ĐỀ XUẤT
Đối với nhà máy
Bố trí lại vị trí lao động hợp lý đối với những
người thấm nhiễm nicotin (làm việc tại những vị
trí ít phát sinh bụi thuốc lá, hơi nicotin). Hạn chế
thời gian làm việc tại những khu vực phát sinh
nồng độ bụi thuốc lá, hơi nicotin cao trong nhà
xưởng.
Tổ chức đo kiểm môi trường lao động và
khám thấm nhiễm nicotin hằng năm cho công
nhân. Trước mắt, doanh nghiệp cần đề nghị
Trung tâm sức khỏe lao động môi trường tỉnh
Bình Dương khám, chẩn đoán, lập hồ sơ đề nghị
giám định cho những trường hợp phát hiện
thấm nhiễm nicotin trong nghiên cứu này.
Đối với ngành y tế
Tăng cường công tác thanh kiểm tra tại các
nhà máy thuốc lá trên cả nước.
Nghiên cứu điều chỉnh tiêu chuẩn hiện hành
về tiêu chuẩn của bụi thuốc lá, hơi nicotin. Trước
mắt cần quy định tất cả những người làm việc
trong khuôn viên nhà máy sản xuất thuốc lá đủ
điều kiện khám, giám định bệnh nghề nghiệp.
Trước khi thực hiện xét nghiệm đánh giá
nồng độ nicotin niệu cần ngưng uống rượu.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 161 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ thấm nhiễm nicotin ở công nhân nhà máy thuốc lá Bình Dương năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 284
TỶ LỆ THẤM NHIỄM NICOTIN Ở CÔNG NHÂN
NHÀ MÁY THUỐC LÁ BÌNH DƯƠNG NĂM 2013
Huỳnh Thanh Hà*, Nguyễn Đỗ Nguyên**, Nguyễn Văn Chinh***, Trịnh Hồng Lân****
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Khám phát hiện thấm nhiễm nicotin ở nhà máy thuốc lá Bình Dương chưa được thực hiện mặc
dù bệnh nhiễm độc nicotin nghề nghiệp là bệnh được bảo hiểm.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thấm nhiễm nicotin năm 2013 và các yếu tố liên quan ở công nhân nhà máy thuốc
lá Bình Dương.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả và phân tích được sử dụng. Trong đó, kỹ
thuật định lượng và đánh giá thấm nhiễm nicotin niệu theo hướng dẫn của Viện y học lao động và vệ sinh môi
trường. Dữ kiện được phân tích đa biến với hồi quy logistic.
Kết quả: Tỷ lệ người lao động làm việc tại nhà máy thuốc lá Bình Dương thấm nhiễm nicotin năm 2013 là
33% và cao hơn ở công nhân trực tiếp làm việc tại xưởng sản xuất. Tuổi nghề và vị trí làm việc là 2 yếu tố liên
quan có ý nghĩa thống kê đến tình trạng thấm nhiễm nicotin (p <0,05).
Kết luận: Tỷ lệ người lao động làm việc tại nhà máy thuốc lá Bình Dương thấm nhiễm nicotin năm 2013 là
33% và cao hơn ở công nhân trực tiếp làm việc tại xưởng sản xuất. Tuổi nghề càng cao, làm việc tại xưởng sản
xuất làm tăng khả năng thấm nhiễm nicotin.
Từ khóa: Nicotin, rượu, thấm nhiễm nicotin.
ABSTRACT
NICOTINE POISONING DISEASE AT TOBACO FACTORY IN BINH DUONG
Huynh Thanh Ha, Nguyen Do Nguyen, Nguyen Van Chinh, Trinh Hong Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 284 – 289
Background: Nicotine poisoning diagnosis has not been done at the tobacco factory in Binh Duong province
although it’s one of the occupational diseases covered by health insurance in VietNam.
Objectives: To identify the prevalence of nicotine poisoning disease and determine factors associated with
nicotine poisoning disease at the tobacco factory in Binh Duong.
Methods: A cross‐sectional study was adopted. In particular, quantitative techniques and assessment of
urinary nicotine‐imbued levels complied with the guidance of the National institute of occupational and
environmental health. Logistic regression was used to calculate the adjusted odds ratio and its corresponding 95%
confidence interval.
Result: Prevalence of nicotine poisoning disease is at 33% and is higher in direct production workers.
Factors associated with nicotine poisoning disease were seniority and working parts (p <0,05).
Conclusion: Prevalence of nicotine poisoning disease were 33% and it’s higher at direct production workers.
Factors associated with nicotine poisoning disease were seniority and working parts (p <0,05).
Key words: Nicotine, alcohol, nicotine poisoning disease.
Y tế Bình Dương ** Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh
*** Trung tâm sức khỏe lao động môi trường tỉnh Bình Dương **** Viện Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Huỳnh Thanh Hà ĐT: 0913660861 Email: vanchinhcc@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 285
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng:
công nhân nhà máy thuốc lá ngoài nguy cơ thấm
nhiễm nicotin còn có nguy cơ bị dị ứng, dễ mắc
các bệnh phổi mạn tính như viêm phế quản, hen
phế quản, nhiễm trùng đường hô hấp. Các
nghiên cứu cũng đề nghị nhà máy thực hiện
nghiêm ngặt việc kiểm soát nồng độ bụi thuốc
lá, hơi nicotin, thực hiện khám sức khỏe định kỳ
đặc biệt chú ý phát hiện thấm nhiễm nicotin,
khám phát hiện những triệu chứng về thần kinh,
tiêu hóa, hô hấp (các nghiên cứu trên thế giới đề
nghị đo chức năng hô hấp bằng hô hấp ký là
công việc thường quy của khám sức khỏe công
nhân nhà máy thuốc lá) nhằm hạn chế đến mức
thấp nhất mắc bệnh nghề nghiệp của công nhân
nhà máy thuốc lá(5,7,8,12,14,18).
Tại Việt Nam, các nghiên cứu trên công nhân
nhà máy thuốc lá chủ yếu ở thế kỷ XX. Nghiên
cứu tại nhà máy thuốc lá Sài Gòn cho thấy mặc
dù nồng độ nicotin trong không khí nằm trong
giới hạn cho phép (hiện tại nồng độ tối đa cho
phép trong không khí vẫn theo quyết định số
3733/QĐ‐BYT là 0,5 mg/m3) nhưng công nhân
vẫn bị nhiễm độc nicotin (tỷ lệ thấm nhiễm năm
1985 là 34%, năm 1992 từ 16,6 ‐ 27,3% nhưng tùy
thuộc phân xưởng làm việc)(4). Các nghiên cứu
tại các nhà máy thuốc lá phía bắc cho thấy tỷ lệ
thấm nhiễm nicotin của công nhân từ 14 – 25%
(3,17). Các nghiên cứu này cũng ghi nhận cải thiện
điều kiện làm việc (các nghiên cứu trong nước
chỉ đề cập chủ yếu đến việc cải thiện vi khí hậu,
bụi, hơi nicotin) làm giảm tỷ lệ thấm nhiễm
nicotin. Trên cơ sở các nghiên cứu trước, chúng
ta có thể thực hiện kiểm soát được tình hình mắc
bệnh do điều kiện làm việc của nhà máy thuốc
lá. Tuy nhiên, công tác khám phát hiện thấm
nhiễm nicotin ở nhà máy thuốc lá Bình Dương
chưa được thực hiện mặc dù bệnh nhiễm độc
nicotin nghề nghiệp là bệnh được bảo hiểm và
khá phổ biến ở công nhân nhà máy thuốc lá.
Do đó, nghiên cứu này được tiến hành trên
cơ sở xác định tỷ lệ thấm nhiễm nicotin và các
yếu tố liên quan. Qua nghiên cứu này, người lao
động sẽ được khám thấm nhiễm nicotin. Kết quả
nghiên cứu cũng là cơ sở để thiết lập điều kiện
làm việc an toàn hơn đồng thời góp phần là tài
liệu quan trọng trong quyết định chính sách,
cũng như những điều chỉnh phù hợp trong công
tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe công nhân sản
xuất thuốc lá.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ thấm nhiễm nicotin năm 2013
và các yếu tố liên quan ở công nhân nhà máy
thuốc lá Bình Dương.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả được sử
dụng. Chọn mẫu toàn bộ đối với người lao động
(177 người), các yếu tố khác (hơi nicotin, bụi
thuốc lá) theo thường quy kỹ thuật của viện Y
học lao động. Xác định thấm nhiễm nicotin theo
thường quy của viện y học lao động và vệ sinh
môi trường đồng thời các biến số cần thu thập
qua đánh giá điều kiện làm việc và phỏng vấn
công nhân (bộ câu hỏi soạn sẵn) như tuổi nghề,
vị trí làm việc, thời gian làm việc/tháng, thói
quen sử dụng bảo hộ lao động, tình trạng hút
thuốc, tình trạng sử dụng rượu bia, nồng độ bụi
thuốc lá, nồng độ nicotin tại nơi làm việc.
Dữ kiện được nhập bằng phần mềm Epidata
3.0 và xử lý bằng phần mềm Stata 10.0 qua phân
tích đa biến với hồi quy logistic. Mức độ kết hợp
được ước lượng với OR (Odds ratio: tỷ số số
chênh) điều chỉnh và khoảng tin cậy 95% (KTC
95%) tương ứng.
KẾT QUẢ
Tỷ lệ người lao động làm việc tại nhà máy
thuốc lá Bình Dương thấm nhiễm nicotin năm
2013 là 33%. Trong đó, công nhân làm việc tại
xưởng đầu lọc chưa bị thấm nhiễm nicotin, tỷ lệ
thấm nhiễm nicotin theo bộ phận làm việc theo
thứ tự là: xưởng vấn điếu 1 (55%), xưởng vấn
điếu 2 (43%), bốc xếp (38%), kho thành phẩm
(33%), quản đốc (29%), khác (bảo vệ, kho phụ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 286
liệu, bộ phận cung tiêu) chiếm tỷ lệ 20%, bảo trì
(17%), văn phòng 14%.
Bảng 1: Thấm nhiễm nicotin theo vị trí làm việc
(n=174)
Vị trí làm việc Thấm nhiễm nicotin [tần số
(tỷ lệ%)]
Xưởng vấn điếu 1 18 (55)
Xưởng vấn điếu 2 15 (43)
Bốc xếp 3 (38)
Xưởng sợi 11 (33)
Kho thành phẩm 1 (33)
Quản đốc 2 (29)
Khác 2 (20)
Bảo trì 2 (17)
Văn phòng 4 (14)
Xưởng đầu lọc 0 (0)
Chung 58 (33)
Bảng 2: Các yếu tố liên quan đến thấm nhiễm nicotin
(phân tích đa biến với hồi quy logistic)
Các biến số OR (khoảng tin cậy 95%) p
Tuổi nghề (năm) 1,07 (1,01-1,13) 0,02
Làm việc tại xưởng 4,52 (1,42-14,35) 0,01
Lạm dụng rượu 0,54 (0,27-1,08) 0,08
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p
<0,05) giữa tuổi nghề và nơi làm việc tại xưởng
sản xuất đến nguy cơ thấm nhiễm nicotin [Tuổi
nghề cứ tăng lên 1 năm thì khả năng thấm
nhiễm nicotin tăng lên 1,07 lần (KTC 95%: 1,01‐
1,13), làm việc tại các xưởng sản xuất thì có khả
năng thấm nhiễm nicotin cao gấp 4,52 lần (KTC
95%: 1,42‐14,35) so với những người làm việc tại
văn phòng].
Khả năng thấm nhiễm nicotin ở những
người lạm dụng rượu bằng 0,54 lần (KTC 95%:
0,27‐1,08) so với những người không lạm dụng
rượu với p=0,08.
BÀN LUẬN
Nồng độ bụi thuốc lá (bụi toàn phần), hơi
nicotin tại nhà máy thuốc lá Bình Dương đều đạt
tiêu chuẩn vệ sinh lao động theo quyết định
3733/QĐ‐BYT. Tuy nhiên, tỷ lệ thấm nhiễm
nicotin tại nhà máy thuốc lá Bình Dương năm
2013 vẫn khá cao 33,3%. Tỷ lệ thấm nhiễm
nicotin cao hơn ở những phân xưởng sản xuất là
phù hợp với nồng độ hơi nicotin và nồng độ
thuốc lá cao hơn hẳn các khu vực làm việc khác.
Tỷ lệ này không khác biệt nhiều so với những
báo cáo gần đây về tình trạng nhiễm độc nicotin
ở công nhân nhà máy thuốc lá (10,11). Tỷ lệ thấm
nhiễm ở xưởng vấn điếu 1 và 2 có thể cao hơn ở
những năm trước (vì 2 năm trước là quy trình
sản xuất thuốc lá tại xưởng vấn điếu 1 và 2 lạc
hậu có khả năng phát sinh nhiều bụi thuốc lá,
hơi nicotin hơn là quy trình sản xuất hiện tại).
Tại thời điểm nghiên cứu, công suất nhà máy
đạt mức cao, tại xưởng vấn điếu 1 chỉ có một
máy vấn điếu ngưng hoạt động. Quy trình của
xưởng sợi vẫn không thay đổi nhiều so với hai
năm trước nên nồng độ bụi thuốc lá, hơi nicotin
tại nơi làm việc tại xưởng sợi có thể không thay
đổi nhiều so với quá khứ. Trong nghiên cứu này
không có dữ kiện của nồng độ bụi thuốc lá và
nồng độ nicotin trong môi trường làm việc của
các năm trước nhưng xưởng sợi có quy trình sản
xuất hầu như không thay đổi và nồng độ bụi
thuốc lá, hơi nicotin vẫn nằm trong giới hạn tiêu
chuẩn 3733/QĐ‐BYT. Do đó, nồng độ bụi thuốc
lá và hơi nicotin trong quá khứ tại xưởng sợi có
khả năng cũng không vượt tiêu chuẩn vệ sinh
lao động. Mặt khác, các nghiên cứu tại nhà máy
thuốc lá Sài Gòn từ năm 1985‐2000 cho thấy mặc
dù các tiêu chuẩn về bụi, hơi nicotin vẫn thấp
hơn tiêu chuẩn nhưng vẫn có một tỷ lệ không
nhỏ công nhân làm việc tại nhà máy thuốc lá bị
thấm nhiễm nicotin(3,4,10). Đồng thời, các nghiên
cứu đề nghị hạ thấp tiêu chuẩn về bụi thuốc lá
và hơi nicotin (xuống còn 0,2 mg/m3). Hơn nữa,
tỷ lệ thấm nhiễm của công nhân bốc xếp (38%),
công nhân làm việc tại xưởng sợi của nhà máy
thuốc lá Bình Dương cũng khá cao (33%) và điều
kiện làm việc tại các khu vực này không thay đổi
nhiều so với quá khứ. Do vậy, tiêu chuẩn vệ sinh
lao động về bụi thuốc lá và hơi nicotin là chưa
phù hợp vì không bảo vệ người lao động khỏi
thấm nhiễm nicotin. Có nhiều lý do khiến tiêu
chuẩn về hơi nicotin chưa phù hợp vì chỉ đánh
giá hấp thụ qua hô hấp mà chưa đánh giá hấp
thụ qua da niêm, ăn uống. Lượng nicotin thải
qua nước tiểu chiếm 10‐15% tổng lượng nicotin
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 287
đã được hấp thụ(3). Với nồng độ tiêu chuẩn vệ
sinh đối với hơi nicotin trong môi trường làm
việc là 0,5 mg/m3 đã được hấp thụ hoàn toàn và
không kể lượng hấp thu qua da thì trong 8 giờ
lao động lượng nicotin hấp thụ vào cơ thể có thể
được hấp thụ lên tới 4 mg và thải ra nicotin niệu
trung bình là 0,6 mg/l, gấp 2 lần tiêu chuẩn
nicotin niệu ở những người không hút thuốc. Để
lượng nicotin niệu không vượt quá 0,3 mg/l (giới
hạn sinh học), thì lượng nicotin hấp thụ qua hô
hấp (không kể qua da) trong 8 giờ là 2 mg tương
đương với tiêu chuẩn vệ sinh lao động là 0,25
mg/m3. Tuy nhiên, thực tế phải tính đến phần
nicotin được hấp thu qua da. Vì vậy, tiêu chuẩn
vệ sinh lao động cho nicotin nên được quy định
0,20 mg/m3. Đây là tiêu chuẩn đề nghị theo
nghiên cứu của tác giả Hoàng Văn Bính(3). Tuy
nhiên, căn cứ xây dựng tiêu chuẩn này cũng
chưa rõ ràng, còn mang tính lý thuyết, chưa
đánh giá đầy đủ hết các đường hấp thụ nicotin
vào cơ thể. Trong thực tế, nicotin không chỉ hấp
thụ qua đường hô hấp mà còn nhiều đường
khác cũng quan trọng không kém đó là đường
da niêm, ăn uống. Việc xây dựng tiêu chuẩn cho
riêng đường hô hấp là chưa chuẩn xác. Các
nghiên cứu đã chứng minh rằng việc áp dụng
các tiêu chuẩn hiện hành chưa có ý nghĩa bảo vệ
người lao động. Từ những chứng cứ trên cho
thấy tiêu chuẩn về hơi nicotin, bụi thuốc lá
không có ý nghĩa dự phòng. Do vậy, không nên
dựa vào tiêu chuẩn môi trường về hơi nicotin để
xác định công nhân có đủ điều kiện được khám
bệnh nhiễm độc nicotin nghề nghiệp hay không
mà nên quy định rằng “bất kể những người làm
việc trong nhà máy thuốc lá đều phải được
khám nhiễm độc nicotin nghề nghiệp định kỳ”.
Công nhân làm việc tại xưởng đầu lọc chưa
phát hiện bị thấm nhiễm nicotin có thể do số
lượng nhân công tại khu vực này ít (5 người) nên
khả năng quan sát được người thấm nhiễm thấp.
Đồng thời công đoạn làm việc không phát sinh
bụi thuốc lá và hơi nicotin (vẫn bị ảnh hưởng hơi
nicotin, bụi thuốc lá từ các phân xưởng khác
nhưng thấp hơn tiêu chuẩn và những xưởng sản
xuất khác). Như đã trình bày ở trên, xưởng sợi là
khu vực ô nhiễm bụi thuốc lá và hơi nicotin cao
nhất so với những công đoạn khác nhưng tỷ lệ
thấm nhiễm nicotin tại phân xưởng này thấp
hơn các phân xưởng làm việc khác (xưởng vấn
điếu 1 và 2). Có thể do thời gian làm việc tại nhà
máy/tháng thấp hơn các phân xưởng khác nên
tổng thời gian tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ
thấp hơn các công đoạn làm việc khác hoặc đây
cũng có thể là công đoạn có công nhân đã bị
thấm nhiễm nicotin nghỉ việc nhiều nhất. Nhưng
đây có thể là minh chứng cho thấy rằng, thời
gian làm việc tại nhà máy/tháng càng giảm thì tỷ
lệ thấm nhiễm càng thấp. Mặt khác, việc sử
dụng khẩu trang vải là không đúng theo quy
định (không có khả năng phòng ngừa thấm
nhiễm qua đường hô hấp). Do vậy, việc sử dụng
khẩu trang vải không làm giảm tỷ lệ thấm nhiễm
nicotin.
Làm việc tại nhà máy càng lâu thì tổng thời
gian tiếp xúc với bụi thuốc lá, hơi nicotin từ môi
trường làm việc càng nhiều. Tương tự, với
những người làm việc tại xưởng sản xuất có khả
năng thấm nhiễm nicotin cao hơn hẳn những
người làm việc tại văn phòng bởi đây chính là
nơi phát sinh hơi nicotin, bụi thuốc lá cao hơn.
Do vậy, nồng độ và thời gian tiếp xúc với bụi
thuốc lá là hai yếu tố ảnh hưởng chính đến thấm
nhiễm nicotin. Như đã đề cập ở trên, những
người làm việc tại xưởng sợi (nơi phát sinh hơi
nicotin, bụi thuốc lá cao hơn hẳn các khu vực
làm việc khác) lại có tỷ lệ thấm nhiễm nicotin
thấp hơn xưởng vấn điếu 1 và 2 và xưởng bốc
xếp. Bởi vì, tổng thời gian làm việc/tháng của
công nhân xưởng sợi dưới 15 ngày/tháng, thấp
hơn hẳn thời gian làm việc ở các xưởng khác
(dao động từ 20‐30 ngày). Kết quả nghiên cứu
này cũng tương tự như những nghiên cứu đã
tiến hành trước đây (3,4,17).
Những người lạm dụng rượu có khả năng bị
thấm nhiễm nicotin chỉ bằng 0,54 lần so với
những người không lạm dụng rượu, nhưng sự
khác biệt này chưa có chứng cứ về mặt thống kê
(p=0,08). Các nghiên cứu trên động vật cho thấy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 288
rằng nicotin làm giảm nồng độ cồn trong máu,
và được giải thích rằng nicotin ngăn cản sự hấp
thu rượu ở dạ dày (6,17) nhưng những lý giải và
chứng cứ này là chưa rõ ràng. Những nghiên
cứu cho thấy rằng “hút thuốc và uống rượu
thường là song hành và có nhiều giải thích cho
hiện tượng trên (yếu tố di truyền, yếu tố môi
trường như thái độ và hành vi của cha mẹ, bạn
bè, kinh nghiệm bản thân, giá trị văn hóa, quảng
cáo, yếu tố thần kinh (tăng cường các thụ thể
nicotin và nâng tầm đạt khoái cảm của cơ thể.
Do vậy, hút thuốc, uống rượu nhiều hơn)”(6,10,11)
(17). Do đó, những người hút thuốc và uống rượu
phải là những người có nồng độ nicotin niệu cao
hơn những người chỉ hút thuốc. Nhưng kết quả
này cho thấy điều ngược lại (mặc dù chưa thấy
sự khác biệt rõ ràng về mặt thống kê). Tuy
nhiên, chứng cứ này cần được xem xét thấu đáo.
Về tính chất của nicotin cũng cho thấy rằng
“nicotin có phản ứng kiềm mạnh, tạo thành
những muối bền vững. Nicotin kết tủa dung
dịch của hầu hết các muối kim loại (Hg, Pb, Zn,
v.v.)”(6). Cũng giống như nicotin, rượu cũng là
chất được hấp thụ vào máu được đào thải ở gan
và cũng thải ra nước tiểu ở nguyên dạng . Đồng
thời, rượu lại có tính axit. Do đó, rất có thể có sự
kết hợp giữa hai chất này trong cơ thể nên làm
giảm lượng nicotin thải ra trong nước tiểu. Tuy
nhiên, cũng phải xem xét rằng có thể những
người chỉ hút thuốc là những người có lượng
thuốc hút mỗi ngày nhiều hơn những người vừa
hút thuốc và uống rượu, hoặc có thể sai lệch
trong nghiên cứu này (ngoài tầm kiểm soát của
nghiên cứu, vì trước thời điểm nghiên cứu có
đợt tinh giản biên chế). Tóm lại, dù chưa có
những chứng cứ rõ ràng về giảm tác hại của
rượu đối với nicotin tồn tại trong cơ thể. Nhưng
nếu có sự kết hợp này thì không chắc rằng sự kết
hợp này là có lợi cho cơ thể vì sẽ sinh ra hợp chất
mới trong cơ thể, tăng liều sử dụng rượu hoặc
thuốc lá mà hai chất này đã được biết đến là gây
hại rất nghiêm trọng đến sức khỏe. Do đó, để
đánh giá thấm nhiễm nicotin được chính xác
hơn nên yêu cầu những người làm xét nghiệm
ngưng sử dụng rượu trước khi xét nghiệm
nicotin niệu.
ĐỀ XUẤT
Đối với nhà máy
Bố trí lại vị trí lao động hợp lý đối với những
người thấm nhiễm nicotin (làm việc tại những vị
trí ít phát sinh bụi thuốc lá, hơi nicotin). Hạn chế
thời gian làm việc tại những khu vực phát sinh
nồng độ bụi thuốc lá, hơi nicotin cao trong nhà
xưởng.
Tổ chức đo kiểm môi trường lao động và
khám thấm nhiễm nicotin hằng năm cho công
nhân. Trước mắt, doanh nghiệp cần đề nghị
Trung tâm sức khỏe lao động môi trường tỉnh
Bình Dương khám, chẩn đoán, lập hồ sơ đề nghị
giám định cho những trường hợp phát hiện
thấm nhiễm nicotin trong nghiên cứu này.
Đối với ngành y tế
Tăng cường công tác thanh kiểm tra tại các
nhà máy thuốc lá trên cả nước.
Nghiên cứu điều chỉnh tiêu chuẩn hiện hành
về tiêu chuẩn của bụi thuốc lá, hơi nicotin. Trước
mắt cần quy định tất cả những người làm việc
trong khuôn viên nhà máy sản xuất thuốc lá đủ
điều kiện khám, giám định bệnh nghề nghiệp.
Trước khi thực hiện xét nghiệm đánh giá
nồng độ nicotin niệu cần ngưng uống rượu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Benowitz NL, Fong I, Gupta S (1994). Nicotine metabolic
profile in man: comparison of cigarette smoking and
transdermal nicotine. Pharmacol Experimental Therapeutics.
268. 296‐303.
2. Hendrickson LM, Guildford MJ, Tappe AR (2013). Neuronal
nicotinic acetylcholine receptors: common molecular substrate
of nicotine and alcohol dependence. Psychiatry. 4‐29.
3. Hoàng Văn Bính (1996). Đánh giá môi trường lao động và sức
khỏe công nhân nhà máy thuốc lá Sài Gòn trong 10 năm qua
(1985 – 1995). Hội nghị khoa học kỹ thuật Vệ sinh Y tế công
cộng. Tr. 1‐10.
4. Hoàng Văn Bính (2000). Đánh giá hiệu quả dự phòng của tiêu
chuẩn vệ sinh về Nicotin và bụi thuốc lá trong tiếp xúc của
công nhân công nghiệp thuốc lá qua 15 năm nghiên cứu
(1985‐1999). Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 4 (1) 46‐52.
5. Kasuba V, Orescanin V, Zeljezić D, Kopjar N, Rozgaj R (2005).
Chromosome damage in wokers in cigarette manufacturing
industry. Epidemiol. 29 (5‐6) 217‐7.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 289
6. Lê Trung (2002). Bệnh nhiễm độc nghề nghiệp. Nhà xuất bản
Y học. Hà Nội. Tr. 669‐679.
7. M Rahman. (2009). Health Hazards And Quality Of Life Of
The Workers In Tobacco Industries: Study From Three
Selected Tobacco Industries At Gangachara Thana In
Rangpur District Of Bangladesh. The Internet Journal of
Epidemiology. 6. (2).
8. Mustaibegovic J, Zuskin E, Schachter EN (2003). Occupational
and environmental lung. Chest Journal. 123. 1740‐1748.
9. National Institute on Alcohol Abuse and Alcoholisim (2007).
Alcohol and tobaco.
Accessed on 20/10/2013.
10. Nguyễn Bích Hà, Nguyễn Thị Thùy (2012). Tình trạng sức
khỏe của người lao động công ty thuốc lá Sài Gòn. Y học
thành phố Hồ Chí Minh. 3 (16) 281‐290.
11. Nguyễn Trúc Ly, Phan Bích Hà, Trần Thị Kiều Anh (2012).
Khảo sát hàm lượng Nicotin niệu của công nhân trong nhà
máy thuốc lá tại Thành phố Hồ Chí Minh. Y học thành phố
Hồ Chí Minh. 3(16). 373‐377.
12. Parducci DA, Puccetti M, et al (2006). Mortality among
workers in a cigarette factory in Lucca (Tuscany). Journal
Occupational Medicine Toxicol. 7. 1‐11.
13. Parnell SE, West JR, Chen WJ. (2006). Nicotine Decreases
Blood Alcohol Concentrations in Adult Rats: A Phenomenon
Potentially Related to Gastric Function. Alcoholism Clinical &
Experimental Research. 30. (8). 1408‐13.
14. Reiman M, Uitti J (200). Exposure to microbes. endotoxins and
total dust in cigarette and cigar manufactoring: an evaluation
of health hazards. Oxford Journal. 44. (6). 467‐473.
15. Tang J, Liao Y (2013). Alcohol and nicotinic acetylcholine
receptors. Mental Health Institute. 179‐185.
16. Trikunakornwongs A, Kongtip P, Chantanakul S, Yoosook W,
Loosereewanich P, Rojanavipart P (2009). Assessment of
Nicotine Inhalation Exposure and Urinary Cotinine of
Tobacco Processing Workers. J Med Assoc Thai. 92(7)121‐127.
17. Trung tâm y tế ‐ Vệ sinh lao động Bộ công nghiệp nhẹ (1995).
Công nghiệp thuốc lá Việt Nam. vấn đề thâm nhiễm và
nhiễm độc nicotin mãn tính. Hội thảo quốc gia về chiến lược
phòng chống tác hại thuốc lá lần thứ 3.
18. Zuskin E, Mustaibegovic J, Schachter N, Kanceljak B (2004).
Immonological and respiratory changes in tobaco workers.
American journal of industry medicine. 45 (1) 76‐83.
Ngày nhận bài báo: 12/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ty_le_tham_nhiem_nicotin_o_cong_nhan_nha_may_thuoc_la_binh_d.pdf