Phân lập liên cầu khuẩn nhóm B nhờ kỹ
thuật cấy vi trùng này từ bệnh phẩm của âm đạo
– trực tràng là phương tiện tầm soát hữu hiệu
nhất. Mẫu bệnh phẩm từ âm đạo-trực tràng
nhạy hơn so với mẫu phân lập từ cổ tử cung. Do
đó không cần phải đặt mỏ vịt để lấy bệnh phẩm.
Có thể lấy hai mẫu bệnh phẩm biệt lập, một từ
phần ngoài âm đạo và một từ hậu môn trực
tràng; hoặc một mẫu bệnh phẩm duy nhất với
tampon lấy bệnh phẩm ở âm đạo trước và sau
đó ở hậu môn-trực tràng. Bệnh phẩm phải được
cho vào môi trường chuyên chở thích hợp nơi
mà liên cầu khuẩn nhóm B có thể sống được cho
đến 96 giờ. Điều này rất quan trọng nếu như
mẫu bệnh phẩm được mang đến từ một nơi
khác. Kết quả cấy thường có trong vòng 48-72
giờ(7). Điều này được đảm bảo trong nghiên cứu
của chúng tôi về chuyên chở bệnh phẩm vì mẫu
bệnh phẩm được lấy trên thai phụ đến khám
thai tại Bệnh viện Từ Dũ và được chuyển đến
phòng thí nghiệm của Bệnh viện Từ Dũ cùng
trong ngày. Lấy bệnh phẩm từ hậu môn trực
tràng cũng gây khó chịu cho bệnh nhân và nên
chăng chỉ phân lập từ âm đạo mà thôi? Nghiên
cứu của Jeffrey và cộng sự(12) đã phân lập vi
trùng từ hai vị trí lấy bệnh phẩm riêng biệt (âm
đạo và trực tràng) cho kết quả cấy dương tính
trong 24,3% trường hợp; trong đó 18,5% có kết
quả cấy âm đạo âm tính nhưng dương tính ở
mẫu cấy trực tràng. Như vậy có đến 1/5 bệnh
nhân sẽ không được điều trị kháng sinh dự
phòng nếu chỉ dựa vào cấy âm đạo đơn thuần.
Tuổi của thai phụ trong nghiên cứu của
chúng tôi có đến 75% trường hợp từ 26 đến 35
tuổi, tuổi sinh đẻ. 4% trường hợp thai phụ < 25
tuổi có kết quả cấy dương tính so với 14,1%
trường hợp cấy dương tính có tuổi > 25. Kết quả
này cũng tương tự kết quả nghiên cứu của tác
giả Orrett(11) tại Trinidad (Ấn Độ) tỷ lệ cấy dương
tính ở hai nhóm thai phụ > 24 và < 24 tuổi là
36,6% & 26,9%. 6,4% thai phụ có kết quả cấy (+)
có địa chỉ cư trú nội thành thành phố Hồ Chí
Minh so với 12% trường hợp cấy (+) ở ngoại
thành và các tỉnh khác. Về nơi cư trú có thể bệnh
nhân đến khám và nhập viện khai địa chỉ theo
hộ khẩu nhưng nơi thật sự mà bệnh nhân sinh
sống có thể khác; do đó có thể có khác biệt nhiều
mặt về đời sống kinh tế xã hội. Nghiên cứu của
Stapleton và cộng sự ghi nhận một trong các yếu
tố nguy cơ trên thai phụ có kết quả cấy liên cầu
khuẩn nhóm B (+) là thu nhập từ trung bình trở
lên là yếu tố bảo vệ khỏi nhiễm vi trùng này.
57,35% trường hợp cấy (+) là con so; 83,5% có
tuổi thai từ 35-36 tuần nằm trong tuổi thai được
khuyến cáo tầm soát nhiễm liên cầu khuẩn
nhóm B. Do mẫu nghiên cứu của chúng tôi nhỏ
nên một số các yếu tố liên quan không thể ghi
nhận được.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ thai phụ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B tại bệnh viện Từ Dũ (6 / 2006 – 6 / 2007), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 1
TỶ LỆ THAI PHỤ NHIỄM LIÊN CẦU KHUẨN NHÓM B
TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ (6 / 2006 – 6 / 2007)
Nguyễn Thị Vĩnh Thành*, Ngô Thị Kim Phụng**
TÓM TẮT
Mở đầu: một trong các nguyên nhân thường gặp nhất của nhiễm trùng sơ sinh là liên cầu khuẩn nhóm B
do lây nhiễm từ mẹ sang con. CDC và ACOG đã đưa ra khuyến cáo tầm soát liên cầu khuẩn nhóm B trên thai
phụ từ 35-37 tuần. Tại Việt Nam chưa có chiến lược này nên bước đầu tìm hiểu tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm
B trên thai phụ tại Bệnh viện Từ Dũ.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang.
Kết quả: 376 thai phụ có tuổi thai 35-37 tuần được tầm soát liên cầu khuẩn nhóm B với phương pháp tầm
soát là cấy bệnh phẩm từ âm đạo – trực tràng của các thai phụ. Tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B là 18,1%, con
rạ có tỷ lệ cấy (+) cao hơn so với con so (14,1% & 4%), cư ngụ ở ngoại thành và các nơi khác ngoài thành phố Hồ
Chí Minh có tỷ lệ (+) cao hơn (12% & 6,4%).
Kết luận: cần có nghiên cứu rộng hơn để có thể đưa việc tầm soát liên cầu khuẩn nhóm B trên thai phụ Việt
Nam vào chương trình chăm sóc tiền sản.
ABSTRACT
THE PREVALENCE OF GROUP B STREPTOCOCAL GENITOR -RECTAL TRACT COLONIZATION IN
PREGNANT WOMEN AT TU DU HOSPITAL
Nguyen Thi Vinh Thanh, Ngo Thi Kim Phung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 82 - 86
Background: Group B Streptococcus (GBS) is one of the most common causes of neonatal sepsis. CDC and
ACOG recommended screening GBS in pregnant women at 35th to 37th of gestation. There is no strategy of
screening GBS in pregnant women; so that we initially find out the prevalence of GBS colonization in pregnant
women at Tu Du Hospital.
Method: cross sectional study
Results: Screening for GBS was carried out on 376 pregnant women by the anorectal and vaginal culture of
these women. The prevalence of positive GBS is 18.1%; higher in the multiparity (14.1% & 4%), residents of the
rural and other provinces (12% & 6.4%)
Conclusion: We need more studies about this problem in pregnancy to help us making a strategy of
screening.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm trùng sơ sinh là vấn đề thường gặp
với tần suất 0,5-8 / 1.000 trẻ sinh sống(1), góp
phần quan trọng trong tử vong của trẻ sơ sinh.
Nguyên nhân gây nhiễm trùng có thể do nhiều
loại vi trùng trong đó liên cầu khuẩn nhóm B
(Group B streptococcus – GBS) chịu trách nhiệm
một phần với tỷ lệ 1/1.600 trẻ sanh sống có triệu
chứng nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B khởi phát
sớm theo một tác giả tại Anh và Ireland(5). Và
mặc dù được chăm sóc trong điều kiện tốt nhất
thì 1/10 trẻ sơ sinh được chẩn đoán nhiễm liên
cầu khuẩn nhóm B khởi phát sớm sẽ tử vong
(khoảng 44 trẻ hàng năm)(8). Lây nhiễm liên cầu
khuẩn nhóm B từ mẹ mang mầm bệnh trong
thai kỳ đã dẫn đến nhiễm trùng sơ sinh nguy
* Bệnh viện Từ Dũ ** Bộ môn Sản, Đại học Y Dược Tp. HCM.
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 2
hiểm này ngay sau sinh. Những người lành
mang mầm bệnh này lại thường gặp chiếm 10-
35%, đặc biệt ở âm đạo và trực tràng. Schrag và
cộng sự (2002, 2003) đã báo cáo tỷ lệ mang mầm
bệnh này là 20-30% trên thai phụ có tuổi thai
trung bình là 35 tuần(15). Tương tự một số tác giả
khác cũng ghi nhận tỷ lệ 10-30% trên thai
phụ(13,3).
Do tác hại có thể dẫn đến tử vong của nhiễm
liên cầu khuẩn nhóm B ở trẻ sơ sinh nên từ
những thập niên 80 nhiều tác giả đã cố gắng tìm
cách phòng ngừa lây nhiễm liên cầu khuẩn
nhóm B từ mẹ sang con. Và chiến lược tầm soát
liên cầu khuẩn nhóm B ở mẹ, phòng ngừa nhiễm
liên cầu khuẩn nhóm B cho con đã được khuyến
cáo bởi Đại học Sản Phụ Khoa Mỹ (the American
College of Obstetricians and Gynecologists –
ACOG – 2002a) và Trung tâm kiểm soát bệnh
của Mỹ (the Centers for Disease Control and
Prevention – CDC – 2002d) nhằm tìm ra những
thai phụ cần được điều trị phòng ngừa trong
thai kỳ. Tại Việt Nam vấn đề này còn chưa được
quan tâm đúng mức. Do đó chúng tôi tiến hành
nghiên cứu “ Tỷ lệ thai phụ nhiễm liên cầu khuẩn
nhóm B tại Bệnh viện Từ Dũ từ tháng 6/2006 đến
tháng 6/2007” nhằm xác định tỷ lệ thai phụ
nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B và khảo sát một
số yếu tố liên quan tại bệnh viện Từ Dũ.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang với cỡ mẫu ước tính n
= 376 (được tính theo tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn
nhóm B trên thai phụ của một nghiên cứu năm
2006 tại TP HCM là 17%)(3). Trong thời gian từ
tháng 6/2006 đến tháng 6/2007 những thai phụ
đến khám thai và sanh tại Bệnh viện Từ Dũ hội
đủ các tiêu chuẩn (1) tuổi thai từ 35-37 tuần, (2)
không đặt thuốc âm đạo trong vòng 48 giờ trước
khi khám, (3) đồng ý thực hiện đúng quy trình
nghiên cứu và (4) đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ
được chọn vào mẫu nghiên cứu.
Tất cả thai phụ trong mẫu nghiên cứu sẽ
được khám thai theo quy trình khám thai bình
thường. Tiến trình lấy mẫu bệnh phẩm được
tiến hành như sau: thai phụ nằm trên bàn
khám trong tư thế sản phụ khoa, bộc lộ phần
hội âm; dùng một que tampon phết bệnh phẩm
ở 1/3 dưới âm đạo qua lỗ âm đạo 2cm, xoay
tampon 1 hoặc 2 vòng quanh trục; sử dụng
chính tampon vừa lấy bệnh phẩm ở âm đạo để
phết bệnh phẩm ở trực tràng bằng cách đưa
nhẹ nhàng vào lỗ hậu môn xoay 1-2 vòng rồi
lấy tampon ra. Đặt tampon vào ống nghiệm
chứa 4ml môi trường tăng sinh vi khuẩn (dung
dịch BHI – Brain Heart Infusion), dán nhãn trên
ống chứa bệnh phẩm ghi rõ tên họ và ngày lấy
mẫu. Bệnh phẩm được chuyển về phòng xét
nghiệm vi trùng học Bệnh viện Từ Dũ trong
ngày. Kết quả cấy và kháng sinh đồ sẽ có trong
vòng 72 giờ. Quy trình phân lập và định danh
liên cầu khuẩn nhóm B tại khoa vi sinh Bệnh
viện Từ Dũ lần lượt qua các bước:
- Ủ các ống môi trường tăng sinh vi khuẩn có
chứa bệnh phẩm ở nhiệt độ 37oC trong 24 giờ
bên trong bình nến để có nồng độ CO2 5-10%.
- Phân lập vi khuẩn bằng kỹ thuật cấy 3
chiều trên môi trường thạch máu.
- Thạch máu được ủ tiếp 18-24 giờ ở nhiệt độ
37oC. Quan sát và lựa chọn các khúm nghi ngờ là
liên cầu khuẩn nhóm B (các khúm có vòng tiêu
huyết hoàn toàn). Các khúm nghi ngờ được cấy
lên môi trường thạch máu một lần nữa để tăng
số lượng vi khuẩn, ủ ở 37oC trong 24 giờ bên
trong bình nến.
- Phân lập, định danh liên cầu khuẩn nhóm
B với bộ Kit PASTOREX STREP (hãng BIO –
RAD) hoặc dùng trắc nghiệm CAMP – Test.
- Kháng sinh đồ trên thạch máu.
Các biến số trong nghiên cứu: tuổi, nơi cư
trú, nghề nghiệp, tiền thai, trình độ văn hoá, tiền
căn sản khoa đặc biệt tiền căn sinh con bị nhiễm
trùng sơ sinh sớm, tuổi thai. Số liệu thu thập
được xử lý bằng phần mềm SPSS 10.0 for
Windows. Nghiên cứu được tiến hành sau khi
giải thích rõ mục đích nghiên cứu và được sự
đồng ý tự nguyện của thai phụ; các thông tin
nghiên cứu được giữ bí mật.
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 3
KẾT QUẢ
Qua nghiên cứu 376 thai phụ có tuổi thai 35-
37 tuần đến khám thai và sanh tại Bệnh viện Từ
Dũ từ tháng 6/2006 đến 6/2007 chúng tôi có các
kết quả sau:
Tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B ở âm
đạo-trực tràng của các thai phụ tại bệnh
viện Từ Dũ
Có 68 trường hợp có kết quả cấy liên cầu
khuẩn nhóm B dương tính.
Do đó p = 68/376 = 18,1%
Đặc điểm mẫu nghiên cứu (bảng 1)
Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu
GBS (+) GBS (-)
Đặc điểm
Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ
20-25 15 4 79 21
26-30 27 7,2 127 33,8
31-35 24 6,4 83 22,1
Tuổi
>35 2 0,5 19 5,1
Nội thành 24 6,4 129 34,3
Ngoại thành 11 2,9 87 23,1 Nơi cư trú
Tỉnh khác 33 8,8 92 24,5
Mù chữ 0 0 6 1,6
Cấp I 3 0,8 48 12,8
Cấp II 23 6,1 106 28,2
Cấp III 28 7,4 100 26,6
Trình độ
học vấn
> cấp III 14 3,7 52 13,8
Văn phòng 8 2,1 44 11,7
Buôn bán 14 3,7 59 15,7
Công nhân 8 2,1 52 13,8
Nội trợ 19 5,1 93 24,7
Nông dân 7 1,9 25 6,6
Nghề
nghiệp
Tự do 12 3,2 39 10,4
0 39 10,4 153 40,7
1 22 5,9 97 25,8
2 7 1,9 50 13,3
Số lần
sanh đủ
tháng
3 0 0 8 2,1
0 66 17,6 296 78,7
1 1 0,3 11 2,9 Số lần
sanh non
2 1 0,3 1 0,3
Tổng cộng 68 308
Tuổi thai (bảng 2)
Bảng 2: Phân bố tuổi thai trong nhóm có kết quả cấy
(+).
Tuổi thai (tuần) Tần suất Tỷ lệ
35-36 58 85,3
36-37 10 14,7
Tuổi thai (tuần) Tần suất Tỷ lệ
Tổng cộng 68 100
Nhận xét: 85,3% thai phụ có kết quả cấy (+)
có tuổi thai từ 35-36 tuần.
BÀN LUẬN
Liên cầu khuẩn nhóm B là một vi trùng
thường gặp trong dân số chung có thể không
bao giờ có triệu chứng bệnh trên một cá nhân
nào đó có mang mầm bệnh (người lành mang
trùng). Tuy nhiên vi trùng này lại có khả năng
gây bệnh lý nguy hiểm cho phụ nữ và trẻ sơ sinh
trong thai kỳ đưa đến sảy thai tự nhiên, thai lưu,
sanh non, nhiễm trùng như nhiễm trùng ối,
viêm nội mạc tử cung. Các nhà vi trùng học đưa
ra giả thuyết rằng liên cầu khuẩn nhóm B đã
được Pasteur phát hiện vào thế kỷ 19 trong một
đợt bùng phát nhiễm trùng hậu sản(14). Trong
những năm 1970 một đợt dịch về bệnh lý gây ra
do liên cầu khuẩn nhóm B trên thai phụ và trẻ sơ
sinh khiến cho nhiễm trùng do vi trùng này lúc
bấy giờ trở thành một vấn đề lớn trong sức khoẻ
cộng đồng. Liên cầu khuẩn nhóm B có thể gây ra
nhiễm trùng sơ sinh sớm (trong vòng 7 ngày đầu
sau sanh) và đây là nguyên nhân hàng đầu của
nhiễm trùng sơ sinh và cũng là một trong những
nguyên nhân thường gặp nhất góp phần vào
bệnh suất và tử suất trẻ sơ sinh do nhiễm
trùng(10,11). Do đó như ta đã biết Trung tâm kiểm
soát và phòng bệnh của Mỹ (CDC), Đại học Sản
phụ khoa của Mỹ (ACOG), Hàn lâm Mỹ về Nhi
khoa (AAP) đã xây dựng hướng dẫn chuẩn về
dự phòng và điều trị nhiễm liên cầu khuẩn
nhóm B trẻ sơ sinh. Vào 1996 ACOG và CDC đã
đưa ra hướng dẫn chuẩn về dự phòng bệnh lý
nhiễm trùng sơ sinh sớm do liên cầu khuẩn(7,4).
Tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B ở người
trưởng thành khoẻ mạnh thay đổi từ 10% đến
30%(6). Đường tiêu hóa là nguồn nguyên phát
của liên cầu khuẩn nhóm B nhưng âm đạo cũng
là một nguồn thường gặp có vi trùng này. Có thể
phân lập được liên cầu khuẩn nhóm B ở âm đạo
và trực tràng của phụ nữ là người lành mang
trùng(5,10). Tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B
trên thai phụ thay đổi từ 5% đến 30%; điều này
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 4
do sự khác biệt về dân số nghiên cứu, địa điểm
cư trú, kỹ thuật lâm sàng và sinh học trong nuôi
cấy và phân lập vi khuẩn(8). Tuy nhiên tỷ lệ này
tại các nước đang phát triển là 17,8%, ở Châu Á –
Thái Bình Dương là 19%(2,3). Tỷ lệ này của chúng
tôi là 18,1% phù hợp với nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Khoa Nam cũng thực hiện tại bệnh viên
Từ Dũ vào năm 2006 là 17%. Tỷ lệ này khác với
tác giả Aya Goto thực hiện tại 10 huyện thuộc
tỉnh Nghệ An năm 2003 là 4,4% và tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Khanh nghiên cứu tại Hà Nội
vào năm 2000 là 4,5%. Chúng tôi chưa lý giải
được sự khác biệt của tỷ lệ nhiễm trùng này ở ba
vùng địa dư khác nhau. Cần có một nghiên cứu
dịch tể cộng đồng với cỡ mẫu lớn hơn tại nhiều
địa phương về nhiễm trùng này.
Phân lập liên cầu khuẩn nhóm B nhờ kỹ
thuật cấy vi trùng này từ bệnh phẩm của âm đạo
– trực tràng là phương tiện tầm soát hữu hiệu
nhất. Mẫu bệnh phẩm từ âm đạo-trực tràng
nhạy hơn so với mẫu phân lập từ cổ tử cung. Do
đó không cần phải đặt mỏ vịt để lấy bệnh phẩm.
Có thể lấy hai mẫu bệnh phẩm biệt lập, một từ
phần ngoài âm đạo và một từ hậu môn trực
tràng; hoặc một mẫu bệnh phẩm duy nhất với
tampon lấy bệnh phẩm ở âm đạo trước và sau
đó ở hậu môn-trực tràng. Bệnh phẩm phải được
cho vào môi trường chuyên chở thích hợp nơi
mà liên cầu khuẩn nhóm B có thể sống được cho
đến 96 giờ. Điều này rất quan trọng nếu như
mẫu bệnh phẩm được mang đến từ một nơi
khác. Kết quả cấy thường có trong vòng 48-72
giờ(7). Điều này được đảm bảo trong nghiên cứu
của chúng tôi về chuyên chở bệnh phẩm vì mẫu
bệnh phẩm được lấy trên thai phụ đến khám
thai tại Bệnh viện Từ Dũ và được chuyển đến
phòng thí nghiệm của Bệnh viện Từ Dũ cùng
trong ngày. Lấy bệnh phẩm từ hậu môn trực
tràng cũng gây khó chịu cho bệnh nhân và nên
chăng chỉ phân lập từ âm đạo mà thôi? Nghiên
cứu của Jeffrey và cộng sự(12) đã phân lập vi
trùng từ hai vị trí lấy bệnh phẩm riêng biệt (âm
đạo và trực tràng) cho kết quả cấy dương tính
trong 24,3% trường hợp; trong đó 18,5% có kết
quả cấy âm đạo âm tính nhưng dương tính ở
mẫu cấy trực tràng. Như vậy có đến 1/5 bệnh
nhân sẽ không được điều trị kháng sinh dự
phòng nếu chỉ dựa vào cấy âm đạo đơn thuần.
Tuổi của thai phụ trong nghiên cứu của
chúng tôi có đến 75% trường hợp từ 26 đến 35
tuổi, tuổi sinh đẻ. 4% trường hợp thai phụ < 25
tuổi có kết quả cấy dương tính so với 14,1%
trường hợp cấy dương tính có tuổi > 25. Kết quả
này cũng tương tự kết quả nghiên cứu của tác
giả Orrett(11) tại Trinidad (Ấn Độ) tỷ lệ cấy dương
tính ở hai nhóm thai phụ > 24 và < 24 tuổi là
36,6% & 26,9%. 6,4% thai phụ có kết quả cấy (+)
có địa chỉ cư trú nội thành thành phố Hồ Chí
Minh so với 12% trường hợp cấy (+) ở ngoại
thành và các tỉnh khác. Về nơi cư trú có thể bệnh
nhân đến khám và nhập viện khai địa chỉ theo
hộ khẩu nhưng nơi thật sự mà bệnh nhân sinh
sống có thể khác; do đó có thể có khác biệt nhiều
mặt về đời sống kinh tế xã hội. Nghiên cứu của
Stapleton và cộng sự ghi nhận một trong các yếu
tố nguy cơ trên thai phụ có kết quả cấy liên cầu
khuẩn nhóm B (+) là thu nhập từ trung bình trở
lên là yếu tố bảo vệ khỏi nhiễm vi trùng này.
57,35% trường hợp cấy (+) là con so; 83,5% có
tuổi thai từ 35-36 tuần nằm trong tuổi thai được
khuyến cáo tầm soát nhiễm liên cầu khuẩn
nhóm B. Do mẫu nghiên cứu của chúng tôi nhỏ
nên một số các yếu tố liên quan không thể ghi
nhận được.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy tỷ lệ
nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B trên thai phụ có
tuổi thai từ 35-37 tuần tại bệnh viện Từ Dũ là
18,1% qua kỹ thuật cấy bệnh phẩm từ âm đạo và
trực tràng. Vì liên cầu khuẩn nhóm B có thể gây
ra nhiều biến chứng nguy hiểm trên mẹ và thai
nên cần có chiến lược tầm soát trong chương
trình khám và quản lý thai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American College of Obstetrics and Gynecologists, (1996),
Prevention of early-onset group B streptococcal disease in the
newborns, Committee Opinion (73) 1-8.
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 5
2. Anthony BF, Eisenstadt R, Carter J, Kim KS, Hobel CJ, (1981),
Genital and instestinal carriage of group B streptococci during
pregnancy, J. Infect.Dis. 143: 761-6.
3. Aya G và cs, (2003), Tình hình viêm nhiễm đường sinh dục
dưới ở các thai phụ và các yếu tố liên quan trên 10 cộng đồng
tỉnh nghệ An.
4. Baker CJ, Edwards MS, (1995), Group B Streptococcal
infecton, In Infectious Diseases of the fetus and newborn
infant, 4th ed, edited by Remington and Klein JO,
Philadelphia, Saunders, pp 980-1054.
5. Centers for Disease Control and Prevention, (1996),
Prevention of perinatal group B streptococcal disease: a public
health perspective, MMWR Morb.Mortal.wkly.Rep. 45 (RR-7):
1-24.
6. Haffejee IE, Bhana RH,Coovadia YM, Hoosen AA, Maraj AV,
(1991), Neonatal group B streptococcal infections in Indian
(Asian) babies in South Africa, J Hosp.Infect. 22: 225-31.
7. McCracken G, (1973), Group B Streptococci: the new
challenge in neonatal infections, J Pediatr 82: 703.
8. Mitchell, Anta, Steffenson N, Hogan H, Brooks S, (1997),
Group B Streptococcus and pregnancy: update and
recommendation, MCN Vol 22 (5), pp 242-248.
9. Nguyễn Khoa Nam, (2006), Tỷ lệ nhiễm Streptococcus nhóm
B âm đạo – trực tràng của các thai phụ và các yếu tố liên quan,
Luận văn Tốt nghiệp Bác sĩ Nội trú- chuyên ngành Sản phụ
khoa, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Nguyễn Thị Ngọc Khanh, (2001), Nhiễm khuẩn đường sinh
dục ở phụ nữ có thai ở Hà Nội, Tạp chí Y Học Thực hành, số
42, tr 67-70.
11. Orrett FA, (2003), Colonization with Group B streptococci in
pregnancy and outcome of infected neonates in Trinidad,
Peditr Intern. 45, 319-323.
12. Quinian JD, Ashley HD, Maxwell BD, et al, (2000), The
necessity of both anorectal and vaginal cultures for group B
Streptococcus screening during pregnancy, The Journal of
Family Practice, Vol 49(5): 447-448.
13. Renner MR, Renner A, Schmid S, Hoesil I, Nars P, Holzgreve
W, Surbek DV, (2006), Efficacy of a strategy to prevent
neonatal early-onset group B streptococcal (GBS)sepsis,
J.Perinat.Med. 34: 32-38.
14. Schuchat A, Wenger JD, (1994), Epidemiology of group B
streptococcal disease: risk factors, prevention strategies and
vaccine development, Epidemiuol. Rev. 16: 374-402.
15. Schrag S, Gorwitz R, Fultz-Butts K, (2002), Prevention of
streptococcal disease. Revised guidelines from CDC.
Morbidity&Mortality Weekly Report. Recommendations &
Report 51: 1.
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 6
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 7
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ty_le_thai_phu_nhiem_lien_cau_khuan_nhom_b_tai_benh_vien_tu.pdf