Trong thời gian từ 31 tháng 5 đến 28 tháng 6
năm 2010 qua khảo sát 513 phụ nữ đến phá thai
tại Bệnh viện Từ Dũ, rút ra được một số kết luận
như sau:
Tỷ lệ BHGĐ ở phụ nữ đến phá thai tại Bệnh
viện Từ Dũ là 26,1%.
Tỷ lệ cho từng loại bạo hành là: bạo hành thể
xác 11,9%, bạo hành tinh thần 17,1%, bạo hành
tình dục 11,7% và bạo hành tinh thần 4,9%.
Một số yếu tố có mối liên quan với BHGĐ:
làm nông (OR=14,5, KTC 95% (3,1 - 67,5), ly
thân, ly dị (OR=29,8, KTC 95% (4,8 - 185,5), rượu
bia (OR=4,6, KTC 95% (1,6 - 12,6), chứng kiến
BHGĐ (OR=4,8, KTC 95% (2,8 - 8,1). Yếu tố
thuộc về chồng hay bạn trai: công nhân (OR=2,1,
KTC 95% (1,1 – 4,0); rượu bia (OR=3,0 KTC 95%
(1,7 – 5,2) và cờ bạc (OR=5,0, KTC 95% (1,2 –
50,4)
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 428 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ bạo hành gia đình trên nữ đến phá thai tại bệnh viện Từ Dũ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 88
TỶ LỆ BẠO HÀNH GIA ĐÌNH TRÊN NỮ ĐẾN PHÁ THAI
TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Nguyễn Thị Cẩm Nhung*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bạo hành gia đình trên phụ nữ đến phá thai và một số yếu tố liên quan đến bạo
hành gia đình.
Phương pháp: nghiên cứu cắt ngang trên 513 trường hợp đến phá thai tại bệnh viện Phụ Sản Từ dũ từ
31/05/2010 – 28/06//2010 được tư vấn và đống ý tham gia nghiên cứu. Bảng câu hỏi sàng lọc bạo hành được
dùng để thu thập dữ liệu.
Kết quả: Tỷ lệ BHGĐ ở phụ nữ đến phá thai tại Bệnh viện Từ Dũ là 26,1 %. Tỷ lệ cho từng loại bạo hành
là: bạo hành thể xác 11,9%, bạo hành tinh thần 17,1%, bạo hành tình dục 11,7% và bạo hành xã hội 4,9%. Một
số yếu tố có mối liên quan với BHGĐ: làm nông (OR = 14,5, KTC 95%(3,1 – 67,5), ly thân, ly dị (OR=29,8,
KTC 95%(4,8 – 185,5), rượu bia (OR=4,6, KTC 95%(1,6 – 12,6), chứng kiến BHGĐ (OR=4,8, KTC 95%(2,8 –
8,1). Yếu tố thuộc về chồng hay bạn trai: công nhân (OR=2,1, KTC 95%(1,1 – 4,0); rượu bia (OR=3,0 KTC
95%(1,7 – 5,2) và cờ bạc (OR=5,0, KTC 95%(1,2 – 50,4).
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy bạo hành gia đình đối với phụ nữ mang thai khá phổ biến. Cần nâng cao ý
thức cộng đồng về bạo hành gia đình và phòng chống bạo hành.
Từ khóa: Bạo hành gia đình, bảng sàng lọc bạo hành, bạo hành thể xác, bạo hành tinh thần, bạo hành kinh
tế, bạo hành tình dục, bạo hành xã hội.
ABSTRACT
PREVALENCE OF DOMESTIC VIOLENCE AMONG WOMEN SEEKING ABORTION
AT TUDU HOSPITAL
Nguyen Thi Cam Nhung, Huynh Nguyen Khanh Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 88 - 93
Objective: To identify the prevalence of domestic violence in pregnant women having abortion, as well as
factors associated with domestic violence.
Methods: This is a cross-sectional study in 513 pregnant women having abortion at Tu Du hospital from
31st of May 2010 to 28th of June 2010. Domestic violence was assessed by the Abuse Assessement Screen
questionnaire. Results: The study has shown that the prevalence of domestic violence is 26.1%. The prevalence of
Physical Violence (1.9%), Psychologycal Violence (17.1%), Sexual Violence (11.7%), Social Violence (4.9%).
Risk factors associated with domestic violence consist of: farmer (OR=14.5, CI 95%(3.1 – 67.5), legal separate or
divorce (OR=29.8, CI 95%(4.8 – 185.5), drinking alcohol (OR=4.6, CI 95%(1.6 – 12.6), witness of domestic
violence (OR=4.8, CI 95%(2.8 – 8.1). Risk factors belong to the husbands or boyfriends with domestic violence:
workers (OR=2.1, CI 95%(1.1 – 4.0); drinking alcohol (OR=3.0, CI 95%(1.7 – 5.2) and gambling (OR=5.0, CI
95%(1.2 – 50.4).
Conclusion: This study showed that domestic violence among pregnant women is popular. It is necessary
* Bệnh viện Phụ sản Từ dũ Tp HCM ** Bộ Môn Sản, ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS. TS Huỳnh Nguyễn Khánh Trang ĐT: 0903882015. Email: tranghnk08@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 89
not only to enhance the knowledge of domestic violence in community and society but also to improve the
behavior in preventing against domestic violence.
Keywords: Domestic Violence, Abuse Assessment Screen, Physical Violence, Psychologycal Violence,
Economic Violence, Sexual Violence, Social Violence.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bạo hành gia đình (BHGĐ) được định nghĩa
là hành vi được đặc trưng bởi sự lạm dụng
quyền lực nhằm đạt được sự kiểm soát đối với
một người mà đã hoặc đang có một mối quan hệ
thân mật. Bất kỳ hành vi bạo lực nào đối với phụ
nữ, có khả năng dẫn đến hậu quả tổn thương về
thể chất, tình dục hoặc gây tổn hại tâm lý hay
gây đau khổ cho phụ nữ, bao gồm cả đe dọa
hành vi đó; hoặc cưỡng chế, tước sự tự do, xảy
ra ở nơi công cộng hay trong nơi sống riêng đều
bị xem là hành vi bạo lực(10).
BHGĐ là một tệ nạn cần đđược xoá bỏ. Điều
này đđã được tuyên bố tại Hội nghị Thế giới về
Nhân quyền tổ chức tại Vienna (Áo) từ năm
1993. Thực ra, vấn đề này chính thức được nhìn
nhận là điều đáng quan tâm của toàn xã hội từ
những năm 1990. Được sự đồng thuận từ nhiều
quốc gia Liên hiệp quốc thông qua Công ước
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ và trong Hội nghị Quốc tế lần 4 về Phụ nữ tại
Bắc Kinh 1995. Tổ chức Y tế Thế giới (1996) ước
tính, tỉ lệ BHGĐ đối với phụ nữ là 20-50% ở các
quốc gia khác nhau (12).
Tại Hoa Kỳ, BHGĐ ảnh hưởng đđến ¼ dân
số phụ nữ với khoảng 5.300.000 vụ việc mỗi
năm. Cứ mỗi 9 giây là có một phụ nữ bị chồng
hoặc bạn tình đánh đập. BHGĐ là nguyên nhân
lớn nhất gây thương tích cho phụ nữ. BHGĐ
làm kinh tế Hoa Kỳ tốn khoảng 3-5 tỷ đô-la mỗi
năm vì nhân viên vắng mặt tại sở làm, và thêm
100 triệu đô-la hằng năm cho chi phí y tế (12).
Ở Việt Nam, BHGĐ ngày càng phổ biến,
theo khảo sát của Uỷ Ban Các Vấn Đề Xã Hội
của Quốc Hội và báo cáo từ Bộ Công an vào
năm 2005, cứ 2-3 ngày lại có một người chết liên
quan đến bạo hành, chiếm gần 1/5 tổng số vụ sát
nhân; là nguyên nhân của hơn 60% vụ ly hôn,
trong đđó hơn phân nửa có hành vi đánh đập,
ngược đãi. Riêng Đồng bằng sông Cửu Long,
trong năm 2005 có 1319 ca phải nhập viện vì
BHGĐ, thì có đến 1000 ca tự tử, 30 trường hợp
tử vong(2).
Đa số nạn nhân của các vụ bạo hành là phụ
nữ. Vì vậy ở đối tượng này, họ không chỉ bị bạo
hành về tinh thần, thể chất mà còn bị bạo hành
về tình dục, thậm chí trong lúc mang thai. Hậu
quả thì khôn lường, nhiều trường hợp dẫn đến
sẩy thai, mang thai ngoài ý muốn và nguy cơ
dẫn đến nạo phá thai (1,8).
Chính vì lý do này, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu "Tỷ lệ bạo hành gia đình trên phụ nữ
đến phá thai tại bệnh viện Từ Dũ".
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ BHGĐ trên phụ nữ đến phá
thai.
Xác định tỷ lệ các hình thái bạo hành: bạo
hành thể xác (BHTX), bạo hành tinh thần
(BHTT), bạo hành tình dục (BHTD) và bạo hành
xã hội (BHXH).
Khảo sát một số yếu tố liên quan BHGĐ.
PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang, thực hiện tại phòng
khám Kế hoạch hóa gia đình bệnh viện Phụ Sản
Từ Dũ từ tháng 31/05/2010 đến tháng
28/06/2010.
Đối tượng
Phụ nữ đến phá thai tại Khoa Kế hoạch hóa
gia đình Bệnh viện Từ Dũ trong thời gian
nghiên cứu thoả điều kiện nhận vào.
Cỡ mẫu
n =
2
1
2 α
−
Z (1-P)P / d 2 với độ tin cậy 95% nên
2
1 α−Z = 1,96. P = 21,2% (Ủy ban Dân số-Gia đình-
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 90
Trẻ em và Bộ Văn hóa- Thể thao-Du lịch)(2);
d = 0,04.
Mẫu cần tối thiểu 410, nghiên cứu thu nhận
513 đối tượng.
Tiêu chí chọn mẫu
Tiêu chí nhận vào
- Muốn bỏ thai.
- Không mắc bệnh tâm thần hay câm, điếc.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại trừ
- Lý do phá thai vì chỉ định y khoa (thai dị
tật, sử dụng thuốc nguy cơ cao ảnh hưởng đến
thai).
- Không giao tiếp được.
- Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Cách tiến hành và thu thập số liệu
Từ phòng khám kế hoạch, sau khi đối tượng
được tư vấn về việc phá thai, thoả tiêu chuẩn
nhận vào, sẽ được mời tham gia nghiên cứu.
Thông qua bảng đồng thuận cho đối tượng, giải
đáp các thắc mắc.
Đối tượng tham gia nghiên cứu trả lời bảng
câu hỏi tự điền, không ghi tên. Trong trường
hợp người tham gia nghiên cứu không biết đọc,
biết viết, cộng tác viên sẽ đọc bảng câu hỏi cho
người đó chọn lựa câu trả lời.
Bảng câu hỏi tự điền gồm các phần chính
Phần 1: Hành chính và yếu tố dịch tễ. Gồm
21 câu hỏi (15 câu chọn lựa đáp án sẵn và 6 câu
điền khuyết).
Phần 2: Sàng lọc về BHGĐ, phân chia theo
thể loại bạo hành và 2 mốc thời gian (đã từng bị
BHGĐ cho đến thời điểm nghiên cứu và 1 năm
gần đây), với 4 câu hỏi chính về BHTX, BHTT,
BHTD và BHXH. Trong mỗi câu sẽ thu thập
thông tin về bạo hành, mức độ, đối tượng gây
bạo hành, thái độ và phản ứng của nạn nhân.
Riêng BHTX có đánh giá độ nặng bằng thang
điểm (từ 1 đến 6 điểm); với BHXH, chỉ khảo sát
thêm chồng hoặc bạn trai đang sống chung.
Phần 3: gồm 2 câu hỏi nhằm đánh giá sự
hiểu biết về Luật phòng chống BHGĐ và sự
trình báo khi bạo hành xảy ra(10).
Nội dung: dựa theo Bảng câu hỏi sàng lọc về
bạo lực (Abuse Assessment Screen) có kết hợp
với những điều luật của Luật Phòng, Chống Bạo
Hành Gia Đình Việt Nam ban hành 2007(10).
Dữ kiện thu nhập với Epi. 3.1, phân tích
bằng phần mềm Stata 10.0.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ ngày 31/5/2010 đến
28/6/2010 nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã thu
được một số kết quả như sau.
Bảng 1.Đặc điểm dân số nghiên cứu.
Đặc điểm Số ca N = 513 Tỉ lệ %
Tuổi <18 6 1,2
18-35 419 81,7
>35 88 17,1
Nghèo 125 24,4
Trung bình 293 57,1
Kinh tế
Khá 95 18,5
Nơi ở Tp HCM 330 64,3
Tỉnh 183 35,7
Trình độ mù chữ 4 0,8
Cấp I 48 9,3
Cấp II 152 29,6
Cấp III 126 24,6
Đại học/Cao đẳng 183 35,7
Độc thân 95 18,5
Có chồng 382 74,5
Sống với bạn trai 22 4,3
Hôn nhân
Ly thân/Ly dị 14 2,7
<8 252 24,4
8 – 12 180 57,1
Tuổi thai
(tuần)
>12 81 18,5
Nhận xét: Tuổi từ 18-35(81,7%), trung bình
là 28±7, nhỏ nhất 15 tuổi và lớn nhất 52 tuổi.
Phần lớn ở tại TP HCM (64,3%). Tuổi kết hôn
trung bình là 23±4, nhỏ nhất lấy chồng lúc 15
tuổi và lớn nhất là 40 tuổi. Tuổi thai chủ yếu tập
trung ở 8-12 tuần (57,1%) và có đến 18,5% đối
tượng đến phá thai to trên 12 tuần.
Tỉ lệ bạo hành gia đình (N = 513).
Tỉ lệ BHGĐ là 26,1%, KTC 95% (22,3 – 29,9).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 91
Bảng 2. Tỷ lệ các hình thái bạo hành.
Hình thái Số ca Tỷ lệ % KTC 95%
BHTX 61 11,9 9,1–14,7
BHTT 88 17,1 13,9-20,3
BHTD 60 11,7 8,9-14,5
BHXH 25 4,9 3,0-6,8
Nhận xét: Bạo hành về tinh thần chiếm tỷ lệ
cao nhất (17,1%) trong dân số nghiên cứu, kế
đến bạo hành về thể xác và tình dục với tỷ lệ
tương đương nhau (11,9 và 11,7%); thấp nhất là
bạo hành về mặt xã hội (4,9%). Với khoảng tin
cậy 95% các tỷ lệ trên dao động ± 2-3%.
Bảng 3. Lựa chọn phản ứng khi bị bạo hành thể xác.
Phản ứng N Tỷ lệ
Im lặng 278 54,1
Phản kháng 143 27,9
Chạy trốn 75 14,7
Kêu cứu 17 3,3
Nhận xét: 54,1% nạn nhân của BHTX chọn
cách im lặng. Còn lại phản ứng bằng cách
phản kháng lại, chạy trốn và một số rất ít
(3,3%) kêu cứu.
Bảng 4. Phân tích hồi quy đa biến các yếu tố liên
quan.
Yếu tố OR KTC 95%
Học sinh, sinh viên 1,7 0,7 – 4,1
Nông dân 14,5 3,1 – 67,5
Công nhân 1,6 0,8 – 3,1
Kinh tế 1,4 0,8 – 2,5
Tình trạng hôn nhân 29,8 4,8 – 185,5
Uống rượu 4,6 1,6 – 12,6
Chứng kiến BHGĐ 4,8 2,8 – 8,1
Biết Luật 0,9 0,48 – 1,95
Trình báo khi bị bạo hành 1,4 0,69 – 2,75
Chồng làm nông 0,5 0,1 – 2,45
Chồng là tài xế 1,9 0,7 – 3,0
Chồng là công nhân 2,1 1,1 – 4,0
Chồng là thọ sửa xe 4,0 0,9 – 17,5
Chồng uống rượu 3,0 1,7 – 5,2
Chồng cờ bạc 5,0 1,2 – 20,4
Nhận xét: Khi phân tích hồi quy đa biến
tổng thể các yếu tố liên quan với BHGĐ, ta thấy
một số yếu tố có liên quan mạnh có ý nghĩa
thống kê là: nghề nông, tình trạng ly thân-ly dị,
rượu bia, chứng kiến cảnh bạo hành và chồng
làm công nhân, uống rượu và chơi cờ bạc.
BÀN LUẬN
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã nghiên cứu
về BHGĐ ở 10 nước với các nền văn hoá khác
nhau; với 24000 phụ nữ tham gia nghiên cứu.
Kết quả cho thấy, tỷ lệ phụ nữ bị bạo hành về
thể xác từ 13% (Nhật Bản) đến 61% (Peru); bạo
hành về tình dục cũng chiếm tỷ lệ không kém,
từ 6% đến 59%. Đặc biệt là, ở mỗi quốc gia có sự
khác biệt nhau giữa hai thể loại bạo hành, có nơi
thì bạo hành thể xác chiếm tỷ lệ rất cao, trong
khi ở một vài nơi thì bạo hành tình dục lại chiếm
ưu thế (12). Nhìn chung, BHGĐ do người đối tác
thân mật (chồng hoặc bạn trai) gây ra cho phụ
nữ ở các dân số này dao động từ 15-71%. Cũng
trong nghiên cứu này, bạo hành về tinh thần
được tìm thấy nhiều hơn bạo hành về thể xác, ở
tất cả các nước, dao động từ 20-75%, nhất là
trong vòng 12 tháng qua, số này đã từng bị
người phối ngẫu từ hành vi nhục mạ đến đôi ba
lần bị đe doạ đến mức sợ hãi. Bên cạnh đó có từ
21-90% phụ nữ bị kiểm soát trong các mối quan
hệ với bạn bè, người thân, Bởi chính người
phối ngẫu, không cho giao tiếp thậm chí không
cho tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ (12).Tỉ lệ
bạo hành gia đình trên đối tượng phá thai cao
hơn đối tượng phụ nữ khác trên cộng đồng dân
cư là điểm chung tìm thấy trên nhiều nghiên
cứu(4,5,6,8).
Bảng câu hỏi sàng lọc về BHGĐ (Abuse
Assessment Sreen- AAS) đã được sử dụng từ
năm 1987 nhằm xác định và đánh giá sự lạm
dụng, bạo hành bởi đối tác thân mật trong nhiều
nghiên cứu trên lâm sàng. AAS được dịch ít
nhất là 7 ngôn ngữ ngoài tiếng Anh. Ap dụng
cho nhiều đối tượng phụ nữ trong lĩnh vực
nghiên cứu: khảo sát trên phụ nữ mang thai, đối
tượng phá thai và cả trên những phụ nữ trong
cộng đồng dân cư(7,9,11). Nghiên cứu của chúng
tôi sử dụng bảng câu hỏi sàng lọc bạo hành gia
đình dựa theo AAS của tác giả Judith McFarlane
và được bổ sung bởi Leung và cộng sự bao gồm
6 câu hỏi(9).
Một phụ nữ có thể cùng lúc bị nhiều kiểu
bạo hành khác nhau. BHTT luôn ở vị trí đứng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 92
đầu, như ở nghiên cứu của Uỷ Ban Các vấn đề
Xã hội và nghiên cứu của Bộ Văn hóa-Thể
thao-Du lịch(2). Các nghiên cứu ở nước ngoài
đa số khảo sát về BHTX và BHTD, theo đó
BHTX luôn chiếm tỷ lệ cao hơn BHTD(7,9,11).
Thông thường các hình thái này cũng liên
quan đến nhau. Vì trước khi đi đến hình thái
bạo hành nặng hơn, đối tượng thường bạo
hành thường qua giai đoạn chuyển biến từ
hăm dọa, chửi bới và lặp lại theo chu kỳ,
dần dần hình thành thói quen chứng tỏ quyền
lực và cưỡng bức. Phản ứng trước hành vi bạo
lực ghi nhận trong nghiên cứu đa số là sự im
lặng cam chịu. Đây có thể là sự tiếp tay cho
chu kỳ bạo lực tái diễn ngày càng trầm trọng
hơn. Sự chấp nhận hay cam chịu BHGĐ của
phụ nữ là rào cản rất lớn trong công cuộc giải
phóng đối tượng này khỏi nạn bạo hành.
Có nhiều lý thuyết diễn giải cho nguyên
nhân của BHGĐ. Như thuyết tâm lý (bệnh tâm
thần hay rối loạn tâm lý); thuyết về hành vi
(khả năng kiểm soát hành vi); thuyết xã hội,
thuyết về nguồn lực tài chính, thuyết căng
thẳng về mặt xã hội (nạn nghèo đói, thất
nghiệp, mất cân bằng tài chính giữa vợ
chồng,); thuyết học tập xã hội (bạo lực có thể
được bắt chước và truyền từ đời này sang đời
kia). Chẳng hạn theo thuyết về xã hội và nguồn
lực tài chính giải thích rằng: sự thất nghiệp làm
mất cân bằng về khả năng tài chính giữa vợ-
chồng. Từ đó hình thành nên quyền lực trong
gia đình thiên về một người nào đó.
Các khảo sát ở Việt Nam thì cho thấy rằng:
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến BHGĐ, chủ yếu
là do say rượu và mượn rượu (60-70%), khó
khăn về kinh tế, do vợ hoặc chồng ngoại tình.
Không ngoại trừ nguyên nhân từ học vấn thấp,
nhận thức kém, thiếu hiểu biết pháp luật. Theo
một số chuyên gia, cái gốc của BHGĐ ở Việt
Nam xuất phát từ bất bình đẳng giới, vốn tồn tại
từ rất lâu quan điểm trọng nam khinh nữ (2).
Theo kết quả điều tra của Ủy ban dân số, gia
đình, trẻ em, Bộ Văn hoá Thể thao Du lịch, Tổng
cục Thống kê phối hợp và Quỹ Nhi đồng Liên
Hợp Quốc công bố ngày 26.6.2008 báo cáo: cứ 5
cặp vợ chồng thì có 1 cặp có BHGĐ (21,2%).
Tính riêng có 15,1% có hành động mắng chửi;
3,4% đánh đập và 7,2% ép buộc quan hệ tình
dục; nạn nhân chủ yếu là phụ nữ mà thủ phạm
chính là người chồng; nguyên nhân chồng đánh
vợ do say rượu là 37,5%; xảy ra nhiều ở lứa tuổi
31-40, ở độ tuổi này việc sinh con và chăm sóc
con cái làm nảy sinh những bất đồng giữa vợ
chồng, từ đó hình thành mẫu thuẫn và bạo lực
xảy ra(2).
Trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong những năm
2003-2005, BHGĐ xảy ra với nhiều hình thức đa
dạng trong các gia đình có những điều kiện kinh
tế, quy mô, cấu trúc khác nhau. Trong số 1353
vụ BHGĐ được ghi nhận thì có đến hơn phân
nửa (58,6%) số vụ bạo hành về thể xác, kế đến là
bạo hành tinh thần chiếm 26,2%, bạo hành kinh
tế như đập phá đồ đạt, làm tổn thất tài sản
chung hoặc kiểm soát, tước đoạt quyền chi tiêu
của các thành viên khác chiếm 13,5%, và cũng có
số nhỏ(1,6%) bạo hành về tình dục. Nạn nhân
của các vụ BHGĐ phần lớn là phụ nữ, những
người vợ trong gia đình (hơn 73%)(2).
Ủy ban Dân số-Gia đình và trẻ em cũng
cho thấy có đến 30% số phụ nữ bị đánh đập,
lạm dụng, cưỡng bức bằng nhiều hình thức do
người chồng gây ra. Đến năm 2007, nạn BHGĐ
vẫn tiếp tục gia tăng, gây bức xúc lớn trong dư
luận. Thống kê cho thấy 97% các vụ bạo hành
đều là phụ nữ(2).
Tỷ lệ phụ nữ công nhận có nạn bạo hành
trong gia đình mình là 40% ở nghiên cứu tại
Hà Nội, Phú Thọ và Thái Bình năm 2007, mà
nạn nhân là những người vợ, người mẹ trong
gia đình phải chịu bao uất ức, tuổi hờn cả về
thể xác lẫn tinh thần bởi đủ lý do từ phía các
đức ông chồng của họ: ghen tuông, nát rượu,
mâu thuẫn gia đình, (2).
Hạn chế
Do địa điểm lấy mẫu ở Bệnh viện nên chưa
đại diện cho dân số mục tiêu là cộng đồng, mặc
dù từ kết quả đặc điểm đối tượng nghiên cứu
cho thấy thành phần dân số nghiên cứu cũng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 93
hội tụ đầy đủ thành phần dân cư ở các tỉnh
thành trong nước với những đặc điểm dịch tể
khá đa dạng. Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, nên
khi xét mối tương quan các giá trị chỉ mang tính
tương đối.
KẾT LUẬN
Trong thời gian từ 31 tháng 5 đến 28 tháng 6
năm 2010 qua khảo sát 513 phụ nữ đến phá thai
tại Bệnh viện Từ Dũ, rút ra được một số kết luận
như sau:
Tỷ lệ BHGĐ ở phụ nữ đến phá thai tại Bệnh
viện Từ Dũ là 26,1%.
Tỷ lệ cho từng loại bạo hành là: bạo hành thể
xác 11,9%, bạo hành tinh thần 17,1%, bạo hành
tình dục 11,7% và bạo hành tinh thần 4,9%.
Một số yếu tố có mối liên quan với BHGĐ:
làm nông (OR=14,5, KTC 95% (3,1 - 67,5), ly
thân, ly dị (OR=29,8, KTC 95% (4,8 - 185,5), rượu
bia (OR=4,6, KTC 95% (1,6 - 12,6), chứng kiến
BHGĐ (OR=4,8, KTC 95% (2,8 - 8,1). Yếu tố
thuộc về chồng hay bạn trai: công nhân (OR=2,1,
KTC 95% (1,1 – 4,0); rượu bia (OR=3,0 KTC 95%
(1,7 – 5,2) và cờ bạc (OR=5,0, KTC 95% (1,2 –
50,4).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Bourassa D, Brub J.(2007), “The prevalence of intimate partner
violence among women and teenagers seeking abortion
compared with those continuing pregnancy”, J Obstet Gynaecol
Can. May 2007;29(5):415-23.
2 Bộ Văn hóa-Thể thao-Du lịch (2006). Kết quả điều tra gia đình
Việt Nam năm 2006, Báo cáo của Bộ văn hóa-Thể thao-Du lịch-
Tổng cục Thống kê-Viện Gia đình và Giới phối hợp cùng Quỹ
Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) thực hiện năm 2006.
3 Chan KL, Tiwari A, Fong DY, Leung WC, Brownridge DA, Ho
PC. “Correlates of in-law conflict and intimate partner violence
against Chinese pregnant women in Hong Kong”. J Interpers
Violence. Jan 2009; 24(1):97-110. Epub 2008 Mar 31.
4 Evins G, Chescheir N (1996), “Prevalence of domestic violence
among women seeking abortion services”, Womens Health
Issues. Jul-Aug1996;6(4):204-10.
5 Ergưnen AT, Ozdemir MH, Can IO, Sưnmez E, Salaçin S,
Berberoðlu E, Demir N.(2009), “Domestic violence on pregnant
women in Turkey”, J Forensic Leg Med. 2009;16(3):125-9. Epub
2008 Oct 22.
6 Glander SS, Moore ML, Michielutte R, Parsons LH (1998),
“The prevalence of domestic violence among women seeking
abortion”, Obstet Gynecol. Jun 1998;91(6):1002-6.
7 Hammoury N, Khawaja M.(2007), “Screening for domestic
violence during pregnancy in an antenatal clinic in Lebanon”,
Eur J Public Health. Dec 2007;17(6):605-6. Epub 2007 Mar 25.
8 Kaye DK, Mirembe FM, Bantebya G, Johansson A, Ekstrom
AM.(2006), “Domestic violence as risk factor for unwanted
pregnancy and induced abortion in Mulago Hospital,
Kampala, Uganda”, Trop Med Int Health. Jan 2006;11(1):90-101.
9 Leung, W.C., Leung, T.W., Lam, Y.Y.J.,& Ho, P.C.(1999). The
prevalence of domestic violence against prenant women in a
Chinese community. International Journal of Gynecology &
Obstetrics.1999; 66,23-30.
10 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Luật số 02/2007/QH12.
11 Lutgendorf MA, Busch JM, Doherty DA, Conza LA, Moone
SO, Magann EF(2009), “Prevalence of domestic violence in a
pregnant military population”. Obstet Gynecol, Apr
2009;113(4):866-72.
12 World Health Organization (2009). WHO multi-country Study
on Women’s Health and Domestic Violence against Women.
Summary report, chapter 2, pp 6-9.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ty_le_bao_hanh_gia_dinh_tren_nu_den_pha_thai_tai_benh_vien_t.pdf