Tỷ lệ và mức độ trầm trọng của tình trạng mòn ngót răng ở một nhóm người Việt Nam trưởng thành

KẾT LUẬN Ghi nhận tình trạng mòn ngót răng do acid ở 69% cá thể trong nhóm khảo sát cho thấy đây là một tình trạng khá phổ biến trong mẫu khảo sát . Không có sự khác biệt giữa nam và nữ về tỷ lệ cũng như mức độ mòn ngót. Mòn ngót gặp ở đủ các mặt răng: mặt nhai, mặt má, mặt lưỡi. Vị trí hay gặp mòn ngót nhất là mặt nhai răng cối lớn, kế đến là mặt ngoài răng cửa hàm trên. Vị trí ghi nhận tổn thương nặng nhất (BEWE 3) thường ở mặt nhai răng cối lớn thứ 1. Đa số các tổn thương mòn ngót ở răng cửa đều ở mức độ nhẹ (BEWE 1). Các kết quả bước đầu cho mòn ngót răng không phải là tình trạng hiếm gặp ở mẫu nghiên cứu, có nguy cơ ảnh hưởng sức khoẻ răng miệng. Đây chỉ là một nghiên cứu khảo sát bước đầu, cần có các nghiên cứu tiếp tục trên trên nhiều phương diện trong lãnh vực này. Đồng thời hy vọng các số liệu ban đầu này sẽ tạo được sự quan tâm của giới chuyên môn, hướng tới duy trì và gia tăng sức khoẻ răng miệng cho cộng đồng.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 72 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ và mức độ trầm trọng của tình trạng mòn ngót răng ở một nhóm người Việt Nam trưởng thành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 176 TỶ LỆ VÀ MỨC ĐỘ TRẦM TRỌNG CỦA TÌNH TRẠNG MÒN NGÓT RĂNG Ở MỘT NHÓM NGƯỜI VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH Trần Thu Thuỷ*, Trần Đức Thành*, Nguyễn Thị Thanh Hà* TÓM TẮT Mở đầu: Răng bị mòn ngót do acid (dental erosion) là một tình trạng mất chất mô răng không do sâu liên quan đến nhiều yếu tố trong đó đáng kể là lối sống. Tình trạng này hiện đang được nghiên cứu rộng rãi ở các nước đã phát triển. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, lối sống của người Việt nam cũng đang dần thay đổi với việc các loại nước giải khát và thực phẩm chế biến sẵn có tiềm năng gây mòn ngót răng ngày càng phổ biến trên thị trường. Tuy nhiên cho đến nay dường như vấn đề này vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của giới chuyên môn, cả về mặt lâm sàng cũng như phương diện sức khoẻ cộng đồng. Chưa có số liệu báo cáo chính thức nào về tình trạng mòn ngót răng. Liệu đây có phải là vấn đề sức khoẻ răng miệng cộng đồng thực sự đáng quan tâm? Mục tiêu: Nghiên cứu thực hiện để bước đầu khảo sát tỷ lệ mòn răng và mức độ trầm trọng của do acid ở một nhóm người Việt Nam trưởng thành. Đối tượng và Phương pháp: Sinh viên được khám đánh giá tình trạng mòn ngót răng do acid bằng chỉ số Basic erosive Wear Examination (BEWE). 301 sinh viên năm thứ 1 Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, tuổi trung bình 29 (23-43), tham gia nghiên cứu. Kết quả: Kết quả cho thấy 31,9% không có dấu hiệu của mòn ngót răng và 68,1% bị mòn ngót răng. Về mức độ, trong số sinh viên bị mòn ngót răng hơn một nửa (57,8% ở mức độ nhẹ (BEWE 1), 28,5 % ở mức độ trung bình (BEWE 2) và có 15,7% ở mức độ năng (BEWE 3). Đa số các ghi nhận mòn ngót răng trên các răng cửa ở mức độ nhẹ (83,5% ở hàm trên, 65,7% hàm dưới). Đối với răng sau, thường gặp nhất là răng số 6. Không có sự khác biệt cả về tỷ lệ và mức độ trầm trọng giữa nam và nữ. Kết luận: Các kết quả bước đầu cho mòn ngót răng không phải là tình trạng hiếm gặp ở mẫu nghiên cứu, có nguy cơ ảnh hưởng sức khoẻ răng miệng, là một tình trạng cần được quan tâm đúng mức cả về mặt thực hành lâm sàng lẫn sức khoẻ cộng đồng. Từ khoá: Mòn ngót răng. ABSTRACT PREVALENCE AND SEVERITY OF DENTAL EROSION AMONG A GROUP OF VIETNAMESE ADULTS Tran Thu Thuy, Tran Duc Thanh, Nguyen Thi Thanh Ha * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 176 - 180 Background: Dental erosion is a multifactorial condition involved lifestyle and the subject of extensive research in developed countries. Vietnamese lifestyle has been changing with the increase of soft drinks and acidic foods available in the market. However this condition still is of no interest to both clinical dental practice and dental public health. Is this really a concerned condition in Vietnamese? Objectives: This is the first study on erosive dental wear to assess the prevalence and the severity of a group of Vietnamese adults. * Bộ môn NKCC - Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM Tác giả liên lạc: TS Trần Thu Thủy ĐT: 0913115959 Email: tranthuthuyrhm@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 177 Methods: First-year students of the Ho Chi Minh University of Medicine and Pharmacy were invited to participate. Students were interviewed about their dietary habits and knowledge of dental erosion. Three examiner recorded caries and periodontal status and one examiner recorded dental erosion using the Basic erosive Wear Examination (BEWE). Results: 107 male and 194 female participated in both the interview and dental examination. The student’s mean age was 29 (23-43). Of the 301 individuals examined, 31.9% showed no signs of erosion and 68.1% presented dental erosion. Regarding severity, mild erosion (BEWE scores 1) was observed in more than a half of students (57.8%) while BEWE score 2 and BEWE score 3 (severe erosion) was 28.5% and 15.7% respectively. Most of erosions observed on anteriors were score 1 (83.5% upper and 65.7% lower anteriors). In posteriors the first molars were the most often affected. There was no significant different in both prevalence and severity between gender. Conclusion: The results suggested that erosive dental wear is a concerned condition for Vietnamese clinical dental practice and dental public health. Key words: Dental erosion. ĐẶT VẤN ĐỀ Tuổi thọ con người càng tăng thì nhu cầu và thách thức để duy trì hàm răng khỏe mạnh và chức năng càng tăng. Trước đây khi nói đến duy trì sức khỏe răng miệng người ta thường chỉ chú ý đến việc đối phó với bệnh sâu răng, một bệnh nằm trong số những bệnh phổ biến nhất ở loài người. Các loại tổn thương mất chất mô răng khác không do sâu răng trong đó có mòn ngót răng do acid (dental erosion) ít được hay thậm chí là không được quan tâm đến. Răng bị mòn ngót do acid là một tình trạng mất chất mô răng liên quan đến nhiều yếu tố trong đó đáng kể là lối sống. Cùng với việc giảm tỷ lệ và mức độ trầm trọng của sâu răng ở các nước công nghiệp hóa thì mòn ngót răng do acid trở thành thách thức mới cho giới chuyên môn. Nhận thức về tác động của mòn ngót răng đến sức khỏe răng miệng đã thay đổi. Năm 1995 ấn bản đặc biệt “Etiology, mechanisms and implications of dental erosions” của tạp chí European Juornal of Oral Science được xuất bản. Kể từ đó mòn ngót răng đã nhận được sự quan tâm thích đáng ở các nước đã phát triển, trong cả lãnh vực nghiên cứu rộng lẫn ứng dụng lâm sàng. Số lượng bài báo công bố tăng đáng kể, từ 5 bài/năm trong thập niên 1970 đến 10 bài/năm ở những năm 1980 và hiện này là trên 50 bài công bố/nămtừ các lãnh vực dịch tễ học, lâm sàng, đến các vật liệu và sản phẩm chăm sóc sức khoẻ(5). Sự gia tăng đáng kể mòn ngót răng được cho là có liên quan nhiều đến sự thay đổi lối sống(5). Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, lối sống của người Việt nam cũng đang dần thay đổi với việc các loại nước giải khát và thực phẩm chế biến sẵn có tiềm năng gây mòn ngót răng ngày càng phổ biến trên thị trường. Tuy nhiên cho đến nay dường như vấn đề này vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của giới chuyên môn, cả về mặt lâm sàng cũng như phương diện sức khoẻ cộng đồng. Chưa có số liệu báo cáo chính thức nào về tình trạng mòn ngót răng. Liệu đây có phải là vấn đề sức khoẻ răng miệng cộng đồng thực sự đáng quan tâm? Nghiên cứu thực hiện để bước đầu khảo sát tỷ lệ mòn răng do acid và mô tả mức độ trầm trọng của mòn ngót răng do acid ở một nhóm người Việt Nam trưởng thành. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên sinh viên Đại học Y Dược Tp.HCM. Đề cương nghiên cứu đã được Hội đồng Y đức của Đại Học Y Dược Tp.HCM thông qua. Sinh viên liên thông năm thứ nhất (năm học 2013-1014) được mời tham gia nghiên cứu. Người đồng ý tham gia nghiên cứu được khám đánh giá tình trạng sức khỏe răng miệng (WHO, 1997) và tình trạng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 178 mòn ngót răng do acid (dental erosion). Nhóm khám gồm 3 giảng viên bộ môn Nha khoa công cộng và đã được tập huấn. Thông tin một số yếu tố liên quan đến mòn ngót răng (sức khoẻ chung và sức khoẻ răng miệng, thói quen chăm sóc răng miệng, thói quen ăn uống, nguồn thông tin hướng dẫn cách ăn uống lành mạnh, hoạt động thể thao) được thu thập qua bảng câu hỏi phỏng vấn. Phạm vi báo cáo này chỉ trình bày tình trạng mòn ngót răng trong mẫu khảo sát. Khám lâm sàng được thực hiện trên ghế nha khoa dưới ánh sáng đèn, có lau khô khi cần thiết. Tình trạng mòn ngót răng được đánh giá bằng chỉ số Basic Erosive Wear Examination (BEWE)(1). Chỉ số BEWE gồm bốn mức độ từ 0 tới 3: 0- Không có mòn răng, 1- Bắt đầu mất kết cấu bề mặt men, 2- Tổn thương dễ dàng nhận thấy và liên quan dưới 50% diện tích bề mặt, 3- Mô cứng mất trên 50% diện tích bề mặt. BEWE 2 và BEWE 3 thường tổn thương mòn ngót đã vào tới mô ngà răng. Các trường hợp có dấu chứng mòn ngót đều được chụp hình ghi nhận. Xử lý số liệu: Số liệu thu thập được nhập bằng phần mềm Epi Data 3.1 và xử lý thống kê với phần mềm SPSS 17. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Mẫu nghiên cứu gồm 301 sinh viên năm thứ nhất hệ liên thông, 194 nữ và 107 nam. Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 29 (biên độ từ 23-43 tuổi). Đây là khảo sát đầu tiên về tình trạng mòn ngót răng do acid trên người trưởng thành ở Việt nam, vì thế đối tượng nghiên cứu được chọn là nhóm sinh viên hệ liên thông ít nhất đã tốt nghiệp một hệ đào tạo đại học và có thể đã đi làm một vài năm. Mẫu này có độ tuổi tương đối tương đương với nhóm người trưởng thành hơn là nhóm sinh viên năm nhất thường quy mới trúng tuyển với độ tuổi trẻ từ 17-20. Về tỷ lệ, có 30,9% đối tượng không có dấu hiệu mòn ngót răng và 69,1% có biểu hiện mòn ngót răng. Mulic báo cáo tỷ lệ mòn ngót là 54% ở sinh viên Đại học Oslo tuổi từ 18-35(7). Tỷ lệ mòn ngót răng của sinh viên Malaysia là 68%(6), khá tương đồng với sinh viên ĐHYD Tp.HCM. Số liệu về tỷ lệ bị mòn ngót răng trên thế giới dao động với biên độ khá rộng, theo báo cáo tổng hợp của Jaeggi và Lussi tỷ lệ này là từ 4-100% ở người trưởng thành (18-88 tuổi)(4). Việc so sánh tỷ lệ giữa các nghiên cứu khác nhau trên thế giới cho đến nay không được thuận lợi lắm do không đồng nhất về chỉ số đánh giá hoặc tuổi của mẫu nghiên cứu. Tuy vậy, với hai phần ba đối tượng có dấu hiệu của mòn ngót răng cho thấy mòn ngót răng khá phổ biến ở mẫu nghiên cứu trên sinh viên Đại học Y Dược Tp.HCM. Biểu đồ 1: Mức độ trầm trọng của tình trạng mòn ngót răng Biểu đồ 1 mô tả tỷ lệ mòn ngót răng trong mẫu sinh viên theo mức độ của tổn thương. Về mức độ, trong số sinh viên bị mòn ngót răng hơn một nửa (57,8%) ở mức độ nhẹ (BEWE 1), 28,5 % ở mức độ trung bình (BEWE 2) và có 15,7% ở mức độ nặng (BEWE 3). Các số liệu này khá tương đồng với báo cáo về tình trạng mòn ngót răng của sinh viên Đại học Oslo (18-35 tuổi) với 54% có ít nhất 1 răng bị mòn ngót, 24% sang thương trong phạm vi men răng và 30% sang thương đã tiến triển vào ngà răng(7). Hình 1 trình bày hình ảnh lâm sàng các mức độ mòn ngót ghi nhận trên mẫu nghiên cứu. Mức độ nặng (BEWE 3) hầu hết xảy ra ở mặt nhai răng cối lớn. Mức độ nhẹ thường gặp ở nhóm răng cửa (83,7% răng cửa hàm trên và 65,7% răng cửa hàm dưới). Mòn ngót răng do acid diễn tiến âm thầm, ở giai đoạn khởi đầu hầu như không có triệu chứng. Những thay đổi bề mặt răng gia đoạn đầu thường (bề mặt răng mất lớp kết cấu bề mặt, răng có hình ảnh sáng lóng lánh như lụa) dễ bị bỏ qua. Vì vậy vai trò của bác sĩ răng hàm mặt rất quan trọng để nhận diện những dấu hiệu ban đầu, chẩn đoán, theo dõi và Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 179 xử lý để ngăn ngừa sự mất chất mô răng tiến triển tiếp tục. Hình 1: Hình ảnh lâm sàng mòn ngót răng (từ trái sang phải): Bắt đầu mất cấu trúc bề mặt, men răng bóng láng như lụa (BEWE1); Mòn ngót mất chất dưới 50% diện tích bề mặt (BEWE2); Mòn ngót tiến triển sâu tới lớp ngà răng trên 50% diện tích mặt nhai (BEWE3) Phân bố theo vị trí, mòn ngót răng ghi nhận được ở trên tất cả các mặt răng, thường gặp ở mặt nhai và mặt má của răng cối hàm trên và hàm dưới, mặt má răng cửa hàm trên. Trong nghiên cứu chỉ ghi nhận 3 trường hợp mòn ngót mặt khẩu cái răng cửa trên và đều ở mức độ BEWE 1. Mòn ngót răng thường gặp nhất là ở mặt nhai răng cối lớn, đặc biệt là răng cối lớn thứ 1, đặc điểm phân bố vị trí tương tự như các ghi nhận trong y văn(2,3,8). Vị trí thường gặp tiếp theo là mặt ngoài răng cửa hàm trên. Các trường hợp BEWE 3 đều ở mặt nhai răng cối lớn. Nhìn chung ghi nhận về phân bố vị trí mòn ngót và độ trầm trọng trong nghiên cứu này tương tự các ghi nhận trong y văn(4). So sánh giữa nam và nữ, không thấy sự khác biệt theo giới ở cả tỷ lệ và mức độ trầm trọng của mòn ngót răng (Bảng 1). Theo tổng hợp của Jaeegi và Lussi từ các số liệu có được tỷ lệ mòn ngót răng ở nam hơi cao hơn nữ(4). Bảng 1: Tỷ lệ và mức độ mòn răng theo giới BEWE Nam Nữ n % n % 0 34 31,8 59 30,4 1 28 26,2 47 24,2 2 29 27,1 57 29,4 3 16 14,9 31 15,9 KẾT LUẬN Ghi nhận tình trạng mòn ngót răng do acid ở 69% cá thể trong nhóm khảo sát cho thấy đây là một tình trạng khá phổ biến trong mẫu khảo sát . Không có sự khác biệt giữa nam và nữ về tỷ lệ cũng như mức độ mòn ngót. Mòn ngót gặp ở đủ các mặt răng: mặt nhai, mặt má, mặt lưỡi. Vị trí hay gặp mòn ngót nhất là mặt nhai răng cối lớn, kế đến là mặt ngoài răng cửa hàm trên. Vị trí ghi nhận tổn thương nặng nhất (BEWE 3) thường ở mặt nhai răng cối lớn thứ 1. Đa số các tổn thương mòn ngót ở răng cửa đều ở mức độ nhẹ (BEWE 1). Các kết quả bước đầu cho mòn ngót răng không phải là tình trạng hiếm gặp ở mẫu nghiên cứu, có nguy cơ ảnh hưởng sức khoẻ răng miệng. Đây chỉ là một nghiên cứu khảo sát bước đầu, cần có các nghiên cứu tiếp tục trên trên nhiều phương diện trong lãnh vực này. Đồng thời hy vọng các số liệu ban đầu này sẽ tạo được sự quan tâm của giới chuyên môn, hướng tới duy trì và gia tăng sức khoẻ răng miệng cho cộng đồng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bardlett D, Ganss C, Lussi A (2008). Basic erosive wear examination (BEWE): a new scoring system for scientific and clinical needs. Clin Oral Invest, 12(Suppl 1):S65–S68. 2. El Aidi H, Bronkhorst EM, Truin GJ (2008). A longitudinal study of tooth erosion in adolescents. J Dent Res, 7: 731-735. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 180 3. Ganss C, Klimek J, Giese K (2001). Dental erosion in children and adolescents-a cross-sectional and longitudinal investigation using study models. Community Dent Oral Epidemiol; 29: 264-271. 4. Jaeggi T, Lussi A (2014). Prevalence, incidence and distribution of erosion. In: Lussi A. Erosive Tooth Wear, Monogr Oral Sci., vol 25, 55-73. Karger, Basel. 5. Lussi A (2014). Erosive Tooth Wear – A Multifactorial Condition of Growing Concern and Increasing Knowledge. In: Lussi A, Erosive Tooth Wear, Monogr Oral Sci. vol 25, 1–8. Karger, Basel . 6. Manaf ZA et al (2012). Relationship between food habits and tooth erosion occurrence in Malaysian University students. Malays J Med Sci. 2012, Apr 19(2):56-66. 7. Mulic A (2012). On dental erosive wear among different groups in Norway. Doctoral thesis, 10-13. The Faculty of Dentistry, University of Oslo, Norway. 8. Rodriguez JM, Austin RS, Bartlett DW (2012). In vivo measurements of tooth wear over 12 months. Caries Res; 46: 9-15. Ngày nhận bài báo: 14/02/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/02/2015 Người phản biện: TS Ngô Đồng Khanh Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfty_le_va_muc_do_tram_trong_cua_tinh_trang_mon_ngot_rang_o_mo.pdf
Tài liệu liên quan