Những động thái này của Chính phủ
cùng với nỗ lực của Quốc hội trong việc
giám sát cải cách hành chính công và cải
cách bộ máy hành chính nhà nước cho thấy
sự chuyển dịch trọng tâm vào việc đưa ra các
giải pháp cụ thể tăng cường chất lượng phục
vụ người dân và chất lượng giải quyết thủ tục
hành chính, từ đó tiết kiệm thời gian và công
sức của người dân. Mặc dù một số giải pháp
chủ yếu hiện nay mới chỉ là nhằm giải quyết
vấn đề số lượng, hoặc tình trạng trễ hạn hồ
sơ, và tăng cường sự phối hợp, liên thông
giữa các cấp hành chính trong giải quyết thủ
tục hành chính, giảm sự chồng chéo, lãng
phí trong trang bị các điều kiện bảo đảm,
nhưng các kết quả của các giải pháp này về
lâu dài sẽ đóng góp cho việc đạt mục tiêu
tăng chất lượng và hiệu quả giải quyết thủ
tục hành chính, thực chất là việc giảm thiểu
chi phí giao dịch (transaction cost), liên
quan đến chi phí về mặt thời gian và tiền bạc
cho những giao dịch thủ tục hành chính.
Các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan như Luật Hành chính công hay các
Nghị định của Chính phủ về cơ chế một cửa,
một cửa liên thông,. mà Quốc hội và Chính
phủ đang xây dựng cần tính đến những định
hướng chiến lược lâu dài để vượt trên tư duy
coi công dân là “khách hàng” thông thường
trong thiết kế và vận hành dịch vụ công,
để xây dựng nền móng vững chắc cho việc
các công dân có thể đóng góp trực tiếp vào
việc thiết kế và vận hành dịch vụ công, chứ
không chỉ dừng lại ở việc là những người
đứng ngoài thụ hưởng bị động
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ “khách hàng” đến “công dân đồng thiết kế và vận hành” các dịch vụ công ở Australia và một số liên hệ với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Ngày nay, trọng tâm của cải cách hành chính công là lấy người dân
làm trung tâm, dịch chuyển khỏi cách tiếp cận lấy nhu cầu quản lý
nhà nước làm nền tảng. Từ đó, việc xây dựng chính sách và dịch vụ
công tập trung vào việc bảo đảm nhu cầu của người dân và sự phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của họ, thông qua tìm hiểu phản hồi của
người dân, đo sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ công. Bài
viết bàn về quá trình chuyển từ quan niệm người dân là “khách hàng”
của dịch vụ công sang xác định sự tham gia của người dân với tư cách
“công dân đồng thiết kế và vận hành” các dịch vụ công của Australia,
đồng thời nêu một số liên hệ đến dịch vụ công ở Việt Nam.
Bùi Hải Thiêm*
Abstract:
The reform of public administration is today focused on the residents
as the focal point, moving away the traditional approach that is based
on the ground of state management needs. Since then, the policy
developments and public service delivery have focused on ensuring
residents’ needs and appropriatness to their conditions and contexts,
through understanding residents’ responses, measuring the satisfaction
of the residents to the public services. This article provides discussions
on the process of movement of the concept of "client" of public
services to identification of the residents's participation as "citizens
co-designing and operation" of public service facility in Australia, and
introduces some references to public services in Vietnam as well.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: dịch vụ công, sự tham gia
của người dân, đơn giản hóa thủ tục
hành chính
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 29/08/2017
Biên tập: 30/10/2017
Duyệt bài: 09/11/2017
Article Infomation:
Keywords: public services, resident's
participation, simplification of
administrative procedures
Article History:
Received: 29 Aug. 2017
Edited: 30 Oct. 2017
Appproved: 09 Nov. 2017
* TS. Viện Nghiên cứu Lập pháp.
TỪ “KHÁCH HÀNG” ĐẾN “CÔNG DÂN ĐỒNG THIẾT KẾ VÀ VẬN HÀNH”
CÁC DỊCH VỤ CÔNG Ở AUSTRALIA VÀ MỘT SỐ LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM
Hiện nay việc triển khai các trụ cột của một nền quản trị tốt là “công khai”, “minh bạch” và
“trách nhiệm giải trình” đã đạt được mức độ
nhận thức thống nhất, mặc dù có lúc, có nơi
còn có sự chưa nhất quán, nhưng về cơ bản,
xu hướng đã được xác định. Đối với phần
về trách nhiệm giải trình của các cơ quan
có thẩm quyền, yêu cầu tất yếu là phải có
sự tham gia giám sát và đánh giá của người
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 22(350) T11/2017
dân. Một trong các giải pháp để tăng cường
sự tham gia giám sát và đánh giá của người
dân là tiến hành điều tra về phản hồi của họ,
đo mức độ hài lòng của họ đối với các dịch
vụ công. Phương pháp này đã được áp dụng
tại Australia từ thập niên 1970 trong công
cuộc cải cách nền công vụ Australia. Điểm
cơ bản khi áp dụng phương pháp này là lấy
tinh thần doanh nghiệp (entrepreneurialism)
là chủ đạo, chú trọng các kết quả đầu ra cụ
thể, đo đếm và lượng hóa được, ví dụ như
cắt giảm được bao nhiêu thủ tục hành chính,
bao nhiêu giấy phép Về cơ bản, phương
pháp này coi người dân là “khách hàng”
và cơ quan cung cấp dịch vụ công như là
các doanh nghiệp nên phải áp dụng phương
châm “khách hàng là thượng đế.” Lúc đầu,
phương pháp này có độ hợp lý và khả tín
nhất định trong bối cảnh vai trò kiến tạo phát
triển của chính phủ ngày càng được đề cao
và tinh thần doanh nghiệp ngày càng thấm
đẫm trong hành động của chính phủ. Tuy
nhiên, từ thực tiễn và kinh nghiệm thu được,
Australia đã nhận thấy thấy phương pháp
này còn nhiều điểm sơ hở và khiếm khuyết.
Australia đã điều chỉnh và định hình lại cách
tiếp cận, từ lấy trọng tâm là mối quan hệ
“khách hàng - doanh nghiệp” trong dịch vụ
công sang tinh thần công dân đúng nghĩa với
tư cách là những người có quyền tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào các quyết định
ảnh hưởng đến họ.
1. Thành tựu và hạn chế khi xác định
người dân là “khách hàng” của dịch vụ
công
Trong thời kỳ đẩy mạnh phát triển
doanh nghiệp hiện nay, tư duy coi người dân
là khách hàng để phục vụ cho chu đáo, đạt
được sự hài lòng để giữ chân “thượng đế”
1 HC Coombs (Chairman), Report of the Royal Commission on Australian Government Administration, AGPS, Canberra,
1976.
2 K MacDermott, Whatever happened to frank and fearless? The Systems of New Public Management and the ethos and
behavior of the Australian Public Service, Discussion Paper 20/07, Democratic Audit of Australia, ANU, Oct 2007, p.2.
ngày càng phát triển. Tinh thần này ngày
càng lan tỏa sang cả lĩnh vực hành chính
công, đặc biệt là trong cải cách nền công vụ.
Ở Australia, tư duy này đã được thể nghiệm
từ những năm 70 của thế kỷ trước. Vào năm
1976, Báo cáo của Ủy ban Hoàng gia do ông
HC Coombs đứng đầu đã công bố chiến lược
cải cách nền công vụ Australia, với cách tiếp
cận tổng thể, nhất quán của Chính phủ để làm
sao cho người dân có “cảm giác gần gũi hơn
với những người ra quyết sách”. Tiến trình
cải cách công vụ này cũng đã được thực hiện
tại một số nước theo truyền thống Ăng-lô
Sắc-xông với tên gọi Chương trình Quản trị
công mới (New Public Management - NPM).
Chương trình NPM khuyến khích và nhấn
mạnh việc áp dụng các phương pháp quản lý
của lĩnh vực tư nhân vào quản trị công, đặc
biệt chú ý đến tầm quan trọng của 3 chữ E,
viết tắt của “tính kinh tế” (economy), “tính
hiệu quả” (efficiency), và “tính hiệu lực”
(effectiveness)1.
Chương trình NPM hướng đến việc
tạo ra tính cạnh tranh trong công việc của
các công chức, áp dụng cách quản lý dựa
trên đánh giá hiệu quả công việc (KPI), liên
thông với việc tăng, giảm lương bổng, phân
quyền cụ thể rành mạch cho các cấp ra quyết
định; tái cấu trúc mối quan hệ trong khu vực
công theo mô hình dựa trên hợp đồng hành
chính công; thuê khoán bên ngoài làm các
dịch vụ phức tạp hoặc các dịch vụ mà các
cơ quan công quyền làm không có hiệu quả.
Theo đánh giá đã được kiểm chứng, Chương
trình NPM đã làm chuyển dịch rất mạnh thái
độ làm việc và cải tiến tính linh hoạt và hiệu
quả của nền công vụ Australia2.
Tuy đạt được một số thành tựu,
Chương trình NPM cũng có những khiếm
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 22(350) T11/2017
khuyết trong phương pháp tiếp cận và thực
hiện. Cách tiếp cận lấy người dân là khách
hàng để phục vụ tận tình, chu đáo tạo ra
những áp lực lớn cho các công chức thực
hiện và tuy tính cạnh tranh, chạy đua cao
nhưng bản chất của nền công vụ có sự khác
biệt lớn với khu vực tư. Người dân không
thực sự là những khách hàng, bởi “món
hàng” họ muốn mua thực tế là không được
lựa chọn do nguồn cung rất hạn chế và bị đặt
trong những điều kiện ràng buộc chặt chẽ.
Người dân, mặc dù được hỏi ý kiến và đưa
ra phản hồi về mức độ hài lòng, nhưng về cơ
bản vẫn là những người ngoài cuộc đối với
các dịch vụ công mà họ trực tiếp giao dịch,
thụ hưởng và vẫn được coi là “khách hàng”
- là đối tượng hưởng thụ bị động vì không
có sự lựa chọn khác. Chương trình NPM
mang tính áp đặt từ trên xuống, giống như
giao chỉ tiêu thực hiện một cách quyết liệt,
dẫn đến những “đứt gãy” trong các hệ giá trị
truyền thống của khu vực công. Về cơ bản,
việc áp đặt tư duy thị trường vào khu vực
công một cách máy móc có nguy cơ làm suy
giảm những liên kết xã hội, hao mòn vốn xã
hội được kết tinh trong những giá trị của khu
vực công. Nhận thức được những hạn chế
này của xu hướng "thị trường hoá" khu vực
công, từ cuối thập niên 1990, các quan điểm
tiên tiến về hành chính công đã dịch chuyển
dần sang hướng nhấn mạnh vào việc thu hút
sự tham gia trực tiếp và thích ứng của các
bên có liên quan, đặc biệt là người dân.
2. Người dân với tư cách “công dân đồng
thiết kế và vận hành” các dịch vụ công
Ngày nay, cách tiếp cận đối với cải
cách hành chính công không còn chỉ dừng
lại việc coi người dân là mục tiêu, là đối
tượng thụ hưởng mà chuyển dần sang việc
coi người dân là những tác nhân trực tiếp
tham gia để thay đổi các dịch vụ công sao
3 O Hughes, The Way Ahead for New Public Management, Working Paper 55/01, Department of Management, Monash
University, Aug 2001.
cho thích ứng với nhu cầu và điều kiện, hoàn
cảnh của họ hơn. Cuối thế kỷ XX, đã xuất
hiện nhiều khái niệm mới thể hiện xu hướng
này như “đồng sáng tạo” (co-creation), hay
“đồng tạo lập” (co-production) hay “đồng
thi công” (co-execution)” để nhấn mạnh
việc duy trì hợp tác có hệ thống giữa các cơ
quan nhà nước, các tổ chức phi nhà nước,
các cộng đồng và các công dân. Thực ra,
thuật ngữ "đồng tạo lập" đã được Elinor
Ostrom - nhà khoa học chính trị người Mỹ
từng đạt giải Nobel - sáng tạo ra từ thập niên
1970, nhưng phải đến thế kỷ 21 mới được
sử dụng rộng rãi. Về cơ bản, xu hướng này
tái định hình mối quan hệ giữa những nhà
hoạch định chính sách của khu vực công với
công chúng, từ mối quan hệ phụ thuộc một
chiều sang mối quan hệ tương hỗ, phụ thuộc
lẫn nhau. Ngoài việc tiếp nhận các dịch vụ
công với tư cách là những người thụ hưởng,
công dân còn là nguồn của giá trị, là người
cộng sự để kích hoạt hệ thống hoạt động có
hiệu quả hơn. Điều đó có nghĩa là những
người sử dụng dịch vụ công không chỉ thuần
tuý căn cứ vào nhu cầu mà còn căn cứ vào
những gì họ có thể đóng góp để nâng cao
hiệu quả của dịch vụ công, giúp cho những
người sử dụng khác và cộng đồng của mình
thông qua những tri thức, kinh nghiệm, kỹ
năng và năng lực của bản thân họ.
Ngay từ năm 2001, đã có những báo
cáo nghiên cứu được công bố tại Australia
nêu những đường hướng chính sách mới
cho Chương trình NPM và tạo lập những
bước thay đổi đầu tiên theo hướng "đồng tạo
lập" dịch vụ công như vậy3. Trong giai đoạn
2001-2010, Australia đã có một số cải cách
mạnh mẽ liên quan như:
- Các biện pháp tăng hiệu quả kinh tế,
trách nhiệm giải trình và minh bạch thông
tin, áp dụng công nghệ thông tin.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 22(350) T11/2017
- Các biện pháp bố trí công việc của
các công chức, nhất là mối quan hệ về giải
trình trách nhiệm tập trung vào cấp quản lý,
lãnh đạo.
- Các biện pháp thu hút công dân
tham gia vào quá trình tham vấn để giúp
chính phủ xác định các ưu tiên và kiến tạo
chính sách.
Mục tiêu của các biện pháp này đều là
tăng cường sự tham gia trực tiếp của người
dân vào quá trình kiến tạo chính sách và
dịch vụ công. Báo cáo năm 2004 của Chính
phủ Australia mang tên “Chính phủ liên kết:
Những đối sách toàn diện trước các thách
thức ưu tiên của Australia” đã chỉ ra rằng,
“đối thoại giữa chính phủ và các công dân
với tư cách là bên liên quan trực tiếp là phần
quan trọng thiết yếu của một hệ thống quản
trị dân chủ. Bộ máy công vụ của Australia
đóng vai trò cốt yếu trong đối thoại này”4.
Năm 2010, Nhóm tư vấn về cải cách
hành chính của Chính phủ Australia đã công
bố Chương trình tổng thể chi tiết (blue print)
đầy tham vọng với mục tiêu “kiến tạo một
Chính phủ cởi mở hơn nữa”. Với chương
trình này, Chính phủ Australia chính thức
mời gọi các công dân tham gia trực tiếp và
hợp tác với chính phủ trong việc thiết kế
và thi công các chính sách cũng như dịch
vụ công. Việc tham gia trực tiếp này không
chỉ là thể hiện đặc tính dân chủ của một nền
công vụ mà còn tạo ra nguồn ý tưởng mới
phong phú và đầy tính sáng tạo, đổi mới
(innovation) cho Chính phủ. Tuy nhiên,
cũng cần lưu ý rằng một trong những bài học
quan trọng để thu hút sự tham gia của người
dân vào hoạt động thiết kế và vận hành dịch
vụ công là cần "thiết lập được hệ thống đánh
giá mang tính khoa học, chặt chẽ về sự tham
gia của công chúng trong thực tế nhằm xây
4 APSC/MAC, Connecting Government: Whole of Government Responses to Australia’s Priority Challenges, 2004,
p. 93, viewed 8 February 2011,
5 European Institute for Public Participation (EIPP), Public participation in Europe: an international perspective, 2009, p. 4.
dựng một văn hoá học tập về sự tham gia
và thúc đẩy việc hệ thống hoá các phương
pháp tham gia"5. Các thách thức quan trọng
nhất trong việc thu hút sự tham gia thực chất
của người dân liên quan đến chi phí (tiền
bạc, thời gian, rủi ro chính trị...), độ phức
tạp của vấn đề và tính đại diện. Vượt qua
được những thách thức đó thì thực sự đem
lại những lợi ích to lớn. Chính phủ liên bang
và các bang của Australia đã tổng kết một số
lợi ích căn bản của việc này gồm:
- Cải tiến chất lượng chính sách được
xây dựng, làm cho chính sách trở nên thực
tế và phù hợp, giúp bảo đảm dịch vụ công
được thực thi một cách có hiệu quả và
hiệu lực.
- Giúp Nhà nước kiểm tra sức khoẻ
của chính mình thông qua việc đánh giá mối
quan hệ của mình với công dân một cách
trực tiếp.
- Thể hiện các cách thức mà Nhà nước,
công dân và các tổ chức có thể hợp tác chặt
chẽ với nhau về các vấn đề cộng đồng cùng
quan tâm.
- Cảnh báo sớm các vấn đề phát sinh
và giúp Chính phủ ở vào vị thế tốt hơn để
giải quyết các vấn đề phát sinh một cách chủ
động, thay vì bị động đối phó khi có tình
huống khủng hoảng hay xung đột xảy ra.
- Tạo ra các cơ hội để lắng nghe các
tiếng nói đa dạng về các vấn đề quan trọng
đối với người dân.
- Giúp người dân có khả năng xác định
các ưu tiên cho chính họ và chia sẻ với quá
trình ra quyết định chính sách, giúp họ trở
thành người đồng sở hữu của chính những
giải pháp chính sách và có trách nhiệm hơn
với việc thực hiện các giải pháp đó.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 22(350) T11/2017
- Làm tăng cảm giác tin cậy, thông
hiểu lẫn nhau và tự mình làm chủ của
người dân.
Hai thập niên đầu tiên của thế kỷ
XXI đã chứng kiến một số thành công của
Australia về việc ứng dụng cách tiếp cận
này, đặc biệt là các chương trình liên quan
đến dịch vụ xã hội và con người ở Australia
do các cơ quan như Centrelink và Medicare
cung cấp. Mặc dù còn những hạn chế nhất
định, những cơ quan này đã phần nào giúp
cho những cá nhân và cộng đồng yếu thế,
thiệt thòi có khả năng phối hợp với các cơ
quan cung cấp dịch vụ công để thiết kế và
thực thi các giải pháp cụ thể cho chính các
vấn đề của họ một cách hiệu quả và bền
vững. Khi đó, hành chính công được xem là
phương tiện để công dân, cộng đồng và xã
hội biểu hiện các giá trị và lựa chọn ưu tiên
của mình. Chính theo nghĩa này mà đã xuất
hiện ngày càng nhiều các thuật ngữ chỉ vai
trò của Nhà nước về việc thúc đẩy sự tham
gia của người dân vào thiết kế và vận hành
dịch vụ công, trong đó có các khái niệm như
Nhà nước kiến tạo (enabling state) hay Nhà
nước bảo đảm (ensuring state).
3. Một số liên hệ với Việt Nam
Việc tăng cường sự tham gia có hiệu
quả của người dân vào quá trình chính sách,
trong đó có việc cải cách hành chính công
đòi hỏi sự dịch chuyển quan trọng trong tư
duy, phương pháp tiếp cận. Việc chuyển từ
cách tiếp cận lấy nhu cầu quản lý nhà nước
làm trung tâm sang lấy nhu cầu và điều
kiện, hoàn cảnh của người dân làm nền tảng
đã gặp nhiều khó khăn trên thực tế. Ngay
trong sự dịch chuyển này cũng dễ có những
khiếm khuyết mà nền hành chính tiên tiến
ở Australia đã chỉ ra, đó là tư duy quá chú
trọng tinh thần doanh nghiệp trong thiết kế
và vận hành dịch vụ công. Sự tham gia thực
sự và hiệu quả của người dân vào quá trình
“đồng kiến tạo” chính sách và dịch vụ công
đòi hỏi những bước chuyển cơ bản, không
dễ thực hiện một sớm một chiều, cả trong
nhận thức, đến thói quen, trở thành thay
đổi trong văn hóa và vận hành của các cơ
quan nhà nước. Mục tiêu này đòi hỏi phải
trang bị cho các công chức những kỹ năng
mới, khiến họ trở thành những người kiến
tạo khả năng, người đàm phán hiệu quả và
người dẫn dắt hợp tác. Mục tiêu này cũng
đòi hỏi các công dân phải sẵn sàng tham gia
chủ động, có năng lực cần thiết để thảo luận,
tranh luận và tham gia.
Ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành
các Nghị quyết về việc đơn giản hóa thủ tục
hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý
nhà nước của tất cả các Bộ, cơ quan ngang
Bộ. Từ đó, các Bộ và cơ quan ngang bộ đã
và đang rà soát, cụ thể hóa nội dung các thủ
tục hành chính theo hướng đơn giản hóa
nhiều nhất. Trong tháng 7/2017, Chính phủ
đã ban hành ba Nghị quyết về việc đơn giản
hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân
liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm
vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư
pháp (Nghị quyết số 58/NQ-CP), Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam (Nghị quyết số 59/NQ-
CP) và Bộ Y tế (Nghị quyết số 60/NQ-CP).
Trong tháng 8/2017, Chính phủ tiếp tục ban
hành các Nghị quyết, đã họp phiên chuyên
đề về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính,
giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân
cư thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà
nước của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
(Nghị quyết số 78/NQ-CP), Bộ Tài nguyên
và Môi trường (Nghị quyết số 79/NQ-CP),
Bộ Giao thông vận tải (Nghị quyết số 80/
NQ-CP). Các Nghị quyết này được coi như
những văn bản mở đầu cho giai đoạn mới
thực hiện tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành
chính, theo nguyên tắc giảm nhẹ nhất các
thông tin người dân phải kê khai, phải xuất
trình giấy tờ gốc có liên quan trong quá trình
thực hiện các thủ tục hành chính. Ngoài ra,
trong phiên họp Chính phủ chuyên đề về xây
dựng pháp luật tháng 8/2017, Bộ Kế hoạch
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 22(350) T11/2017
và Đầu tư đã trình báo cáo đề nghị bãi bỏ
1.930 yêu cầu, điều kiện về kinh doanh được
cho là những giấy phép con cản trở hoặc gây
khó khăn cho doanh nghiệp lâu nay.
Những động thái này của Chính phủ
cùng với nỗ lực của Quốc hội trong việc
giám sát cải cách hành chính công và cải
cách bộ máy hành chính nhà nước cho thấy
sự chuyển dịch trọng tâm vào việc đưa ra các
giải pháp cụ thể tăng cường chất lượng phục
vụ người dân và chất lượng giải quyết thủ tục
hành chính, từ đó tiết kiệm thời gian và công
sức của người dân. Mặc dù một số giải pháp
chủ yếu hiện nay mới chỉ là nhằm giải quyết
vấn đề số lượng, hoặc tình trạng trễ hạn hồ
sơ, và tăng cường sự phối hợp, liên thông
giữa các cấp hành chính trong giải quyết thủ
tục hành chính, giảm sự chồng chéo, lãng
phí trong trang bị các điều kiện bảo đảm,
nhưng các kết quả của các giải pháp này về
lâu dài sẽ đóng góp cho việc đạt mục tiêu
tăng chất lượng và hiệu quả giải quyết thủ
tục hành chính, thực chất là việc giảm thiểu
chi phí giao dịch (transaction cost), liên
quan đến chi phí về mặt thời gian và tiền bạc
cho những giao dịch thủ tục hành chính.
Các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan như Luật Hành chính công hay các
Nghị định của Chính phủ về cơ chế một cửa,
một cửa liên thông,... mà Quốc hội và Chính
phủ đang xây dựng cần tính đến những định
hướng chiến lược lâu dài để vượt trên tư duy
coi công dân là “khách hàng” thông thường
trong thiết kế và vận hành dịch vụ công,
để xây dựng nền móng vững chắc cho việc
các công dân có thể đóng góp trực tiếp vào
việc thiết kế và vận hành dịch vụ công, chứ
không chỉ dừng lại ở việc là những người
đứng ngoài thụ hưởng bị động
(Tiếp theo trang 46)
PHÁP LUẬT DÂN SỐ: ....
hiện các công ước, điều ước và văn bản quốc
tế về dân số và phát triển.
Khi việc lồng ghép biến dân số vào
hoạch định chính sách, lập kế hoạch được
cải thiện, sẽ góp phần giải quyết tốt các vấn
đề dân số như vấn đề về mức sinh, mất cân
bằng giới tính khi sinh, thích ứng với già hoá
dân số, nâng cao chất lượng dân số... sẽ có
tác động tích cực đến sự phát triển nhanh và
bền vững của đất nước, nhất là trong điều
kiện nguồn lực trong nước rất hạn chế, sự hỗ
trợ quốc tế ngày càng ít đi, yêu cầu cải cách
hành chính ngày càng cao... Để giải quyết
có hiệu quả vấn đề này, Dự thảo Luật Dân
số cần bao hàm các quy định điều chỉnh việc
thực hiện thống nhất từ trung ương đến địa
phương và sự tham gia của các ngành, đoàn
thể cho phù hợp với từng vùng miền và phù
hợp với cam kết của Chính phủ trong việc
thực hiện các công ước, điều ước và văn bản
quốc tế về dân số và phát triển.
3.6 Tổ chức thực hiện các biện pháp
của công tác dân số
Những biện pháp cơ bản trong quản
lý nhà nước về dân số cần phải được thể
chế hóa trong Luật Dân số. Luật Dân số cần
quy định việc nâng cao năng lực quản lý,
xây dựng các biện pháp hỗ trợ quản lý; mục
tiêu đầu tư vào công tác DS-KHHGĐ; trách
nhiệm của các cơ sở dịch vụ chăm sóc sức
khỏe sinh sản và sức khỏe di truyền; nhiệm
vụ của các cấp chính quyền và đoàn thể,
trách nhiệm của toàn xã hội trong công tác
dân số
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 22(350) T11/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_khach_hang_den_cong_dan_dong_thiet_ke_va_van_hanh_cac_dic.pdf