Nhìn chung, để đưa tế bào gốc vào đôi tượng nghiên
cứu có 2 con đường tuỳ theo cơ chế hoạt động của tế
bào gốc:
+ Đưa thẳng tế bào gốc ( có thể là tế bào tiền thần kinh,
hoặc nguyên bào sợi thần kinh biệt hoá từ tế bào gốc) hoặc
các trường hợp chất tăng trưởng từ tế bào gốc vào vùng
tổn thương. Lúc này tế bào gốc hoạt động theo hướng tái
tao/thay thế, biệt hoá thành tế bào thần kinh mới hoặc tế
bào đệm thần kinh.
+ Đưa tế bào gốc bằng đường gián tiếp: Truyền tĩnh
mạch hoặc tiêm vào vùng L2 (khoang dưới nhện). Các tế
bào hiện diện sẽ hoạt động theo hướng cảm ứng/hỗ trợ.
Tế bào gốc lưu thông, hạn chế tối đa sự chết theo chu kỳ
và hạn chế cả phản ứng viêm đã được chứng minh có hại
cho mô tuỷ. Các tế bào này khi hiện diện sẽ tiết ra yếu tố
tăng trưởng, đồng thời cũng tiết ra các tín hiệu huy động
các yếu tố tăng trưởng cần thiết trong cơ thể vật chủ, kích
thích việc hình thành mạch máu và tế bào thần kinh mới.
Theo một số ý kiến hiện nay, các nhà khoa học cho rằng
cảm ứng hỗ trợ này có thể là hướng chính và hiệu quả hơn
hẳn, vì theo đó, tế bào gốc khi được đưa vào cơ thể, một
mặt biệt hoá thành tế bào thần kinh mới, một mặt tạo điều
kiện để cơ thể vật chủ tự hồi phục.
Tại Việt Nam gần đây có nhiều nghiên cứu ứng dụng
tế bào gốc trong điều trị, nhưng trong ngành chấn thương
chỉnh hình nói chung cũng như trong điều trị chấn thương
cột sống liệt tủy nói riêng còn hạn chế. Cao Thỉ (2009) đã
báo cáo ghép tủy xương để điều trị gãy hở hai xương cẳng
chân, Nguyễn Mạnh Khánh (2010) báo cáo ứng dụng tế
bào gốc điều trị chậm liền xương, khớp giả thân xương
chày[5].
Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật,
đặc biệt là sự phát triển công nghê tế bào gốc đã mở ra
những hy vọng mới cho các bệnh nhân. Ngày nay liệu
pháp tế bào gốc ( Stem cell therapy) được ứng dụng ngày
càng nhiều trong các chuyên khoa, đặc biệt là chuyên khoa
thần kinh và cột sống. Tế bào gốc có thể lấy ở rất nhiều
nơi, song mỗi nơi có ưu nhược điểm khác nhau. Nhưng
tế bào gốc mô mỡ là ưu điểm hơn do: dễ dàng thực hiện,
bệnh nhân không đau, lượng tế bào gốc thu được với số
lượng lớn, dễ nuôi cấy.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng ghép tế bào gốc trung mô nguồn gốc mô mỡ tự thân - Điều trị chấn thương cột sống liệt tủy cấp tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Phản biện khoa học: TS. Ngô Minh Lý
ỨNG dụNG GHÉP TẾ BÀO GốC TRuNG MÔ NGuỒN
GốC MÔ Mỡ TỰ THÂN - đIều TRỊ CHẤN THƯƠNG CỘT
sốNG LIỆT TỦY CẤP TÍNH
I. ĐặT VấN Đề
Chấn thương cột sống (CTCS) gây nên những thương
tổn của xương, dây chằng, đĩa đệm cột sống, tổn thương
thần kinh tạm thời hoặc vĩnh viễn cho bệnh nhân. Các tổn
thương thần kinh bao gồm liệt vận động, cảm giác, rối loạn
cơ tròn (liệt tứ chi, liệt hai chân, đại tiểu tiện không tự chủ,
liệt cơ hô hấp) là những hậu quả rất phổ biến và nặng nề
thường thấy trên lâm sàng. Liệt tủy hoàn toàn thường xảy
ra khi tổn thương nằm trên nón tủy, trên lâm sàng được
biểu hiện mất hoàn toàn vận động và cảm giác dưới mức
tủy tổn thương bao gồm cả cảm giác quanh hậu môn.[10].
Hàng năm có khoảng 40 ca CTCS mới trong một triệu
dân hoặc tổng số có khoảng 12000 ca CTCS tại Mỹ. Bệnh
nhân nam giới chiếm đa số với tỷ lệ khoảng 77%, tuổi
trung bình của bệnh nhân trong ba thập kỷ gần đây khoảng
từ 28,7 đến 39,5 tuổi với nguyên nhân chính là tai nạn giao
Nguyễn Đình Hoà,
Nguyễn Văn Thạch
Khoa Phẫu thuật cột
sống, BV Việt Đức
Email: dinhhoaykhoa@
yahoo.com
Ngày nhận: 15 - 8 - 2014
Ngày phản biện: 20 - 9 -2014
Ngày in: 08 - 10 - 2014
Nguyen Dinh Hoa,
Nguyen Van Thach
TREATMENT OF sPINAL CORd INJuRY WITH AdIPOsE CuLTuREd
AuTOLOGOus MEsENCHYMAL sTEM CELLs
AbstrAct
Tóm TắT
Spinal cord injury (SCI) is a devastating condition producing great personal and societal
costs and for which there is no effective treatment. Nowadays we only can operate for the
patients with fixasion and decompression. Recovery neuron function al so difficult. Stem
cell transplantation is a promising therapeutic strategy, though much preclinical and
clinical research work remains. Stem cell included so many kind from adult, for example:
human embryonic, bone marrow and adipose stem cell. Research in stem cell biology
and cell reprogramming is rapidly advancing, with the hope of moving stem cell therapy
closer to helping people with SCI.
We report 20 case who used adipose stem cell for application SCI. The new method
we can help the patients who suffer from SCI. New hope who can recovery functional
nerology.
Keywords: Complete spinal cord injury, adipose derived stem cell autologus
Chaán thöông coät soáng laø söï phaù huûy caáu truùc giaûi phaãu, hieän taïi phaûi chi phí raát lôùn cuûa
caù nhaân vaø xaõ hoäi nhöng keát quaû ñieàu trò coøn haïn cheá veà khaû naêng hoài phuïc tuûy. Ngaøy
nay, phöông phaùp ñieàu trò kinh ñieån laø coá ñònh giaûi eùp vaø gheùp xöông, nhöng khaû naêng
hoài phuïc thaàn kinh vaãn laø raát thaáp. Gaàn ñaây vieäc öùng duïng gheùp teá baøo goác laø moät giaûi
phaùp mang nhieàu höùa heïn. Ñaõ coù nhieàu thöû nghieäm tieàn laâm saøng vaø laâm saøng thu
ñöôïc keát quaû khaû quan. Teá baøo goác coù theå thu taùch töø maùu cuoáng roán, tuûy xöông vaø moâ
môõCaùc nghieân cöùu veà chöùc naêng sinh lyù cuûa teá baøo goác ngaøy caøng coù tieán boä vöôït
baäc. ÖÙng duïng gheùp teá baøo goác trong chaán thöông coät soáng lieät tuûy laø moät giaûi phaùp
mang nhieàu höùa heïn nhaát.
Chuùng toâi tieán haønh öùng duïng gheùp teá baøo goác cho 20 tröôøng hôïp ASIA-A baèng teá baøo
goác moâ môõ. Ñaùnh giaù keát quaû ban ñaàu cuûa phöông phaùp öùng duïng mang laïi hy voïng
cho nhöõng beänh nhaân chaán thöông coät soáng lieät tuûy.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
2
thông và ngã cao. Tổn thương đụng dập tủy chiếm
70%. [9], [10]. Tại Việt Nam, CTCS gặp chủ yếu do
tai nạn lao động và tai nạn giao thông với độ tuổi
trung bình khoảng 35-40 có thể chiếm đến 80%, đây
là lực lượng lao động chính của xã hội. [3],[8]
Bệnh nhân CTCS không liệt hoặc liệt tủy không
hoàn toàn, sau khi điều trị theo đúng phác đồ có thể
phục hồi, trở về cuộc sống thường ngày, lao động
sản xuất ra vật chất cho bản thân, gia đình và xã hội.
Tuy nhiên, khi bị liệt tủy hoàn toàn, ngoài vấn đề mất
sức lao động sau chấn thương, phụ thuộc vào người
chăm sóc, bệnh nhân còn phải được điều trị các biến
chứng như loét tỳ đè, nhiễm trùng tiết niệu, viêm tắc
tĩnh mạch chi Đây không chỉ nâng giá thành điều
trị lên rất nhiều lần mà còn là một sang chấn tinh thần
nặng nề cho bệnh nhân và gia đình, nhiều trường hợp
không thể tiếp tục điều trị do bản thân bệnh nhân từ
chối.[3],[5].
Trong vài năm trở lại đây, những nghiên cứu về
ứng dụng tế bào gốc (TBG) trong điều trị bệnh đã thu
hút được sự quan tâm rất lớn trong giới y học trong
và ngoài nước. Nhiều bệnh lý thuộc nhiều chuyên
nghành khác nhau đã được điều trị bằng TBG với
kết quả rất khả quan, trong đó có bệnh chấn thương
cột sống. Với đặc tính có khả năng tự tái tạo và biệt
hóa thành những tế bào chuyên biệt, đa dòng trong
những điều kiện nhất định như tế bào cơ, xương,
sụn, da, tế bào thần kinhTBG được xem như là
nguồn “nguyên liệu” dự trữ, giúp cơ thể sửa chữa,
tái tạo, thay thế những mô, tổ chức bị tổn thương
[4],[8],[10].
II. ĐốI TƯợNG Và PHƯơNG PHáP
NGHIêN CỨU
Gồm 40 được lựa chọn theo các tiêu chuẩn
nghiên cứu chia làm hai nhóm theo tỷ lệ 1:1 , tất
cả được làm xét nghiệm trước khi cấy ghép. Bệnh
nhân được phẫu thuật theo phương pháp kinh điển cố
định cột sống giải ép, ghép xương và được ứng dụng
ghép tế bào gốc trực tiếp vào vùng tổn thương theo
các quy trình chuẩn với số lượng tế bào 4x106 MSCs
tiêm ở 4 vị trí trên tổn thương, giữa tổn thương, dưới
tổn thương và dưới màng cứng. Sau 1 tháng bệnh
nhân sẽ được tiêm MSCs nhắc lại lần 2 số lượng
2-3x107 vào vùng dưới màng cứng ngang mức L2.
Sau 2 tuần bệnh nhân được tiêm lại mũi 3 dưới màng
cứng ngang mức L2 số lượng 2-3x107 MSCs. Sau 45
ngày bệnh nhân sẽ được truyền tĩnh mạch mũi 4 số
lượng 80-120x106 MSCs. Đánh giá kết quả 3 tháng
và 6 tháng bằng thang điểm ASIA, SF36, Barthex,
MRI. EMG(electromyography).
III. KếT QUẢ NGHIêN CỨU
3.1. Kết quả chung
3.1.1.Giới
Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ giới
Nhận xét: Trong số bệnh nhân được nghiên cứu,
tỷ lệ nam/ nữ là 5.67 Trong đó bệnh nhân nam là
34 bệnh nhân chiếm 85% nữ là 6 bệnh nhân chiếm
15%.
3.1.2 Tuổi
Tuổi trung bình của các bệnh nhân nghiên cứu là:
37,75 ± 5.67 Bệnh nhân trẻ nhất là: 17 và bệnh nhân
già nhất là 59. Tỷ lệ tuổi từ 31-40 là cao nhất chiếm
37,5%
Phần 1: Phẫu thuật cột sống
3
Biểu đồ 3.2. Phân bố theo nhóm tuổi
3.1.3. Nghề nghiệp
Bảng 3.1 : Mối liên quan giữa bệnh và nghề nghiệp.
Ngheà nghieäp N Tyû leä (%)
Ngheà coù nguy cô cao 38 95%
Ngheà coù nguy cô thaáp 2 5%
Toång 40 100%
Trong nhóm nghiên cứu các bệnh nhân có nghề nghiệp
nguy cơ cao dễ dẫn tới tai nạn chấn thương cột sống như:
công nhân, xây dựng... chiếm tỷ lệ cao 95%. Trong khi đó
nghề có nguy cơ thấp như giáo viên, công chức.. chiếm
5%
3.1.4. Dư địa lý
Bảng 3.2 : Mối liên quan giữa bệnh và nghề nghiệp.
Ñòa lyù N Tyû leä (%)
Noâng thoân 30 70%
Thaønh thò 10 30%
Toång 40 100
Có 70% bệnh nhân thuộc vùng nông thôn ven đô thị,
30% bệnh nhân thuộc thành thị.
3.2. Kết quả điều trị
3.2.1. Đánh giá kết quả trên cộng hưởng từ
Bảng 3.3. Đánh giá kết quả trên MRI trong nhóm điều
trị theo thời gian
L (mm) R (mm) MCC (%) MSCC (%)
Tröôùc tieâm
(n=20)
68.25 ±
4.849
5.075 ±
0.422
36.17 ±
3.976
44.06 ±
3.728
3 thaùng sau
MT1 (n=20)
54.05 ±
3.998
6.9 ±
0.351
24.895 ±
2.820
22.51 ±
2.319
P
P=0.0299
<0.05
P=0.002
<0.05
P=0.0269
<0.05
P=0.0000
<0.05
Trong nhóm điều trị, quan sát kết quả chụp MRI cho
thấy, Chiều dài tổn thương giảm nhiều, chiều rộng ống
sống mở rộng hơn nhiều tại thời điểm 3 tháng sau tiêm
MT1 so với trước khi điều trị. Kết quả MCC và MSCC
tại thời điểm 3 tháng sau tiêm MT1 cũng nhỏ hơn nhiều
so với trước khi điều trị. Kết quả này phù hợp với kết quả
phục hồi chiều rộng ống sống.
Theo thời gian sự khác biệt của các biến này đều có ý
nghĩa. Sự khác biệt này cho thấy sự hồi phục đáng kể về
cấu trúc cột sống, tủy sống theo thời gian. Sự phục hồi này
có thể do điều kiện phẫu thuật, thời gian hoặc do yếu tố
can thiệp TBG.
Bảng 3.4. Đánh giá kết quả 6 tháng sau cấy ghép
L (mm) R (mm) MCC (%) MSCC (%)
Ñoái chöùng
(n=10)
61.2 ±
4.885
4.7 ±
0.559
28.35 ±
6.041
32.79 ±
4.915
Ñieàu trò
(n=10)
42.6 ±
5.173
8.05 ±
0.456
13.73 ±
1.719
11.76 ±
1.868
P
P=0.0176
<0.05
P=0.0002
<0.05
P=0.0412
<0.05
P=0.0019
<0.05
So sánh kết quả MRI của 2 nhóm đối chứng và điều trị tại
cùng thời điểm quan sát, 6 tháng sau tiêm, kết quả cho thấy:
Chiều dài tổn thương nhóm điều trị (42.6 ± 5.173) thấp
hơn nhiều so với nhóm đối chứng (61.2 ± 4.885). Chiều
rộng ống sống nhóm điều trị (8.05 ± 0.456) so với nhóm
đối chứng (4.7 ± 0.559). MCC, MSCC nhóm điều trị đồng
thời thấp hơn so với nhóm đối chứng, phù hợp với tương
quan thuận với chiều rộng ống sống. Sự khác biệt của các
biến tương ứng ở hai nhóm có ý nghĩa thống kê. Điều này
có thể khẳng định sự phục hồi về cấu trúc cột sống, tủy
sống liên quan đến yếu tố TBG cấy ghép.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
4
Bảng 3.5. Đánh giá kết quả trên đo chức năng
bàng quang
n Trung bình ± Ñoä leäch chuaån P
Treatment 10 0.4 ± 0.221
P=0.0001<0.05
Control 10 2.3 ± 0.300
Số cơn co bóp không tự chủ của nhóm điều trị là
0.4 ± 0.221 thấp hơn nhiều so với đối chứng là 2.3
± 0.300. Và sự khác biệt này là có nghĩa. Điều này
khẳng định hiệu quả của phương pháp điều trị.
Bảng 3.6 Đánh giá kết quả đo chức năng bàng quang qua thời gian
Pdetmax VH2Omax D
3 thaùng sau MT1 54.78 ± 6.309 395.89 ± 46.407 23.06 ± 5.14
6 thaùng sau MT1 61.7 ± 10.157 338.3 ± 58.643 17.81 ± 6.01
P >0.05 >0.05 >0.05
Mặc dù số cơn co bóp không tự chủ ở hai giai
đoạn 3 tháng và 6 tháng có sự cải thiện đáng kể, tuy
nhiên, Pdetmax, VH2Omax và D có sự cải thiện nhỏ
nhưng không đáng kể. Điều này có thể giải thích là
do khâu chăm sóc BQ của bệnh nhân trong và sau
điều trị không tốt
Dựa trên tương quan giữa Pdetmax, VH2max và
D với , nếu sức chứa tối đa tăng duy trì mức >300
cm H2O, áp lực tối đa BQ giảm dần về giá trị 15-40
cm H2O, độ giản nở BQ tăng. Điều này liên quan
mật thiết đến việc tập luyện duy trì thể tích nước tiểu
trong BQ, làm sạch nước tiểu BQ, chống rỉ tiều... Để
có được kết quả này, bệnh nhân cần được chăm sóc
BQ tốt và tham gia tập luyện phục hồi chức năng.
Thêm vào đó, sức chứa BQ tối đa ở 2 thời điểm
quan sát 3 tháng và 6 tháng sau MT1 điều lớn hơn
300cmH2O. Mặc dù VH2Omax ở thời điểm 6 tháng
thấp hơn thời điểm 3 tháng, tuy nhiên sự khác biệt
này là không có ý nghĩa. Điều này càng khẳng định
chắc chắn hiệu quả của phương pháp điều trị này.
Bảng 3.7. Đánh giá kết quả qua các thang điểm chất lượng cuộc sống.
Tröôùc tieâm 1 thaùng sau MT1 2 thaùng sau MT1 3 thaùng sau MT1
Chæ soá theo doõi n Tæ leä %/Score n Tæ leä %/Score n Tæ leä %/Score n Tæ leä %/Score
SF36 20 26.26 ± 7.936 20
34.675 ±
11.847
20
44.8 ±
14.682
20
56.35 ±
14.951
Ñaùnh giaù
CLCS
TB keùm TB keùm TB keùm Khaù
P<0.05
20 77 ± 7.497 20 70.9 ± 8.271 20 63.4 ± 8.003 20 55.8 ± 8.05
Owestry Nhieàu Nhieàu Vöøa Vöøa
P<0.05
Tæ leä maát chöùc
naêng CSTL
20 3.95 ± 1.191 20 5.1 ± 1.586 20 6.25 ± 1.997 20 7.05 ± 2.212
Barthex ADL P0.05
IV. BàN LUẬN:
Mặc dù, theo kinh điển tổn thương mô thần kinh:
sọ não, tủy sống thì khả năng tái tạo là rất khó. Tuy
nhiên, gần đây các thử nghiệm lâm sàng, các nghiên
cứu về y học tái tạo mô thần kinh trung ương với
các bệnh lý như: Parkinson, thiếu máu não và chấn
thương cột sống. Chấn thương cột sống điều trị gồm
phẫu thuật và sử dụng Steroid liều cao đã thu được
Phần 1: Phẫu thuật cột sống
5
kết quả làm giảm tổn thương thứ phát mô tủy. Tuy nhiên,
hiệu quả của điều trị Steroid liều cao là một chủ đề còn
tranh luận. Việc ứng dụng y sinh học trong điều trị chấn
thương cột sống bao gồm việc sử dụng các yếu tố tái tạo
thần kinh của các dòng tế bào gốc hoặc cấy ghép tế bào
gốc đang dần trở thành một xu thế để tái tạo được mô thần
kinh. [7].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng ghép tự thân
để tránh được vấn đề liên quan tới thải ghép và đặc biệt
nguồn tế bào gốc từ mô mỡ có nhiều thuận lợi hơn từ các
nguồn khác. Thứ nhất là rất dễ lấy với kỹ thuật gây tê tại
chỗ, dễ nuôi cấy để đạt thời gian kịp thời cấy vùng tổn
thương. Thứ hai là liệu pháp tế bào không tạo ra tế bào ung
thư. Thứ ba tế bào gốc nguồn từ mô mỡ đã được chứng
minh tạo ra rất nhiều tế bào mô khác nhau, trong đó có tế
bào thần kinh hoặc tế bào thần kinh đệm. Ngoài ra, nhiều
nghiên cứu đã chứng minh tính an toàn khi ứng dụng trên
người. [8].
Tại Mỹ, chi phí cho bệnh nhân CTCS hàng năm lên
đến 10 tỷ đô la Mỹ, chưa bao gồm chi phí điều trị loét tỳ
đè, một biến chứng hay gặp nhất của CTCS liệt tủy hoàn
toàn, có thể thêm hàng tỷ đô la Mỹ mỗi năm. [10].
Để có thể đưa các nghiên cứu về tế bào gốc và thực tiễn
ứng dụng, thông thường cần phải theo các trình tự sau:
Nuôi cấy, biệt hoá tế bào gốc thành tế bào thần kinh
trong phòng thí nghiệm, bước này có thể tiến hành song
song với các nghiên cứu cơ chế hình thành tế bào thần
kinh từ tế bào gốc và các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình
này.
Tiếp theo sau, các sản phẩm thí nhiệm có thể được thử
nghiệm trên mô hình động vật để chứng minh hiệu quả
của quá trình cấy ghép, xác định liều lượng tế bào cần thiết
cho qúa trình điều trị, tối ưu hoá mức độ hồi phục các phản
ứng của cơ thể sau khi cấy ghép.
Sau khi chứng minh tính an toàn và hiệu quả của
phương pháp điều trị bằng tế bào gốc thì các thử nghiệm
lâm sàng trên người sẽ được tiến hành theo 4 giai đoạn,
tăng dần theo số lượng
Tế bào gốc từ các nguồn khác nhau như tế bào gốc
phôi, tế bào gốc thần kinh từ thai, từ máu dây rốn, tuỷ
xương, mô mỡđều đã được thử nghiệm trong mô hình
điều trị chấn thương cột sống. Các thử nghiệm trên bệnh
nhân về tính an toàn và tính khả thi của liệu pháp tế bào
gốc đã được tiến hành.
Cho đến nay việc tiến hành nghiên cứu trên động
vật rất phổ biến và thu được kết quả khả quan. Các
nhà khoa học đã sử dụng chuột, thỏ, linh trưởng làm
đối tượng nghiên cứu tác dụng của tế bào gốc trong
điều trị. Thông thường mô hình động vật thí nghiệm bị
chấn thương cột sống bằng cách kẹp tuỷ sống, cắt đứt
tuỷ sống.
Nhìn chung, để đưa tế bào gốc vào đôi tượng nghiên
cứu có 2 con đường tuỳ theo cơ chế hoạt động của tế
bào gốc:
+ Đưa thẳng tế bào gốc ( có thể là tế bào tiền thần kinh,
hoặc nguyên bào sợi thần kinh biệt hoá từ tế bào gốc) hoặc
các trường hợp chất tăng trưởng từ tế bào gốc vào vùng
tổn thương. Lúc này tế bào gốc hoạt động theo hướng tái
tao/thay thế, biệt hoá thành tế bào thần kinh mới hoặc tế
bào đệm thần kinh.
+ Đưa tế bào gốc bằng đường gián tiếp: Truyền tĩnh
mạch hoặc tiêm vào vùng L2 (khoang dưới nhện). Các tế
bào hiện diện sẽ hoạt động theo hướng cảm ứng/hỗ trợ.
Tế bào gốc lưu thông, hạn chế tối đa sự chết theo chu kỳ
và hạn chế cả phản ứng viêm đã được chứng minh có hại
cho mô tuỷ. Các tế bào này khi hiện diện sẽ tiết ra yếu tố
tăng trưởng, đồng thời cũng tiết ra các tín hiệu huy động
các yếu tố tăng trưởng cần thiết trong cơ thể vật chủ, kích
thích việc hình thành mạch máu và tế bào thần kinh mới.
Theo một số ý kiến hiện nay, các nhà khoa học cho rằng
cảm ứng hỗ trợ này có thể là hướng chính và hiệu quả hơn
hẳn, vì theo đó, tế bào gốc khi được đưa vào cơ thể, một
mặt biệt hoá thành tế bào thần kinh mới, một mặt tạo điều
kiện để cơ thể vật chủ tự hồi phục.
Tại Việt Nam gần đây có nhiều nghiên cứu ứng dụng
tế bào gốc trong điều trị, nhưng trong ngành chấn thương
chỉnh hình nói chung cũng như trong điều trị chấn thương
cột sống liệt tủy nói riêng còn hạn chế. Cao Thỉ (2009) đã
báo cáo ghép tủy xương để điều trị gãy hở hai xương cẳng
chân, Nguyễn Mạnh Khánh (2010) báo cáo ứng dụng tế
bào gốc điều trị chậm liền xương, khớp giả thân xương
chày[5].
Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật,
đặc biệt là sự phát triển công nghê tế bào gốc đã mở ra
những hy vọng mới cho các bệnh nhân. Ngày nay liệu
pháp tế bào gốc ( Stem cell therapy) được ứng dụng ngày
càng nhiều trong các chuyên khoa, đặc biệt là chuyên khoa
thần kinh và cột sống. Tế bào gốc có thể lấy ở rất nhiều
nơi, song mỗi nơi có ưu nhược điểm khác nhau. Nhưng
tế bào gốc mô mỡ là ưu điểm hơn do: dễ dàng thực hiện,
bệnh nhân không đau, lượng tế bào gốc thu được với số
lượng lớn, dễ nuôi cấy.
V. KếT LUẬN:
Ứng dụng ghép tế bào gốc mô mỡ tự thân trong điều trị
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
6
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Văn Thạch (2007): “Nghiên cứu điều trị phẫu
thuật gãy cột sống ngực – thắt lưng không vững, không
liệt và liệt tủy không hoàn toàn bằng dụng cụ Moss
Miami”. Luận án tiến sỹ Y học.
2. Nguyễn Lê Bảo Tiến (2004): “Nghiên cứu kết quả phẫu
thuật chấn thương cột sống lưng – thắt lưng bằng vít
qua cuống với dụng cụ Moss Miami tại bệnh viện Việt
đức”. Luận văn tốt nghiệp bác sỹ nội trú các bênh viện.
3. Nguyễn Quang Tùng (2011): “Nghiên cứu ứng dụng
và hoàn thiện quy trình thu gom, xử lý, bảo quản tế bào
gốc tạo máu dùng cho ghép đồng loại”. Luận án tiến sỹ
Y học.
4. Trần Văn Bé (1995): “Chuyên đề nghiên cứu và ứng
dụng tế bào gốc ở Việt Nam: Ca ghép tủy đầu tiên ở
Việt Nam”. Tạp trí y dược học.
5. Nguyễn Thị Thu Hà (2004), "Tế bào gốc và ứng dụng
trong y sinh học", TCNCYH phụ bản 32(6): tr. 13-26.
6. Park HS, Park HC, Shim YS et al (2005): “Treatment
of complete spinal cord injury patients by autologous
bone marrow cell transplantation and administration
of granulocyte-macrophage colony stimulating factor”.
TISSUE ENG; 11:913–922
7. Saito F, Nakatani T, Iwase M et al (2008): “Spinal
cord injury treatment with intrathecal autologous bone
marrow stromal cell transplantation: The first clinical
trial case report”. J TRAUMA; 64:53–59.
8. Yoon SH, Shim YS, Park YH et al (2007): “Complete
spinal cord injury treat- ment using autologous bone
marrow cell transplantation and bone marrow stimulation
with granulocyte macrophage-colony stimulating factor:
phase I/II clinical train”. STEM CELLS ;25:2066–2073.
9. Lammertse DP, Jones LAT et la (2012) “Autologous
incubated macrophage therapy in acute, complete spine
cord injury: results of the phase 2 randomized controlled
multicenter trial.”. SPINAL CORD: 50, 661-671.
10. Sang Han Kim et la (2013). “Autologous Adipose
Dirived MSCs Trasplantation in Patient With Spinal
Cord Injury” Clinical trial study.
chấn thương cột sống liệt tuỷ hoàn toàn. Là phương
pháp ứng dụng mới trong điều trị chấn thương cột
sống. Mang đến niềm hy vọng mới cho bệnh nhân
và người nhà. Cần phải đánh giá thêm về tính an toàn
và hiệu quả của phương pháp. Nhưng đây cũng là
một giải pháp triển vọng cho người bệnh chấn thương
cột sống liệt tuỷ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ung_dung_ghep_te_bao_goc_trung_mo_nguon_goc_mo_mo_tu_than_di.pdf