Pháp luật đã tạo cơ hội cho các chủ
thể tham gia quan hệ pháp luật về GVGĐ
thoả thuận về đào tạo nghề và phát triển
nghề GVGĐ trở thành một nghề chính thống
trong xã hội. Tuy nhiên, để trở thành một
nghề chính thức được đào tạo bài bản với
các kỹ năng cần thiết không phải là việc làm
đơn giản. Trong khi GVGĐ là một công việc
thường xuyên nhưng gắn với một địa điểm
cố định, tính thời vụ và ngắn hạn luôn là lựa
chọn hàng đầu kể cả từ phía NSDLĐ và từ
phía người GVGĐ. Đó cũng là một trong số
các nguyên nhân dẫn đến hoạt động đào tạo
nghề GVGĐ chưa được chú trọng, phát
triển. GVGĐ ở Việt Nam được xem là một
thị trường lớn, trong khi nguồn nhân lực
nhàn rỗi còn rất nhiều. Tuy nhiên, thị trường
lao động GVGĐ còn mới và chưa có tính
chuyên nghiệp, chưa được đào tạo một cách
bài bản như thị trường GVGĐ tại châu Phi
hay Singapore Theo nghiên cứu của
Trung tâm quốc gia Dự báo và thông tin tập
thể lao động, có đến 42,5% phụ nữ ở các
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa có nhu
cầu tìm kiếm công việc GVGĐ. Mảng đào
tạo nghề trong lĩnh vực này đang có yêu cầu
khá cao; có 80,7% lao động tiềm năng cho
rằng, cần dạy kiến thức, kỹ năng cho NLĐ;
71% người được hỏi có nhu cầu tham gia
các lớp dạy kiến thức, kỹ năng12. Tuy nhiên,
theo số liệu khảo sát của Trung tâm Nghiên
cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng
(CFCD) năm 2015, 90% người GVGĐ ở
Việt Nam chưa được qua đào tạo nghề và
chủ yếu làm theo kinh nghiệm13. Như vậy,
đa số người GVGĐ chưa được đào tạo bài
bản. Đối với những người GVGĐ đang làm
việc, tỷ lệ tham gia các khoá đào tạo GVGĐ
rất thấp, chỉ chiếm 18,6%. Lý do người
GVGĐ đưa ra là đã có kinh nghiệm làm
việc, do trình độ học vấn thấp hoặc do tuổi
cao14. Với những con số thống kê này, rõ
ràng, người GVGĐ chưa được chuẩn hoá
nghề nghiệp và nhu cầu được đào tạo nghề
vẫn đang là một bài toán khó. Từ năm 2015,
thị trường lao động ASEAN đã chính thức
mở cửa, nếu không sớm chuyên nghiệp hoá
GVGĐ, lao động GVGĐ Việt Nam khó có
thể đáp ứng được các tiêu chuẩn làm việc.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tù quy định đến thực tiễn thực hiện quyền của lao động giúp việc gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Quy định về quyền của lao động giúp
việc gia đình
Thứ nhất, về quyền thiết lập quan hệ
GVGĐ thông qua hình thức hợp đồng lao
động (HĐLĐ)
Pháp luật hiện hành đã quy định rất
chi tiết, cụ thể về quyền thiết lập quan hệ
GVGĐ thông qua hình thức hợp đồng.
Những quy định này là một hướng mới để
bảo vệ quyền lợi của lao động GVGĐ. Tuy
nhiên, trong quá trình vận dụng vào thực
tiễn cuộc sống, các QPPL hiện hành về
GVGĐ vẫn còn những hạn chế, cần phải
xem xét để điều chỉnh cho phù hợp với yêu
cầu khách quan.
i) Đối với trường hợp ký kết HĐLĐ
với người lao động (NLĐ) không biết chữ.
Điều 5 Nghị định số 27/NĐ-CP ngày
07/4/2014 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của BLLĐ năm 2012
về lao động GVGĐ (Nghị định 27) quy
định: “Trong trường hợp cần thiết, NLĐ yêu
cầu người sử dụng lao động (NSDLĐ) mời
người thứ ba không phải là thành viên của
23
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(332) T2/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
TÛÂ QUY ÀÕNH ÀÏËN THÛÅC TIÏÎN THÛÅC HIÏÅN
QUYÏÌN CUÃA LAO ÀÖÅNG GIUÁP VIÏÅC GIA ÀÒNH
Đào Mộng Điệp*
Trương Thanh Khôi**
*TS. Đại học Luật Huế.
**Đại học Luật Huế.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: quyền của lao
động giúp việc gia đình, lao
động, lao động giúp việc gia
đình
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 03/05/2016
Biên tập: 17/05/2016
Duyệt bài: 28/05/2016
Article Infomation:
Keywords: rights of
employee as housemaid,
labour, employee as
housemaid
Article History:
Received: 03 May 2016
Edited: 17 May 2016
Approved: 28 May 2016
Tóm tắt:
Pháp luật về lao động giúp việc gia đình (GVGĐ) được ghi nhận trong Bộ
luật Lao động (BLLĐ) năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Pháp
luật về lao động GVGĐ đã tạo lập được hành lang pháp lý cơ bản trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GVGĐ. Tuy
nhiên trong thực tế, nhiều quy phạm pháp luật (QPPL) vẫn chưa đi vào
cuộc sống, khi áp dụng vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, cần phải tiếp tục
nghiên cứu, xem xét và sửa đổi các QPPL này trong thời gian tới.
Abstract:
Legal regulations for employee as housemaid are stated in the Labour Code
(LC) of 2012 and the related guidelines for implementation. The labour law
has established a basic legal framework of housemaid rules. However,
several legal regulations on labours have still showed some drawbacks in
reality. Therefore, the regulations for housemaid need to be further
reviewed and amended accordingly in the near future.
hộ gia đình làm chứng trước khi ký HĐLĐ”.
Nhưng người thứ ba trong trường hợp này
là đối tượng nào với các điều kiện cụ thể gì
thì pháp luật chưa quy định. Điều 4 Thông
tư số19/TT-BLĐTBXH ngày 15/8/2014 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị
định 27 chỉ quy định: “Trong trường hợp có
người thứ ba không phải là thành viên của
hộ gia đình thuê mướn, sử dụng lao động
GVGĐ làm chứng thì trong HĐLĐ phải ghi
rõ họ và tên, số chứng minh nhân dân hoặc
số hộ chiếu, hộ khẩu thường trú, địa chỉ liên
lạc khi cần và chữ ký của người làm chứng”.
Vậy, giả sử người thứ ba là người bà con họ
hàng với NSDLĐ thì pháp luật có thừa nhận
không? Ý chí của các bên có bị ảnh hưởng
không? Hệ quả pháp lý khi các bên khởi
kiện tại toà sẽ như thế nào? Đây là một trong
những rào cản trong quá trình thực thi pháp
luật về lao động GVGĐ.
ii) Về quyền tạm hoãn HĐLĐ của các
bên. Điều 9 Nghị định 27 nêu rõ: Hết thời
hạn tạm hoãn HĐLĐ, NSDLĐ phải nhận
NLĐ trở lại làm việc. Sau thời hạn tạm hoãn
HĐLĐ hoặc thời hạn hai bên đã thoả thuận
theo quy định tại khoản 2 Điều này, nếu
NLĐ không có mặt thì NSDLĐ có quyền
đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Tuy nhiên,
pháp luật lại không quy định trách nhiệm
của NSDLĐ nếu như hết thời gian tạm hoãn
mà NSDLĐ không nhận NLĐ quay trở lại
làm việc. Điều 20 Nghị định số
95/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao
động, bảo hiểm xã hội (BHXH), đưa người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng, cũng không đề cập đến vấn
đề này. Thêm vào đó, pháp luật cũng chưa
đưa ra các dự liệu trong trường hợp NLĐ
không có mặt nhưng có lý do chính đáng thì
NSDLĐ có quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ hay không? Trong khi đó, BLLĐ
năm 2012 quy định rõ trường hợp NLĐ
không có mặt tại nơi tạm hoãn quá 15 ngày,
NSDLĐ có quyền xử lý kỷ luật theo Điều
126 BLLĐ năm 2012.
iii) Về quyền đơn phương chấm dứt
HĐLĐ. Pháp luật quy định người GVGĐ có
quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ nhưng
phải báo trước một khoảng thời gian nhất
định. Điều 11 BLLĐ năm 2012 quy định:
“NSDLĐ có quyền trực tiếp hoặc thông qua
tổ chức dịch vụ việc làm, doanh nghiệp cho
thuê lại lao động để tuyển dụng lao động, có
quyền tăng, giảm lao động phù hợp với nhu
cầu sản xuất, kinh doanh”. Về vấn đề này,
có một số ý kiến cần trao đổi:
- Đối với hành vi tiết lộ thông tin cá
nhân của NLĐ gây ảnh hưởng xấu đến đời
tư, hình ảnh của lao động GVGĐ thì họ có
cần báo trước hay không? Thời gian báo
trước quy định như thế nào?
- Điểm a khoản 3 Điều 11 Nghị định
27 nêu rõ: lao động GVGĐ không phải báo
trước khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ
trong trường hợp bị NSDLĐ hoặc thành
viên trong hộ gia đình ngược đãi, xâm phạm
danh dự, nhân phẩm, quấy rối tình dục, dùng
vũ lực hoặc cưỡng bức lao động. Tuy nhiên,
Điều 37 BLLĐ năm 2012 lại quy định đối
với những trường hợp này, phải báo trước ít
nhất 03 ngày. Như vậy, quy định trong Nghị
định 27 có mâu thuẫn với các quy định trong
BLLĐ năm 2012 hay không?
iii) Điểm c khoản 3 Điều 11 Nghị định
27 quy định: Lao động GVGĐ không phải
báo trước khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ
trong trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn hoặc
lý do bất khả kháng khác mà NLĐ đã tìm
mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể
tiếp tục thực hiện HĐLĐ. Tuy nhiên, cho
đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về lý
do bất khả kháng. Khoản 2 Điều 12 Nghị
định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số nội dung của BLLĐ
năm 2012 (Nghị định 05) chỉ giải thích lý
do bất khả kháng thuộc một trong các
24
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
trường hợp sau: do địch họa, dịch bệnh; di
dời hoặc thu hẹp địa điểm sản xuất, kinh
doanh, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Vậy trong thực tiễn có được
vận dụng dẫn chiếu theo quy định tại Nghị
định 05 không?
Thứ hai, quyền được hưởng lương
Hiện nay, pháp luật đã quy định cụ thể
chế độ tiền lương, tiền thưởng để bảo vệ tối
đa quyền lợi của lao động GVGĐ. Tuy
nhiên, pháp luật chưa quy định các cơ chế
để đảm bảo cho việc thoả thuận được thực
thi trên thực tế. Các biện pháp để cho quan
hệ lao động tiền lương của lao động GVGĐ
được thực hiện có hiệu quả cũng chưa được
đề cập đến.
Thứ ba, quyền hưởng chế độ BHXH,
an toàn lao động, vệ sinh lao động, đảm bảo
các điều kiện lao động khác
Khi tham gia quan hệ GVGĐ, một
trong số các quyền mà lao động GVGĐ
hướng đến là quyền hưởng BHXH. Tuy
nhiên, pháp luật vẫn còn những vấn đề bất
cập, hạn chế ảnh hưởng đến việc thực thi
trên thực tế.
i) Quyền hưởng chế độ ốm đau.
Khoản 1 Điều 20 Nghị định 27 quy định:
Khi NLĐ sống cùng gia đình NSDLĐ bị
ốm, bị bệnh, NSDLĐ tạo điều kiện để NLĐ
nghỉ ngơi, khám, chữa bệnh. Chi phí khám,
chữa bệnh do NLĐ chi trả, trừ trường hợp
hai bên có thoả thuận khác. Quy định này
chưa hợp lý bởi lẽ, pháp luật chỉ quy định
trách nhiệm của NSDLĐ tạo điều kiện để
NLĐ nghỉ ngơi, khám, chữa bệnh, nhưng
trách nhiệm hỗ trợ các chi phí khám lại do
NLĐ chi trả. Mặc dù Điều 19 Nghị định 27
đặt ra vấn đề NSDLĐ chi trả một khoản tiền
để NLĐ tự lo BHXH nhưng quy định này ít
tính khả thi. Thực tế, các hộ gia đình hiện
nay không biết mức đóng phí BHXH, bảo
hiểm y tế (BHYT) là bao nhiêu để chi trả
thêm cùng kỳ với lương của NLĐ. Chính vì
vậy, khi NLĐ ốm, NLĐ cũng sẽ không có
cơ hội để hưởng chế độ ốm đau theo quy
định. Thêm vào đó, pháp luật không quy
định nếu NSDLĐ không trích thêm một
khoản tiền trả thêm cùng kỳ trả lương của
NLĐ một khoản tiền tương đương mức
đóng BHXH bắt buộc, BHYT thì trách
nhiệm của NSDLĐ như thế nào? Chế tài cụ
thể ra sao? Đến nay, các vấn đề này vẫn còn
bỏ ngỏ.
ii) Đối với trường hợp nghỉ hàng năm,
hiện nay pháp luật đã quy định một khoảng
thời gian hợp lý cho NLĐ nghỉ hàng năm.
Tuy nhiên, đối với những lao động GVGĐ
làm việc lâu năm cho một NSDLĐ, vấn đề
thâm niên đặt ra như thế nào? Đối với NLĐ
làm việc lâu năm (5 năm) có thâm niên công
tác thì thời gian nghỉ hàng năm được cộng
thêm một ngày. Vậy đối với lao động
GVGĐ, đây là một loại hình lao động đặc
biệt, quy định về trường hợp người giúp việc
thâm niên cho một hoặc một số hộ gia đình
có được áp dụng nghỉ hàng năm theo thâm
niên làm việc không?
iii) Khoản 1 Điều 25 Nghị định 27 quy
định: Khi NLĐ bị tai nạn, NSDLĐ có trách
nhiệm: “a) Cấp cứu kịp thời và điều trị chu
đáo; b) Thông báo cho người thân của NLĐ
biết; c) Thực hiện trách nhiệm của NSDLĐ
theo Điều 144 BLLĐ năm 2012; d) Khai
báo và phối hợp với các cơ quan chức năng
có thẩm quyền để điều tra tai nạn lao động
theo quy định”. Theo đó, Điều 144 BLLĐ
năm 2012 quy định trách nhiệm của
NSDLĐ phải thanh toán toàn bộ chi phí y tế
từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn
định đối với NLĐ không tham gia BHYT,
trả đủ tiền lương theo HĐLĐ và bồi thường
cho NLĐ bị tai nạn lao động. Tuy nhiên,
quyền hưởng bồi thường tai nạn lao động
chỉ áp dụng đối với trường hợp NLĐ tham
gia BHXH bắt buộc. Trong khi đó, lao động
GVGĐ lại thuộc diện BHXH tự nguyện.
Vấn đề đặt ra ở chỗ, nếu NSDLĐ không trả
thêm một khoản tiền để NLĐ tự lo BHXH,
BHYT đến khi bị tai nạn lao động thì lao
25
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(332) T2/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
động GVGĐ có được vận dụng khoản 2
Điều 145 BLLĐ1 để giải quyết không?
Quyền lợi của lao động GVGĐ trong trường
hợp này giải quyết như thế nào? NSDLĐ có
phải trả khoản tiền tương ứng với chế độ tai
nạn lao động cho lao động GVGĐ hay
không?
Thứ tư, quyền được tôn trọng danh
dự, nhân phẩm, đối xử công bằng, quy định
các biện pháp chống lại mọi hình thức lạm
dụng, quấy rối tình dục, bạo lực
Điều 183 BLLĐ năm 2012, Điều 6
Thông tư số 19/2014/TT- BLĐTBXH ngày
15/8/2014 của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều
của Nghị định 27 quy định những hành vi bị
cấm của NSDLĐ và các thành viên trong hộ
gia đình như: i) ngược đãi, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm, quấy rối tình dục, cưỡng
bức lao động; ii) phạt tiền, cắt lương NLĐ;
iii) giao việc cho NLĐ không theo HĐLĐ;
iv) giữ bản chính giấy tờ tuỳ thân của NLĐ;
v) tiết lộ thông tin cá nhân ảnh hưởng xấu
đến NLĐ; vi) tự ý lục soát, sử dụng đồ dùng
cá nhân của NLĐ và các hành vi khác do hai
bên thoả thuận. Hiện nay, Nghị định 05 đã
cụ thể hoá về hành vi “ngược đãi, cưỡng bức
lao động”. Theo đó, ngược đãi, cưỡng bức
lao động được hiểu là hành vi bị NSDLĐ
đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ,
hành vi làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, nhân
phẩm, danh dự hoặc cưỡng bức lao động.
Đối với khái niệm cưỡng bức lao động đã
được thể hiện trong Điều 37 BLLĐ năm
2002 và được cụ thể hoá trong Điều 11 Nghị
định số 44/2003/NĐ-CP ngày 9/5/2003 của
Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thực
hiện một số điều của BLLĐ năm 2002 về
HĐLĐ. Theo đó, cưỡng bức lao động được
hiểu là “trường hợp NLĐ bị ép buộc làm
những công việc không phù hợp với giới
tính ảnh hưởng đến sức khoẻ, nhân phẩm,
danh dự của NLĐ”. Khoản 10 Điều 3 BLLĐ
năm 2012 quy định: “cưỡng bức lao động là
việc dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc
các thủ đoạn khác nhằm buộc người khác
lao động trái ý muốn của họ”. Tuy nhiên,
khái niệm này mới chỉ mô tả một cách trừu
tượng dấu hiệu của cưỡng bức lao động.
Trong khi đó, trên thực tế lại không dễ để
nhận biết các hành vi cưỡng bức lao động
để xác định các biện pháp chế tài kèm theo.
Ngoài ra, BLLĐ năm 2012 có 242 điều thì
chỉ có 4 điều quy định về cưỡng bức lao
động (Điều 3, 8, 37, 183) dưới dạng những
hành vi bị cấm hoặc hành vi được quyền
thực hiện sự phản kháng với những trường
hợp bị cưỡng bức. Tuy nhiên, trong hệ thống
pháp luật lao động, không có điều luật nào
quy định cụ thể về các hình thức của lao
động cưỡng bức làm cơ sở nhận diện hành
vi này trên thực tế. Điều này gây ra cách
hiểu không thống nhất khi tiếp cận về cưỡng
bức lao động hay sự mập mờ trong việc quy
định có hay không dấu hiệu của cưỡng bức
lao động2. Chính vì vậy, nó làm ảnh hưởng
đến việc áp dụng pháp luật thống nhất đối
với lao động GVGĐ khi họ thực hiện quyền
nhân thân. Bên cạnh đó, khái niệm quấy rối
tình dục chưa được pháp luật quy định trong
các văn bản dưới luật làm cơ sở xác định các
dấu hiệu nhận biết, các dạng hành vi được
xem là quấy rối tình dục, chế tài vi phạm đối
với hành vi quấy rối tình dục đến nay vẫn còn
là khoảng trống của pháp luật. Điều đó tạo ra
rào cản trong quá trình lao động GVGĐ thực
hiện quyền của mình trên thực tế.
Thứ năm, quyền được đào tạo nghề,
nâng cao kỹ năng
GVGĐ là một loại hình công việc đặc
26
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
1 Điều 145. Quyền của NLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
2. NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc mà NSDLĐ chưa đóng BHXH cho cơ quan BHXH, thì được NSDLĐ
trả khoản tiền tương ứng với chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của Luật BHXH. Việc chi trả
có thể thực hiện một lần hoặc hàng tháng theo thỏa thuận của các bên.
thù gắn với từng hộ gia đình. Trong đó,
người GVGĐ cũng cần phải có rất nhiều kỹ
năng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
xã hội. Theo đó, nghề GVGĐ cần có 07
nhóm năng lực bao gồm: i) năng lực cơ bản;
ii) chế biến món ăn - đồ uống; iii) lau dọn
nhà, sân vườn; iv) giặt - là; v) chăm sóc trẻ
sơ sinh - trẻ nhỏ; vi) chăm sóc người cao
tuổi, người bệnh; vii) chăm sóc vật nuôi, cây
cảnh thông thường trong gia đình. Các nhóm
này chia thành 21 đơn vị, với 80 thành phần
nhiệm vụ cụ thể trong công việc gia đình3.
Pháp luật cũng tạo cơ hội để các chủ
thể tham gia quan hệ GVGĐ tự thoả thuận
và thị trường lao động tự điều tiết. Bên cạnh
đó, pháp luật cũng quy định NSDLĐ có
nhiệm vụ “tạo cơ hội cho người GVGĐ
được tham gia học văn hoá, học nghề” (Điều
181 BLLĐ năm 2012) và quy định cụ thể về
điều khoản thoả thuận trong HĐLĐ về thời
gian đi học (trong ngày, trong tuần hoặc
trong tháng); chi phí hỗ trợ, kỳ hỗ trợ (theo
ngày, theo tuần hoặc theo tháng), hình thức
hỗ trợ cho NLĐ. Tuy nhiên, việc quy định
NSDLĐ có trách nhiệm tạo cơ hội cho
người GVGĐ được học văn hoá khó thực
hiện hiệu quả trên thực tế.
2. Thực tiễn thực thi quyền của lao động
giúp việc gia đình
Thứ nhất, đối với quyền thiết lập quan
hệ GVGĐ thông qua hình thức HĐLĐ
Theo một số liệu thống kê, trên thế
giới, lao động GVGĐ chiếm một tỷ lệ đáng
kể trong lực lượng lao động, chiếm 4 - 10%
lực lượng lao động ở các quốc gia đang phát
triển và 1 - 2,5% ở các quốc gia công nghiệp
phát triển. Các quốc gia có nhu cầu lao động
GVGĐ nhiều là Bắc Mỹ và các nước giàu
có ở châu Á như Nhật Bản, Malaysia,
Singapore, Hàn Quốc và nhiều nước Ả Rập4.
Tại Việt Nam, theo Trung tâm Dự báo và
thông tin thị trường lao động quốc gia, số
lượng việc làm liên quan đến GVGĐ tăng từ
157.000 người năm 2008 lên đến 246.000
người năm 20155. Với số lượng sử dụng lao
động GVGĐ ngày càng tăng trên thế giới
cũng như ở Việt Nam, pháp luật đã tạo lập
hành lang pháp lý để thiết lập và duy trì mối
quan hệ giữa người giúp việc và NSDLĐ
thông qua giao kết HĐLĐ. Thực tế cho thấy,
để thiết lập mối quan hệ giữa người giúp
việc và NSDLĐ, hình thức thoả thuận bằng
lời nói vẫn là sự lựa chọn ưu tiên hàng đầu.
Các kết quả nghiên cứu đều cho thấy, 90%
người giúp việc cho biết hình thức thoả
thuận công việc GVGĐ của họ với gia chủ
là bằng miệng. Lý do chính khiến NLĐ
không ký HĐLĐ vì họ cho rằng, việc ký hợp
đồng là không cần thiết (61,8% người), hay
vì gia đình chủ là người thân quen, họ hàng
nên không cần ký (22,6%). Tìm hiểu về dự
định ký kết hợp đồng bằng văn bản của
người giúp việc tiềm năng, chỉ 46,8% có ý
định ký kết hợp đồng với gia chủ6. Như vậy,
có thể thấy trên thực tế việc thiết lập quan
hệ thông qua giao kết HĐLĐ bằng văn bản
đã không được thực hiện một cách triệt để.
Một mặt, NSDLĐ vi phạm các quy định liên
quan đến việc giao kết HĐLĐ bằng văn bản.
Mặt khác, chính người giúp việc đã tự tước
27
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(332) T2/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
2 Đào Mộng Điệp, Mai Đăng Lưu, Nội luật hoá quy định của Công ước 29 về lao động cưỡng bức và bắt buộc năm
1930, Tạp chí Nghề luật, số 2/2015, tr. 32-37.
3 GVGĐ được công nhận là một nghề chuyên nghiệp;
4 Báo cáo rà soát pháp luật, chính sách, nghiên cứu quốc tế và Việt Nam liên quan đến lao động là người GVGĐ,
(2013), Trung tâm Nghiên cứu Giới, gia đình và phát triển cộng đồng;
phap-lat-chinh-sach-nghien-cuu-quoc-te-va-viet-nam-lien-quan-den-lao-dong-giup-viec-gia-dinh.html
5 Báo cáo tóm tắt tổng quan tình hình lao động GVGĐ tại Việt Nam từ 2007 đến nay.
6 Báo cáo tóm tắt tổng quan tình hình lao động GVGĐ tại Việt Nam từ 2007 đến nay.
bỏ cơ sở pháp lý bảo vệ quyền lợi cho mình.
Vì vậy, tuy pháp luật đã có nhưng việc thực
thi về loại quyền này vẫn còn những lỗ hổng
và sự vi phạm nhất định. Ngoài ra, trong
thực tế, đa số trường hợp NSDLĐ có những
vi phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của
người giúp việc. Trong quá trình ký kết, thay
đổi, đơn phương chấm dứt HĐLĐ với người
giúp việc, NSDLĐ phải báo trước cho NLĐ
biết. Tuy nhiên, trên thực tế, đa số NSDLĐ
không thực hiện theo đúng quy định của
pháp luật. Khi muốn cho NLĐ nghỉ việc,
NSDLĐ chấm dứt ngay hoặc có báo trước
nhưng không theo đúng thời gian pháp luật
quy định.
Thứ hai, đối với quyền được hưởng
lương
Thực tế cho thấy, NSDLĐ và người
giúp việc đã thoả thuận về tiền lương theo
yêu cầu của công việc, hoàn cảnh, điều kiện
của từng hộ gia đình cũng như hoàn cảnh địa
phương nơi người giúp việc làm việc. Chính
vì vậy, giữa các bên cũng đã có sự chủ động
trong việc điều chỉnh tiền lương cho phù
hợp với thực tế và không trái quy định của
pháp luật. Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê, tiền công trung bình trong thực tế 01
tháng của lao động giản đơn năm 2010 là
1.748.000 đồng. Trong khi tiền lương trung
bình 01 tháng của lao động GVGĐ sống
cùng gia chủ là 1.100.000 đồng (2009); năm
2011 là 1.981.000 đồng; năm 2012 là
2.770.000 đồng7. So với tiền lương của một
lao động giản đơn thì tiền lương của người
giúp việc cao hơn, nhưng không đáng kể.
Đặc biệt hiện nay, người giúp việc lại không
có nhiều kinh nghiệm khi tiến hành thoả
thuận để được hưởng chế độ tiền lương cao
hơn, đáp ứng với yêu cầu linh hoạt của thị
trường lao động. Thêm vào đó, hiện pháp
luật chỉ quy định tiền lương tối thiểu chung
để làm thước đo trong việc trả lương, nhưng
lại chưa quy định một mức lương tối thiểu
chung cho riêng nghề lao động GVGĐ.
Chính vì vậy, tiền lương của người giúp việc
hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tế.
Thứ ba, đối với quyền hưởng chế độ
BHXH, BHYT
Quyền hưởng các chế độ BHXH,
BHYT của lao động GVGĐ đã được pháp
luật quy định rất cụ thể. Theo đó, NSDLĐ
có trách nhiệm chi trả cùng lúc với kỳ lương
của NLĐ một khoản tiền tương đương với
mức đóng BHXH bắt buộc. Điều đó có
nghĩa là lao động GVGĐ được hưởng chế
độ BHXH tự nguyện thông qua một khoản
tiền do NSDLĐ chi trả. Như vậy, bước đầu
pháp luật đã tạo cơ hội cho lao động GVGĐ
được hưởng chế độ chính sách về BHXH,
BHYT. Tuy nhiên, nghiên cứu của Tổ chức
Lao động quốc tế chỉ ra rằng, trên thực tế,
mới chỉ có 2% và 0,83% trong 599 người
GVGĐ được khảo sát được gia chủ mua
BHXH và BHYT8.
Quy định NSDLĐ có trách nhiệm trả
tiền để NLĐ tự lo BHXH là một bước tiến
trong việc bảo vệ quyền lợi của lao động
GVGĐ và từng bước luật hoá, thừa nhận
GVGĐ là một nghề chính danh trong xã hội.
Tuy nhiên, ngoài khoản tiền trả cho NLĐ
cao hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính
phủ quy định, NSDLĐ phải trả thêm khoản
tiền cho người GVGĐ đóng BHXH, BHYT
làm cho khoản tiền NSDLĐ chi trả tăng lên
rất nhiều. Thêm vào đó, đa số những người
GVGĐ là đến từ các vùng quê, điều kiện
kinh tế khó khăn nên chính bản thân họ cũng
28
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
7 Báo cáo tóm tắt tổng quan tình hình lao động GVGĐ tại Việt Nam từ 2007 đến nay.
8 Hợp đồng lao động của người GVGĐ cần quy định cụ thể; Nguồn:
ThongTin_ChiTiet.aspx?MaTT=131220151483757110&MaMT=23.
không trích từ tổng số tiền NSDLĐ chi trả
để đóng BHXH. Ngoài ra, chế tài cho
trường hợp NSDLĐ không đóng BHXH,
BHYT cho lao động GVGĐ cũng chưa được
pháp luật đề cập. Chính vì vậy, quyền hưởng
BHXH và BHYT của lao động GVGĐ vẫn
còn gặp nhiều vướng mắc.
Thứ tư, đối với quyền hưởng chế độ an
toàn lao động, vệ sinh lao động và đảm bảo
các điều kiện lao động khác
Việc hưởng chế độ an toàn lao động,
vệ sinh lao động và đảm bảo các điều kiện
lao động khác của lao động GVGĐ phụ
thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của từng gia
chủ. Theo số liệu một cuộc khảo sát, trong
số 286 người GVGĐ sống cùng gia chủ, có
37,4% người được gia đình chủ bố trí nơi
nghỉ là phòng riêng có cửa, có khoá và 6,3%
người giúp việc có nơi nghỉ riêng có cửa, có
khoá. Còn lại, một bộ phận đáng kể người
GVGĐ do đặc thù công việc hoặc do diện
tích nhà chật hẹp khiến họ phải nghỉ chung
phòng, chung giường với các thành viên
khác trong gia đình chủ (41,6%)9. Người
GVGĐ chủ yếu đảm nhiệm công việc nội
trợ, chăm sóc trẻ em hoặc chăm sóc người
cao tuổi, người ốm. Thời gian làm việc cả
ban ngày và ban đêm là 22,6% và 7,7%
người GVGĐ làm việc vào ban ngày, song
phải chuẩn bị tinh thần sẵn sàng làm việc
ban đêm. Trung bình số giờ làm việc ban
ngày của người GVGĐ là 10,30 giờ/ngày,
thời gian làm việc ban đêm là khoảng 0,3h10.
Một thực tế là khi người GVGĐ bị ốm đau,
bị bệnh, NSDLĐ thường đưa NLĐ đến cơ
sở y tế hoặc mua thuốc cho người GVGĐ.
Tuy nhiên, đối với chế độ khám sức khoẻ
định kỳ cho người GVGĐ, qua khảo sát cho
thấy, đa số người GVGĐ không được hưởng
chế độ này. Đối với việc nghỉ hàng năm,
nghỉ hàng tuần và nghỉ lễ Tết, lao động
GVGĐ cũng có sự thoả thuận với NSDLĐ,
nhưng thực tế cho thấy, lao động GVGĐ vẫn
chưa được nghỉ theo đúng quy định của
BLLĐ năm 2012. Phần lớn họ nghỉ gián
đoạn, vào thời điểm giải quyết các nhu cầu
cá nhân và gia đình của chính người GVGĐ
cũng như NSDLĐ mà không có một lịch
trình nghỉ theo quy định của pháp luật. Qua
khảo sát thực tế, rõ ràng chế độ mà người
GVGĐ hiện tại đang hưởng chưa đáp ứng
được so với nhu cầu ngày càng cao của mỗi
người GVGĐ.
Thứ năm, đối với quyền được tôn
trọng danh dự, nhân phẩm, đối xử công
bằng, các biện pháp chống lại mọi hình thức
lạm dụng, quấy rối tình dục, bạo lực
Khi tham gia vào hoạt động GVGĐ,
có nhiều lao động GVGĐ được NSDLĐ đối
đãi, cư xử công bằng như những người thân
trong gia đình. Người giúp việc được quan
tâm chu đáo, được tôn trọng danh dự, nhân
phẩm và tạo mọi điều kiện để sống trong
môi trường làm việc tốt nhất. Tuy nhiên, trên
thực tế vẫn còn rất nhiều người GVGĐ bị
ngược đãi, bị quấy rối tình dục, bị cưỡng
bức lao động và bị NSDLĐ sử dụng vũ lực.
Thực tế cho thấy, người GVGĐ khi thực
hiện công việc thường xuyên trong môi
trường khép kín, họ phải đối mặt với rất
nhiều rủi ro. Số liệu một cuộc khảo sát cho
thấy, có hơn 30% số lao động GVGĐ bị bạo
lực; gần 10,5% bị quấy rối tình dục, bị đề
nghị quan hệ hoặc ép quan hệ tình dục;
20,2% bị mắng chửi; 2,4% bị đánh đập, tát,
đẩy ngã; 0,8% bị đe doạ, đập phá đồ dùng
cá nhân; 7,8% bị giữ giấy tờ tuỳ thân; 4% bị
cấm tiếp xúc; 1,8% bị giữ lương; 2% không
29
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(332) T2/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
9 Báo cáo tóm tắt tổng quan tình hình lao động GVGĐ tại Việt Nam từ 2007 đến nay.
10 Báo cáo tóm tắt tổng quan tình hình lao động GVGĐ tại Việt Nam từ 2007 đến nay.
được cho về thăm nhà. Thậm chí có trường
hợp NSDLĐ đối xử ngược đãi thậm tệ, bạo
hành người GVGĐ nên đã bị truy tố về tội
cố ý gây thương tích và hành hạ người
khác11.
Thứ sáu, đối với quyền được đào tạo
nghề, phát triển kỹ năng
Pháp luật đã tạo cơ hội cho các chủ
thể tham gia quan hệ pháp luật về GVGĐ
thoả thuận về đào tạo nghề và phát triển
nghề GVGĐ trở thành một nghề chính thống
trong xã hội. Tuy nhiên, để trở thành một
nghề chính thức được đào tạo bài bản với
các kỹ năng cần thiết không phải là việc làm
đơn giản. Trong khi GVGĐ là một công việc
thường xuyên nhưng gắn với một địa điểm
cố định, tính thời vụ và ngắn hạn luôn là lựa
chọn hàng đầu kể cả từ phía NSDLĐ và từ
phía người GVGĐ. Đó cũng là một trong số
các nguyên nhân dẫn đến hoạt động đào tạo
nghề GVGĐ chưa được chú trọng, phát
triển. GVGĐ ở Việt Nam được xem là một
thị trường lớn, trong khi nguồn nhân lực
nhàn rỗi còn rất nhiều. Tuy nhiên, thị trường
lao động GVGĐ còn mới và chưa có tính
chuyên nghiệp, chưa được đào tạo một cách
bài bản như thị trường GVGĐ tại châu Phi
hay Singapore Theo nghiên cứu của
Trung tâm quốc gia Dự báo và thông tin tập
thể lao động, có đến 42,5% phụ nữ ở các
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa có nhu
cầu tìm kiếm công việc GVGĐ. Mảng đào
tạo nghề trong lĩnh vực này đang có yêu cầu
khá cao; có 80,7% lao động tiềm năng cho
rằng, cần dạy kiến thức, kỹ năng cho NLĐ;
71% người được hỏi có nhu cầu tham gia
các lớp dạy kiến thức, kỹ năng12. Tuy nhiên,
theo số liệu khảo sát của Trung tâm Nghiên
cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng
(CFCD) năm 2015, 90% người GVGĐ ở
Việt Nam chưa được qua đào tạo nghề và
chủ yếu làm theo kinh nghiệm13. Như vậy,
đa số người GVGĐ chưa được đào tạo bài
bản. Đối với những người GVGĐ đang làm
việc, tỷ lệ tham gia các khoá đào tạo GVGĐ
rất thấp, chỉ chiếm 18,6%. Lý do người
GVGĐ đưa ra là đã có kinh nghiệm làm
việc, do trình độ học vấn thấp hoặc do tuổi
cao14. Với những con số thống kê này, rõ
ràng, người GVGĐ chưa được chuẩn hoá
nghề nghiệp và nhu cầu được đào tạo nghề
vẫn đang là một bài toán khó. Từ năm 2015,
thị trường lao động ASEAN đã chính thức
mở cửa, nếu không sớm chuyên nghiệp hoá
GVGĐ, lao động GVGĐ Việt Nam khó có
thể đáp ứng được các tiêu chuẩn làm việc.
Để đáp ứng được thị trường GVGĐ
đang ngày một phát triển, nhu cầu đào tạo
nghề GVGĐ đang được người GVGĐ quan
tâm. Phần lớn người GVGĐ đang muốn
được trang bị các kiến thức và kỹ năng nghề
về chế biến thực phẩm, chăm sóc trẻ, vệ sinh
nhà cửa, chăm sóc người cao tuổi, người
ốm, phụ nữ sau khi sinh, văn hoá ứng xử
Tuy nhiều trung tâm đào tạo nghề đã tổ chức
các lớp đào tạo, nhưng vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu, thậm chí chưa thu hút được
người GVGĐ tham gia. Lao động GVGĐ
Việt Nam hiện chưa được cấp chứng chỉ
hành nghề như các nghề khác, mặc dù có tới
90% NSDLĐ đồng ý với quan điểm lao
động GVGĐ là một nghề, 71,3% NSDLĐ
cho rằng, đào tạo nghề cho người giúp việc
là cần thiết15 n
30
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
11 Đào Mộng Điệp, Pháp luật về lao động là người GVGĐ và kiến nghị hoàn thiện, Tạp chí Luật học, số 12/2014, tr. 3, 8, 44.
12 Nghề giúp việc đang tiến vào thời đại số hoá như thế nào; Nguồn:
viec-dang-tien-vao-thoi-dai-so-hoa-nhu-the-nao-3299450/#axzz3zh9rhGwU
13 Đào tạo người giúp việc kiểu mẫu; Nguồn:
14 Báo cáo tóm tắt tổng quan tình hình lao động GVGĐ tại Việt Nam từ 2007 đến nay.
15 Báo cáo tóm tắt tổng quan tình hình lao động GVGĐ tại Việt Nam từ 2007 đến nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_quy_dinh_den_thuc_tien_thuc_hien_quyen_cua_lao_dong_giup.pdf