một bước đột phá căn bản trong tư duy lý luận, tạo cơ sở khoa học- thực tiễn cho việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN. Kinh tế thị trường là thành tựu của văn minh nhân loại. Có thể nhận thấy tính đa dạng của các nền KTTT hiện nay tại các quốc gia có sự khác biệt về cơ cấu sở hữu và cấu trúc xã hội. KTTT có thể được xây dựng tại những quốc gia có chế độ chính trị xã hội khác nhau, với mô hình KTTT cụ thể, đa dạng gắn liền với hình thái kinh tế xã hội và chế độ chính trị-xã hội của mỗi nước. Điểm mới trong Văn kiện Đại hội VIII là nhấn mạnh phải "Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần"1, trong đó xác định "Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng". Đại hội IX (2001) chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN”2. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức về “nền kinh tế hàng hóa” sang “nền kinh tế thị trường”,chuyển từ nhận thức thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh tế sang nhận thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong giai đoạn tiến lên CNXH.Theo đó, “để nền KTTT định hướng XHCN vận hành thông suốt, cần tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước”3... Đại hội cũng xác định một loạt yếu tố bảo đảm định hướng XHCN cuả sự phát triển KTTT: Bổ sung “dân chủ” vào hệ mục tiêu phát triển tổng quát: “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”4; Xác nhận công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) là nhiệm vụ trung tâm và con đường CNH, HĐH nước ta cần rút ngắn thời gian trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế5; Coi “từng bước phát triển kinh tế tri thức” là một nội dung của chiến lược phát triển kinh tế. 1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Phần II), Sđd, tr. 20, 68. 2 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Phần II), Sđd, tr. 27 3 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Phần II), Sđd, tr. 19, 68 4 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Phần II), Sđd, tr. 21, 72 5 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Phần II), Sđd, tr. 21, 72. 119 Đại hội IX còn có bước tiến mới so với Đại hội VIII khi nêu thêm đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: "Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển"1. Kế thừa quan điểm của Đại hội IX, bước phát triển mới của Đại hội X là làm rõ hơn những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường và nhiệm vụ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là, Đại hội X xác định đặc trưng định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường là: "Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân"2 và "Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội"2. Đồng thời, Đại hội X nêu rõ thêm mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ""dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân", "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển" và "Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng"5. Đặc biệt, trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã cụ thể hóa nội dung định hướng, chỉ rõ: “ Định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là: Một là, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Hai là, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể, ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Ba là, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế, đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn của các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Bốn là, phát huy quyền làm 1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Phần II), Sđd, tr. 72. 2 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Phần II), Sđd, tr. 120 chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng”1. Đại hội XI của Đảng, trên cơ sở tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), kế thừa những bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng được thực tế kiểm nghiệm, đã đưa vào Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng nhiều nội dung quan trọng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xác định "phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"2 là một trong 8 phương hướng cơ bản cần quán triệt và thực hiện; mối quan hệ "giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa"2 là một trong 8 mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong những định hướng lớn về phát triển kinh tế, Cương lĩnh xác định "Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối", "Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân", "Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa"3. Tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội XII đã tiến thêm một bước làm rõ hơn khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh. Dân chủ, công bằng, văn minh”4 1 . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 190-191. 2 . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.72, 73. 3 . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.73-74. 4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.102. 121 II. Đánh giá nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa kinh tế thị trƣờng và định hƣớng XHCN 1. Thành tựu: - Làm rõ cơ sở khoa học hình thành nên mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN. Từ chỗ nhận thức coi sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản (CNTB), thừa nhận sự tồn tại khách quan của “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần” trên con đường đi lên CNXH trong Đại hội VI, khẳng định các yếu tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế hàng hoá trong giai đoạn quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam, Đảng ta đã thấy được đây chính là cơ sở lý luận khoa học hình thành nên mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN. Đến Đại hội VIII, tổng kết 10 năm đổi mới, tiến thêm một bước, Đảng ta khẳng định “kinh tế thị trường là thành tựu chung của nhân loại” (và đó là một sự thật hiển nhiên). Một khi đã là thành tựu chung của nhân loại, thì việc sử dụng những thành tựu đó, quản lý, điều khiển nó vận động theo hướng nào, phục vụ lợi ích cho ai ( cho đa số hay thiểu số) là công việc cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc, mỗi chế độ chính trị-xã hội lựa chọn. Việc chúng ta lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN là lẽ tự nhiên cũng giống như nhiều nước khác lựa chọn mô hình “kinh tế thị trường tự do” hay “kinh tế thị trường xã hội”Như vậy KTTT và định hướng XHCN là không mâu thuẫn nhau. - Thực chất mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN là mối quan hệ giữa hai bộ phận của một phương thức sản xuất, nói rộng ra là của một hình thái kinh tế - xã hội ra đời ở giai đoạn đầu. Vì vậy, phải hiểu quan hệ này theo hướng một "Mô hình kinh tế đang hình thành” trong điều kiện dân tộc và thời đại hiện nay. Kinh tế thị trường và định hướng XHCN phải là những thuộc tính bản chất, những yếu tố nội tại bền vững trong mô hình kinh tế tổng quát ở nước ta, không thể coi nhẹ yếu tố nào. Định hướng XHCN phải được quán triệt khi vận hành các quy luật, nguyên tắc của thị trường, ngược lại, việc thực hiện định hướng XHCN không được tách rời biệt lập với các quy luật của thị trường. Giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường là thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". -Xu hướng phát triển của mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN là đi lên CNXH. Kinh nghiệm lịch sử chỉ ra rằng: con người không thể tuỳ tiện lựa chọn hình thái kinh tế, càng không thể định hướng nền kinh tế theo mong muốn chủ quan, dù 122 là mong muốn của tập thể lãnh đạo cầm quyền. Kinh tế thị trường theo mô hình mà chúng ta lựa chọn là phương thức phát triển kinh tế dựa trên những nguyên tắc của thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Kinh tế thị trường tự nó không thể quyết định bản chất và định hướng phát triển của một chế độ xã hội. Bản chất của chế độ chính trị - xã hội quyết định bản chất của nền kinh tế thị trường. Trong khi phát triển kinh tế thị trường, Đảng ta luôn nhấn mạnh những yếu tố bảo đảm định hướng XHCN, chống nguy cơ chệch hướng; đồng thời, nhấn mạnh, chỉ có phát triển hiệu quả và bền vững nền kinh tế thị trường mới tạo được cơ sở kinh tế bảo đảm cho phát triển theo định hướng XHCN ở nước ta. Ngược lại, đây mới là nội dung cần nhấn mạnh, chỉ có tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa thì kinh tế thị trường mới phát triển thuận lợi trong điều kiện hiện nay. Về thực chất cần đi đến chỗ thống nhất và khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “Phát triển nền kinh tế thị trường tiên tiến, hiện đại có khả năng giải quyết hài hòa các vấn đề phát triển với tiến bộ, công bằng xã hội trên con đường đi lên CNXH” 2. Hạn chế: Qua các kỳ Đại hội, từ Đại hội VI đến Đại hội XII, nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN liên tục được bổ sung, phát triển, ngày càng hoàn thiện, tuy nhiên, về mặt lý luận cũng còn nhiều khoảng trống cần làm rõ: - Từ Đại hội VI đến nay, trong các tài liệu thành văn, Đảng ta chưa trực tiếp đề cập sâu, làm rõ cơ sở khoa học của mối quan hệ giữa các quy luật kinh tế thị trường và định hướng XHCN. Tuy nhiên, khái niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa” mới được sử dụng chủ yếu trong phát triển kinh tế thị trường. Đại hội VII của Đảng lần đầu tiên đưa ra khái niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa”, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nghiệm kỳ, khóa VII chỉ rõ bảy phương hướng cơ bản đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếc rằng, sau đó, khái niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa” chỉ được dùng trong phát triển kinh tế thị trường. Trong các văn kiện Đảng, Nhà nước, dường như đều thấy cơ sở hạ tầng là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, còn kiến trúc thượng tầng là xã hội chủ nghĩa. Điều này dẫn đến sự không tường minh về mặt lý luận, và lúng túng trong giải thích, tuyên truyền tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân. Vì thế, nảy sinh nhiều ý kiến hoài nghi thậm chí đi đến phủ định mối quan hệ này. Có ý kiến cho rằng, không thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; rằng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không thể dung hợp với nhau. Lại có ý kiến cho rằng kinh tế thị trường là kinh tế thị trường, còn định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là "cái đuôi" ghép vào kinh tế thị trường một cách khiên cưỡng. Ý kiến này không đúng. Không đúng là vì, 123 ý kiến này không thoát ra được khỏi tư duy cũ, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, cho kinh tế thị trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, từ đó “dị ứng” với kinh tế thị trường, không thấy hết những yếu tố mới, xu hướng mới của kinh tế thị trường trong điều kiện mới của thời đại, lặp lại sai lầm của một thời trước đây. -Chưa làm rõ tính chất và nội hàm, cơ chế tác động qua lại của mối quan hệ giữa các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng XHCN. Đây là mối quan hệ “tự thân” của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hay là mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện? Cơ chế tác động qua lại (tích cực và tiêu cực) giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN ra sao? Trong đường lối phát triển của Việt Nam phạm trù “định hướng XHCN” phải chăng chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi mang “nội hàm” phát triển nhanh và bền vững vì sự tiến bộ xã hội, sự phát triển tự do, toàn diện của mỗi cá nhân? -Chưa đạt được sự thống nhất trong nhận thức về bản thân nội dung phạm trù “định hướng XHCN”. Trong nghiên cứu khoa học, hiếm có công trình nghiên cứu cơ bản và hệ thống về mối quan hệ kinh tế thị trường với định hướng XHCN và đặc biệt là về nội dung, nội hàm của chính phạm trù “định hướng XHCN”. Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, Khóa X đã xác định: “ Định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là: Một là, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Hai là, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể, ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Ba là, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế, đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn của các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Bốn là, phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Tuy nhiên, từ đó đến nay, công tác nghiên cứu chưa được tập trung theo hướng này. 124 III. Thực trạng thực hiện mối quan hệ giữa kinh tế thị trƣờng và định hƣớng xã hội chủ nghĩa: Khó có những tiêu chí, số liệu thống kê để đánh giá trực tiếp thực trạng mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN. Xuất phát từ quan điểm đã được Hội nghị trung ương lần thứ sáu, khóa X đã chỉ ra và cách hiểu: chỉ có phát triển hiệu quả và bền vững nền kinh tế thị trường mới tạo được cơ sở kinh tế bảo đảm cho phát triển theo định hướng XHCN ở nước ta, có thể nhìn nhận thực trạng mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN như sau: 1. Thành tựu, kết quả đạt được: - Mục tiêu phát triển nền KTTT định hướng XHCN do Đảng ta đề ra: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” luôn được quán triệt trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước. Việc quán triệt này được thể hiện trong từng chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ và được quán triệt đến mọi cấp, mọi ngành. - Định hướng XHCN được thể hiện rõ trong việc thực hiện nghiêm túc chủ trương mỗi bước tiến trong phát triển kinh tế phải gắn liền với mỗi bước tiến trong thực hiện công bằng xã hội. - Định hướng XHCN trong xây dựng và phát triển KTTT còn được thực hiện thông qua sự tuân thủ vai trò lãnh đạo của Đảng trong phát triển kinh tế, trong việc xây dựng các cơ chế chính sách kinh tế đều dựa trên cơ sở chủ trương, đường lối do Đảng đề ra. - Bước đầu hình thành tư duy chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với các định hướng phát triển đối với các khu vực, ngành, vùng trên cơ sở khai thác tiềm năng và phát huy lợi thế so sánh của các khu vực, ngành, vùng, hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng cần thiết phục vụ đời sống kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Trong thời gian qua đã có những đổi mới trong nhận thức quan trọng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt. Thực hiện một bước tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết một số vấn đề bức xúc của xã hội. Tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh chóng. Thu nhập quốc dân đầu người không ngừng được cải thiện. Tăng trưởng kinh tế luôn gắn với xóa đói, giảm nghèo và giải quyết những vấn đề xã hội, nhất là hậu quả chiến tranh đã góp phần làm cho mọi tầng lớp trong xã hội đều được hưởng lợi ích từ tăng trưởng kinh tế, bảo đảm sự tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu – 125 nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Các lĩnh vực xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc người có công với đất nước, phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cho các xã nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được quan tâm phát triển để từng bước đồng bộ với phát triển kinh tế. - Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam dần được cải thiện.Tình hình việc làm của người lao động đã có nhiều cải thiện, tăng trưởng việc làm bình quân 2,5% - 3% năm; số việc làm mới được tạo ra bình quân khoảng 1,6 triệu/năm. Trong đó, khoảng 75% là từ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, 25% từ các chương trình mục tiêu việc làm, giảm nghèo và xuất khẩu lao động. Thất nghiệp thành thị có xu hướng giảm liên tục, đến nay giảm xuống khoảng dưới 4%. - Mức sống chung của người dân được từng bước nâng lên. GDP bình quân đầu người có xu hướng tăng và phân phối thu nhập công bằng hơn. Chất lượng sống của dân cư có phần cải thiện. Tỷ trọng chi cho ăn uống trong chỉ tiêu đời sống là một chỉ tiêu đánh giá mức sống cao hay thấp thì tỷ trọng này có xu hướng thay đổi tích cực (Giảm tỷ trọng chi cho ăn uống và tăng tỷ trọng chi cho ngoài ăn uống); đời sống của người nghèo, nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương, đồng bào dân tộc tiểu số có phần cải thiện hơn so với trước đây. Tháp phân tầng xã hội về mức sống nhìn chung thay đổi theo chiều hướng tích cực. Tỷ lệ người nghèo có xu hướng giảm, tầng lớp trung lưu tăng và chiếm đa số, tỷ lệ người giàu cũng tăng (chiếm khoảng 10%). Tăng tầng lớp trung lưu là yếu tố quan trọng bậc nhất để phát triển kinh tế - xã hội trong kinh tế thị trường, bảo đảm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. - An sinh xã hội ngày càng mở rộng. Tỷ trọng đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho ASXH khoảng trên 28%/năm. Nhà nước đặc biệt ưu tiên đầu tư cho tạo việc làm, dạy nghề, giảm nghèo, ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội...Cùng với tăng đầu tư của Nhà nước cho chính sách ASXH, đã huy động mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực trong nhân dân và ở địa phương, cơ sở theo tinh thần xã hội hóa; đồng thời thưc hiện lồng ghép các chương trình mục tiêu khác nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho thực hiện chính sách ASXH. Nguồn lực huy động từ cộng đồng, các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và sự hợp tác quốc tế cho ASXH chiếm khoảng 30%. Quy mô đào tạo nguồn nhân lực tăng nhanh, cơ cấu trình độ chuyển mạnh sang đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao. Tốc độ giảm nghèo nhanh và liên tục qua các năm... 126 2. Hạn chế, yếu kém: - Chưa có nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của KTTT. Như đã biết, kinh tế thị trường ở bất cứ quốc gia nào, đều bao gồm các yếu tố cơ bản chung, mang tính phổ biến sau: Thứ nhất, tính độc lập của các chủ thể trong nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các chủ thể này hoàn toàn độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Về bản chất, nền kinh tế thị trường thị trường có cấu trúc đa sở hữu. Về nguyên tắc, các chủ thể sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường là độc lập và bình đẳng với nhau trước pháp luật và trong hoạt động kinh doanh. Nhưng mỗi hình thức sở hữu và mỗi chủ thể sở hữu lại có vai trò, vị thế và chức năng đặc thù trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Thứ hai, hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng. Mọi nền kinh tế thị trường đều có các yếu tố cấu thành cơ bản là các thị trường, bao gồm các thị trường đầu vào như thị trường đất đai, thị trường sức lao động, thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán), thị trường hàng hoá, thị trường khoa học - công nghệ và thị trường đầu ra là hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Để nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả, phải bảo đảm hai yêu cầu: Sự hiện diện đầy đủ của tất cả các thị trường nói trên; và các thị trường phải vận hành đồng bộ. Thứ ba, hệ thống giá cả đư c xác lập thông qua tương quan cung-cầu quyết định sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Giá cả trên các loại thị trường được xác định dựa trên tương quan cung và cầu của từng thị trường đó. Tín hiện giá cả là căn cứ cho các chủ thể kinh tế đưa ra các quyết định sản xuất-kinh doanh của mình trong môi trường cạnh tranh thị trường. Nền kinh tế thị trường chỉ vận hành được một khi hệ thống giá cả được quyết định khách quan bởi thị trường. Thứ tư, cơ chế căn bản vận hành của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh tự do. Không có cạnh tranh tự do, không thể nói đến kinh tế thị trường. Về bản chất, cơ chế cạnh tranh thị trường là cơ chế tự điều chỉnh. Do vậy, nó còn được gọi là “bàn tay vô hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tạo lập sự cân bằng mỗi khi bị trục trặc. Cạnh tranh là cơ chế chủ yếu và có hiệu quả nhất trong việc phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường. Thứ năm, vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước. Thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề phát 127 triển, như: khủng hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi trường, v.v. Để khắc phục chúng và tránh khỏi thất bại thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành nền kinh tế. Tuy nhiên, nền KTTT chưa thật sự vận hành đúng bản chất của nó. Cơ chế tự do cạnh tranh chưa được thực hiện đầy đủ, nhiều loại giá cả quan trọng có ảnh hưởng tới đầu vào của sản xuất như điện nước, than, xăng dầu, tiền lương,...chưa được xác định theo quy luật thị trường. Cơ chế phân bổ nguồn lực còn nặng về “cơ chế xin – cho”, nhệ về cơ chế thị trường. Tình trạng bất bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp còn tồn tại. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những yếu kém trong ban hành, thực thi những chính sách, hệ quả là tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức dưới tiềm năng; hiệu quả và chất lượng tăng trưởng thấp, chưa bền vững, đồng thời chưa giải quyết được căn bản các vấn đề bức xúc của xã hội. Cơ cấu kinh tế còn nhiều bất hợp lý và chậm chuyển dịch theo hướng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời chưa phát huy được tiềm năng và lợi thế so sánh của các ngành, vùng. Cơ chế phân bố các nguồn lực cho các mục đích phát triển của nền kinh tế chưa có hiệu quả, gây ra sự lãng phí và kém hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực. - Thể chế KTTT còn nhiều tồn tại, hạn chế; nhiều điểm chưa phù hợp với nền KTTT hiện đại: Nhận thức về chế độ sở hữu, thành phần kinh tế, sự phát triển các loại hình doanh nghiệp Việt Nam hiện còn nhiều vấn đề chưa thật phù hợp với nền kinh tế tổ chức theo hướng thị trường. Các loại thị trường đã được hình thành nhưng còn chưa phát triển đồng bộ về quy mô, cơ cấu và trình độ. Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Kinh tế nhà nước, đặc biệt là DNNN, chưa có sự chuyển biến đáng kể về chất lượng và hiệu quả hoạt động ảnh hưởng đến vai trò chủ đạo, định hướng của kinh tế nhà nước. Sắp xếp, đổi mới DNNN chưa được triển khai quyết liệt, toàn diện, vai trò chức năng chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN bị bương lỏng. Kinh tế tập thể còn nhiều yếu kém, hiệu quả hoạt động thấp. Hệ thống chính sách đối với các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân chưa hợp lý và rõ ràng. Các thành phần kinh tế khác chưa được đối xử bình đẳng và chưa phát huy hết năng lực và tiềm năng. Cơ chế vận hành của nền kinh tế hiện đang là khâu yếu nhất của thể chế KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. - Vị trí, vai trò của quản lý Nhà nước còn nhiều điểm chưa phù h p đ gây 128 cản trở hoặc tăng thêm tính méo mó cho sự vận hành của cơ chế thị trường. Một số nguyên tắc của KTTT chưa đư c tôn trọng. - Phát triển xã hội chưa coi trọng đúng mức và chưa đư c đặt ngang tầm với phát triển kinh tế, do đó thực hiện mục tiêu công bằng xã hội còn hạn chế. Bất bình đẳng xã hội, phân hóa giàu nghèo và phân tầng xã hội có xu hướng tăng; đời sống nhân dân còn thấp và nhiều khó khăn, nhất là nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, người lao động làm việc trong các khu công nghiệp và lao động phi chính thức; nhiều vấn đề liên quan bảo đảm ASXH còn hạn chế; phân phối thu nhập, nhất là tiền lương chưa theo nguyên tắc của thị trường, thu nhập của khu vực cán bộ công chức hành chính chưa công bằng và minh bạch; trật tự và an toàn xã hội nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực đáng quan ngại. - Nhà nước pháp quyền XHCN đang trong quá trình ây dựng nhưng còn yếu, đặc biệt là bộ máy ngày càng cồng kềnh, quyền hạn lớn song trách nhiệm không rõ ràng. Năng lực, trách nhiệm và phẩm chất của đội ngũ công chức của Nhà nước thấp. Tình trạng tham nhũng và lãng phí chưa giảm ảnh hưởng đến ổn định chính trị - xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng. Tóm lại, đến nay tư duy nhận thức và vận dụng các quy luật KTTT còn chưa rõ ràng. Tính độc lập của các chủ thể trong nền kinh tế; hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng; hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung-cầu quyết định sự vận hành của nền kinh tế thị trường; cơ chế căn bản vận hành của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh tự do; vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước đều có vấn đề. Thể chế kinh tế chưa hội nhập với nền KTTT hiện đại; tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém, nhất là quyền hạn và trách nhiệm không tương thích, không rõ ràng, quan hệ phân phối lợi ích thiếu công bằng và minh bạch, lại chưa có được cơ chế giám sát hữu hiệu. Nhận thức mô hình đến thiết kế thể chế KTTT vẫn bị chi phối bởi những tư duy của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp. Sự nghiệp đổi mới trong những năm gần đây vì thế bị chững lại, động phát triển kinh tế xã hội bị suy giảm, làm cho sự tiến bộ kinh tế - xã hội nước ta thấp không những so với các nước trong khu vực và thế giới, mà còn so với tiềm năng của đất nước ta, đặc biệt là tiềm năng to lớn về nhân tố con người...đang là những yếu tố làm suy yếu những ưu thế cuẩ kinh tế thị trường, đồng thời giảm tính định hướng XHCN trong phát triển nền KTTT ở nước ta. IV. Vấn đề đặt ra trong đổi mới tƣ duy để giải quyết mối quan hệ giữa các quy luật kinh tế thị trƣờng và định hƣớng XHCN 1. Về mặt lý luận, cần tập trung nghiên cứu nhận thức sâu hơn, làm rõ cơ sở khoa học, nội dung thực chất, cơ chế tác động của mối quan hệ giữa kinh tế thị 129 trường và định hướng XHCN. Một mặt, nhận thức cho đúng nội hàm bản chất, đặc trưng, cơ chế vận hành của “kinh tế thị trường hiện đại” (chứ không phải kinh tế thị trường thông thường như lâu nay ta thường nhìn nhận và chủ quan cho rằng: nhận thức về kinh tế thị trường đã rõ, không còn vấn đề gì), đặc biệt là nhận thức những hình thức biểu hiện mới của các quy luật: giá trị, giá trị thặng dư, cạnh tranh, cung - cầu...trong điều kiện toàn cầu hóa. Mặt khác, quan trọng hơn, cần nhận thức sâu sắc hơn nội hàm của phạm trù “định hướng XHCN”. Phải chăng định hướng XHCN hiện nay chỉ có ý nghĩa là “định hướng kinh tế” mà không cần định hướng trên các lĩnh vực khác. Hoặc chỉ thuần túy là định hướng, hướng đích mang tính “nguyện vọng, ước vọng” mà không bao hàm nội dung kinh tế-kỹ thuật và kinh tế-xã hội? Phạm trù “định hướng XHCN” phải chăng chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi mang “nội hàm” phát triển nhanh và bền vững, sáng tạo, bao trùm, vì sự tiến bộ xã hội, sự phát triển tự do, toàn diện của mỗi cá nhân. 2. Về mặt thực tiễn, trong sự liên quan đến giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN có một số vấn đề chủ yếu sau: - Mô hình tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào yếu tố phát triển theo chiều rộng, phụ thuộc đáng kể vào các yếu tố đầu vào, cụ thể là vốn và lao động. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, đặc biệt là tăng trưởng dần chững lại do suy giảm về năng suất. Trong khi đó, mức đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) của Việt Nam vào tăng trưởng còn rất hạn chế. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, ASXH chưa phù hợp, việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải. - Phát triển xã hội chưa đư c đặt ngang tầm với phát triển kinh tế, cho nên, cần đặc biệt coi trọng các vấn đề:thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội (phát triển văn hóa, y tế, giáo dục; giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người). Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống ASXH, phúc lợi xã hội. - Đổi mới tư duy trong hội nhập kinh tế quốc tế: Sau bước ngoặt quan trọng của quá tình hội nhập theo chiều rộng với việc gia nhập WTO, Việt Nam lại đang đứng trước những bước ngoặt mới của quá trình hội nhập theo chiều sâu với việc đàm phán một loạt các hiệp định thương mại với các đối tác quan trọng như Hiệp định CPTPP, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định 130 thương mại tự do Việt Nam - Liên minh thuế quan Nga-Belarus-Karzakstan (VCUFTA) Bản chất các hiệp định này đều là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tiêu chuẩn cao, với rất nhiều đòi hỏi liên quan đến nguyên tắc và thể chế pháp luật, chứ không đơn thuần là việc loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong thương mại hàng hóa như trước đây. - Xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Trong những năm qua, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong vận hành nền KTTT chưa được giải quyết phù hợp với quy luật thị trường. Chưa phân định rõ vai trò quản lý Nhà nước về kinh tế và vai trò kinh tế của Nhà nước. Nhà nước vẫn ôm đồm, bao biện nhiều chức năng mà thị trường đảm nhiệm hiệu quả hơn (phân phối vốn, quản trị doanh nghiệp) trong khi chưa chú ý đúng mức đến những chức năng mà Nhà nước phải hoàn thành (xây dựng và thực thi khung khổ quản lý nhà nước “khung khổ hành chính - pháp lý”, cung cấp hàng hóa và dịch vụ công, hỗ trợ phát triển,). Nhà nước chưa tập trung giải quyết thất bại của thị trường để giữ vững tính định hướng XHCN. V. Đề xuất và kiến nghị 1.Về mặt lý luận, cần tập trung nghiên cứu xu thế thời đại, xu hướng nội sinh hóa kinh tế thị trường của các quốc gia, nhận thức sâu hơn, làm rõ cơ sở khoa học, nội dung thực chất, nội hàm, cơ chế tác động qua lại của mối quan hệ giữa các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng XHCN. Nên chăng, trong tư duy không nên xem KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ thuần túy là “phương tiện” để thực hiện mục tiêu CNXH, mà cần khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình tự thân, nó chứa đựng những tiềm năng và động lực của sự phát triển, nó có những khiếm khuyết thất bại cần được dự báo và điều chỉnh khi cần thiết. Không có một mô hình kinh tế thị trường chung của mọi quốc gia. Chỉ có mô hình kinh tế thị trường cụ thể. Đó là mô hình kinh tế thị trường tự do hoặc mô hình kinh tế thị trường xã hội hoặc mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung quốc hay mô hình KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mỗi mô hình này, chắc chắn đã và sẽ gắn với những thể chế chính trị nhất định theo những “luật chơi chung” được điều chỉnh thích ứng với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. Thuật ngữ “định hướng XHCN” cần được hiểu là một tính từ sẽ định danh một mô hình kinh tế mới với đặc thù của Việt Nam. Trong tư duy nếu cứ tiếp tục xem KTTT là “phương tiện” thì rất dễ rơi vào việc khai thác một cách phiến diện tính hai mặt của nó, thậm chí không ít những biểu hiện của thời thời kỳ “KTTT dã man”, đó là việc làm giàu bằng mọi cách, mọi giá, không quan tâm đến phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm, dẫn đến phân hóa thu nhập sâu sắc, tham nhũng phổ biến. 131 2. Nền kinh tế ở nước ta được cấu thành bởi hai thành tố là KTTT và định hướng XHCN. Hai thành tố này có quan hệ tương tác với nhau, phản ảnh tính phổ biến và tính đặc thù và đòi hỏi phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phổ biến và đặc thù trong quá trình phát triển và quản lý nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Nhìn lại hơn 30 năm phát triển và quản lý nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, không phải lúc nào mối quan hệ giữa tính phổ biến là KTTT và tính đặc thù là định hướng XHCN cũng được giải quyết tốt. Một mặt, nhiều đòi hỏi khách quan từ các quy luật của KTTT chưa được giải quyết thỏa đáng và mặt khác, nhiều vấn đề phản ánh bản chất và những đặc trưng cơ bản của tính định hướng XHCN trong phát triển KTTT cũng chưa được coi trọng đúng mức, trong đó có việc luận giải một số đặc trưng chưa tạo được sự đồng thuận xã hội. Có khi chỉ vì quá nhấn mạnh đến bảo đảm định hướng XHCN nên đã không đáp ứng được những quy luật thị trường và ngược lại chỉ đơn thuần coi trọng thị trường, chạy theo các mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà hy sinh mục tiêu xã hội, môi trường và phát triển con người. Trong tư duy của một số người dường như vẫn có sự không thanh thoát, thậm chí có mâu thuẫn trong việc giải quyết mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN. Từ nhận định tổng quát trên, cho thấy trong giai đoạn từ nay đến 2030, Việt Nam cần phải: phát triển nền KTTT đầy đủ theo hướng hiện đại trên cả hai phương diện kết cấu và thể chế; định hình rõ nét hơn và tạo sự đồng thuận xã hội rộng lớn hơn về những nội dung biểu hiện định hướng XHCN trong phát triển KTTT xét cả trên phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn. 3. Phải có những chính sách và giải pháp tạo điều kiện để các thành phần kinh tế cùng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tự phát - tiêu cực, vừa không làm mất động lực phát triển, vừa chủ động khống chế phân hoá hai đầu, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể hiện ngay trong chính sự vận động của mỗi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường nước ta. Cần phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết lý luận, thực tiễn để làm rõ hơn về sự vận động, phát triển của các quan hệ sở hữu, các thành phần kinh tế, các quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; cần phải làm rõ khi đã hoàn thành, kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì kết cấu sở hữu, các thành phần kinh tế, các quan hệ phân phối sẽ như thế nào? Nền kinh tế có còn là nền kinh tế thị trường không? để thống nhất về nhận thức, tư tưởng, định hướng xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển và quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 4. Nghiên cứu làm rõ mối quan hệ giữa các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường với các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội trong nền kinh tế thị trường 132 định hướng xã hội chủ nghĩa. Một mặt, cần nhận thức những hình thức biểu hiện mới của các quy luật: giá trị, giá trị thặng dư, cạnh tranh, cung - cầu...trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Mặt khác, quan trọng hơn, cần nhận thức sâu sắc hơn nội hàm của phạm trù “định hướng XHCN”. 5. Sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Theo đó, nước ta cần tiếp tục giảm số lượng DNNN, song không có nghĩa là giảm tính chất XHCN, giảm vai trò định hướng XHCN của KTNN; mà sắp xếp, điều chỉnh để DNNN có cơ cấu hợp lý, đi đầu trong đổi mới, ứng dụng khoa học – công nghệ, giữ vững định hướng XHCN của nền kinh tế, tập trung vào những khâu, công đoạn then chốt của 4 lĩnh vực chính, bao gồm: công nghiệp quốc phòng, công nghiệp độc quyền tự nhiên, lĩnh vực cung cấp hàng hóa thiết yếu và một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao, có sức lan tỏa lớn1. Đồng thời, kiên trì nguyên tắc: “Nhà nước chỉ làm những gì mà tư nhân không muốn làm hoặc không thể làm được, khi đã tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ từ phía Nhà nước”. Cùng với đó, cần tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa các DNNN, kể cả các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước; tập trung tháo gỡ tình trạng cổ phần hóa mang tính “khép kín”, nội bộ, nhiều doanh nghiệp được cổ phần hóa song xác định giá trị doanh nghiệp rất thấp; khắc phục những vướng mắc, tiêu cực khi tính giá trị thương hiệu, quyền sử dụng đất, tài sản doanh nghiệp và “lợi ích nhóm” trong quá trình CPH. 6. Cần chú ý xử lý tốt mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Trong những năm qua, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong vận hành nền KTTT chưa được giải quyết phù hợp với quy luật thị trường. Để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, chúng ta phải đổi mới tư duy, làm cùng một lúc cả 3 việc lớn: kiện toàn bộ máy nhà nước, kiện toàn hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô, hoàn thiện và phát triển thị trường. Về kiện toàn bộ máy nhà nước: Có thể nói rằng hệ thống luật pháp và bộ máy nhà nước của chúng ta được chú ý củng cố và phát triển, song hiệu lực của hệ thống bộ máy nhà nước và năng lực của cán bộ viên chức còn nhiều mặt không đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ. Điều quan trọng nhất là phải làm cho bộ máy nhà nước vận hành hoàn toàn trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật với những chức năng và kỹ năng ngày càng hoàn thiện, có quyền lực thực chất và hiệu lực mạnh trong toàn bộ lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Về kiện toàn hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô: Cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh cải 1 . Kết luận của Hội nghị lần thứ 6, BCHTW Đảng khóa XI.. 133 cách hành chính, đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức để tạo điều kiện phát triển và quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về hoàn thiện và phát triển thị trường: Yêu cầu tối thượng của vấn đề này là cuối cùng, mọi hoạt động kinh tế của bất kỳ ai trong xã hội nước ta đều chịu sự cọ xát, sàng lọc của một thị trường rõ ràng, lành mạnh, được nhà nước kiểm soát, dẫn dắt bằng luật pháp, bằng các chế tài và bằng các biện pháp khuyến khích. Một nền kinh tế mạnh đòi hỏi phải có một thị trường hạn chế được xuống mức thấp nhất các hiện tượng đầu cơ, cửa quyền, độc quyền, kinh tế ngầm, các mafia, sàng lọc các hoạt động kinh tế kém hiệu quả, cung cấp những tín hiệu hữu ích cho mọi quyết định của từng thành viên kinh tế trong xã hội, có khả năng huy động mạnh mẽ nguồn lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với ý nghĩa nói trên, càng kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa càng phải hoàn thiện và phát triển thị trường, càng phải đẩy mọi hoạt động kinh tế của toàn xã hội ra thị trường, không thể có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào (trừ một số hoạt động kinh tế phục vụ sự nghiệp, hạ tầng cơ sở, an ninh quốc phòng). Cũng vì lẽ này cần sớm xoá bỏ sự phân biệt hoặc sự hình thành các loại hình như: kinh tế dân sự, kinh tế đoàn thể, kinh tế Đảng, kinh tế các lực lượng vũ trang v.v... Không có một thị trường và một chính sách về thị trường như vậy, sự kiểm soát của nhà nước sẽ kém hiệu quả, nguy cơ chệch hướng sẽ tăng lên, và kinh tế sẽ sớm đi vào trì trệ, ách tắc. 7. Tiếp tục đổi mới, giữ vững và nâng cao tính độc lập, tự chủ của kinh tế đất nước, đồng thời tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của đất nước, tham gia có hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế, mạng sản xuất chuỗi giá trị kinh tế toàn cầu.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftu_duy_moi_ve_moi_quan_he_giua_cac_quy_luat_cua_kinh_te_thi.pdf
Tài liệu liên quan