- Với việc thực hiện nhiệm vụ của
cơ quan Nhà nước chuyên trách trong
lĩnh vực tố tụng, có tính chuyên nghiệp
cao thông qua bộ máy và cán bộ chuyên
môn trong hệ thống cơ quan VKS được
tổ chức chặt chẽ, VKS có điều kiện hơn
và có ưu thế hơn các mô hình khác trong
việc khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích
hợp pháp cá nhân, công dân. Không phải
ngẫu nhiên mà trước đây pháp luật các
nước đều quy định dành cho Viện công
tố (Viện kiểm sát) thực hiện thẩm quyền
này. Trong xã hội dân chủ cần đa dạng
hoá các kênh, các hình thức bảo vệ lợi ích
Nhà nước, lợi ích tổ chức và công dân
bằng con đường Toà án nhưng không
loại trừ khả năng bảo vệ của VKS trong
lĩnh vực này. Các hình thức bảo vệ khác
nhau cần phải được phát triển song song
mà không phủ nhận lẫn nhau. Như vậy,
cần phải bổ sung quy định VKS là người
đứng đơn khởi kiện (khởi tố) vụ án hành
chính nhân danh lợi ích nhà nước, lợi ích
công cộng, lợi ích của cá nhân không có
khả năng tự thực hiện quyền dân sự hoặc
không thể tự bảo vệ mình.
Do vậy, khoản 3 Điều 25 Luật TTHC
năm 2015 nên sửa thành:“Đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính liên
quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi, nếu họ không có người khởi kiện
thì VKS có quyền khởi kiện vụ án hành
chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho người đó và có trách nhiệm cung cấp
chứng cứ”.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hành chính của viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
57Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
Vai trò bảo vệ QCN, QCD trong tố tụng hành chính của VKSND được thể hiện qua việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong tố
tụng hành chính, mà cụ thể chính là công
tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành
chính của VKSND. Trên cơ sở cụ thể hóa
quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật
tổ chức VKSND năm 2014 về chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp và nhiệm vụ
hiến định bảo vệ QCN, QCD của VKSND,
theo đó, hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hành chính của
VKSND được xác định từ khi Tòa án thụ lý
vụ đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án.
1. Vai trò bảo vệ quyền con người,
quyền công dân trong tố tụng hành
chính của VKSND theo Luật tố tụng
hành chính năm 2015
Bảo vệ QCN, QCD trong tố tụng hành
chính của VKSND được thể hiện thông qua
chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hành chính của
VKSND. Trên cơ sở Luật TTHC năm 2015
quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên trong việc bảo vệ QCN, QCD
trong tố tụng hành chính của VKSND thể
hiện qua những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, bảo vệ QCN, QCD thông qua
hoạt động kiểm sát thụ lý vụ án hoặc kiểm sát
trả lại đơn khởi kiện
* Thạc sĩ, Khoa Nhà nước và Pháp luật, Trường Đại
học Kiểm sát Hà Nội
VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LÊ NGỌC DUY *
Trên cơ sở Luật tố tụng hành chính (TTHC) năm 2015, bài viết tập trung
phân tích, làm rõ vai trò bảo vệ quyền con người, quyền công dân (QCN,
QCD) trong tố tụng hành chính của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Từ đó,
đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về vai trò bảo vệ QCN,
QCD trong tố tụng hành chính của VKSND.
Từ khóa: Bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tố tụng hành chính,
Viện Kiểm sát nhân dân.
On the foundation of the Administrative Procedure Code of 2015,
the paper finds its interest in analyzing and clarifying the role of the
People’s Procuracies on protecting human rights and citizen rights in the
administrative proceedings. Finally, it proposes some supplements and
amendments for the regulations on the role of the People’s Procuracies
on protecting the human rights and citizen rights in the administrative
proceedings.
Keywords: Protecting human rights, citizen rights, administrative
proceedings, the People’s Procuracies.
VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN...
58 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
Theo Điều 124 Luật TTHC năm
2015, để bảo đảm quyền khởi kiện của
cá nhân, công dân, khi nhận được văn
bản trả lại đơn khởi kiện do Tòa án gửi
thì Kiểm sát viên (KSV) được phân công
kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện phải
thực hiện hoạt động kiểm sát căn cứ trả
lại đơn. Trường hợp Tòa án trả lại đơn
khởi kiện không đúng pháp luật thì KSV
báo cáo với Viện trưởng VKS để thực
hiện quyền kiến nghị với Chánh án đã
trả lại đã trả lại đơn khởi kiện, Tòa án
phải xem xét, giải quyết kiến nghị đó
(thông qua phiên họp) có sự tham gia
của VKS cùng cấp. Nếu Chánh án Tòa
án cùng cấp ra quyết định giữ nguyên
việc trả lại đơn khởi kiện mà VKS cùng
cấp vẫn không đồng ý thì có quyền kiến
nghị với Chánh án Tòa án cấp trên trực
tiếp xem xét, giải quyết. Ngoài ra, trường
hợp người khởi kiện khiếu nại về việc
trả lại đơn khởi kiện, Thẩm phán được
phân công giải quyết khiếu nại phải mở
phiên họp giải quyết với sự tham gia
của VKS cùng cấp và người khiếu nại.
Theo đó, Viện trưởng phân công Kiểm
sát viên tham gia phiên họp xem xét,
giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc
trả lại đơn khởi kiện của Tòa án theo quy
định tại khoản 3 Điều 124 Luật TTHC và
hướng dẫn tại Điều 26 Thông tư liên tịch
số 03/2016(1). Do vậy, việc pháp luật tố
tụng hành chính ghi nhận sự có mặt của
VKS tại phiên họp giải quyết khiếu nại,
kiến nghị và phát biểu ý kiến về việc trả
lại đơn khởi kiện cho thấy vai trò, trách
nhiệm của VKS trong việc bảo đảm sự
tuân thủ pháp luật của các chủ thể; đồng
1 Khoản 1 Điều 9 Quyết định số 282/QĐ - VKSTC
về việc ban hành quy chế công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án hành chính của Viện trưởng VKSND
tối cao.
thời, việc thực hiện quyền kiến nghị (ở
hai cấp xét xử của Tòa án) để yêu cầu
Tòa án xem xét lại việc trả lại đơn khởi
kiện cũng là điều kiện bảo đảm hiệu quả
hoạt động kiểm sát trả lại đơn khởi kiện
của cá nhân, công dân trước khả năng vi
phạm quyền của họ từ phía Tòa án.
Đối với việc thụ lý vụ án hành
chính, hoạt động kiểm sát của VKS góp
phần bảo đảm hoạt động thụ lý của
Tòa án đúng quy định của pháp luật,
là hoạt động tố tụng đầu tiên, là cơ sở
phát sinh các quyền và nghĩa vụ tố tụng
của cá nhân, công dân trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính. Do đó, khi
nhận được thông báo thụ lý do Tòa án
gửi, Viện trưởng VKSND tổ chức chỉ đạo
thực hiện công tác kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hành chính,
như phân công KSV, KTV tiến hành hoạt
động tố tụng đối với vụ án, thông báo
cho Tòa án biết. Trên cơ sở đó, KSV tiến
hành các hoạt động kiểm sát theo quy
định như kiểm tra tính hợp pháp của
việc khởi kiện, xác định vụ việc có thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nội
dung và hình thức của thông báo thụ
lý, thời hạn gửi thông báo cho VKS có
đúng quy định pháp luật, việc thu thập
chứng cứ và lập hồ sơ vụ án hành chính
của Tòa án. Khi nghiên cứu hồ sơ, KSV
phải đánh gia tính khách quan, tính hợp
pháp, có căn cứ của các tài liệu, chứng
cứ do các bên đương sự cung cấp hoặc
do Tòa án xác minh, thu thập theo quy
định pháp luật. KSV kiểm sát việc lập
hồ sơ vụ án hành chính, nhằm đảm bảo
việc lập hồ sơ của Tòa án được đầy đủ,
khách quan, đúng pháp luật, góp phần
giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời,
chính xác, qua đó, bảo đảm quyền và
LÊ NGỌC DUY
59Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.
Trường hợp phát hiện vi phạm thì báo
cáo lãnh đạo VKS thực hiện quyền kiến
nghị khắc phục vi phạm và phòng ngừa
vi phạm(1).
Thứ hai, bảo vệ QCN, QCD thông qua
việc tham gia phiên toà, phiên họp giải quyết
vụ án hành chính của VKSND
Theo quy định của Luật TTHC năm
2015, VKS tham gia phiên tòa, phiên họp
giải quyết vụ án hành chính với vai trò là
cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng. Tại Điều 25 Luật TTHC
năm 2015 đã quy định cụ thể các trường
hợp VKSND tham gia phiên tòagiải
quyết vụ án hành chính. Trong tố tụng
hành chính, đối với quyết định hành
chính, hành vi hành chính liên quan đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi, nếu họ không có
người khởi kiện thì VKS kiến nghị UBND
cấp xã nơi người đó cư trú cử người giám
hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
người đó.
Lần đầu tiên Luật TTHC năm 2015
đã quy định đối với trường hợp KSV
được Viện trưởng phân công tham gia
phiên tòa, phiên họpsơ thẩm hoặc phiên
tòa, phiên họp phúc thẩm mà vắng mặt
thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc
xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường
hợp VKS kháng nghị phúc thẩm (Điều
156 và Điều 224). Quy định này nhằm
1 Khoản 2 Điều 10 Quyết định số 282/QĐ - VKSTC
về việc ban hành quy chế công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án hành chính của Viện trưởng VKSND
tối cao.
bảo đảm cho việc xét xử, giải quyết vụ án
hành chính được nhanh chóng, kịp thời,
đề cao trách nhiệm của KSV và của VKS.
Tuy nhiên, trên thực tế quy định này cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xét
xử theo xu thế không thuận lợi cho người
tham gia tố tụng, nhất là thiếu vắng chủ
thể giám sát đối với hoạt động của Hội
đồng xét xử. Bên cạnh đó, khi KSV trực
tiếp tham gia các phiên họp, phiên tòa và
phát biểu ý kiến tại phiên tòa đã bảo đảm
việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội
đồng xét xử, phòng ngừa và kịp thời xử
lý các vi phạm QCN, QCD từ cơ quan Tòa
án. Đồng thời, tại phiên tòa, KSV trực tiếp
tham gia trả lời, đặt câu hỏi, tranh luận,
đối đáp để làm sáng tỏ các nội dung của
vụ án, một mặt góp phần bảo đảm phán
quyết của Tòa án đúng pháp luật, mặt
khác tạo lòng tin từ phía người dân đối
với cơ quan bảo vệ pháp luật, qua đó, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
công dân.
Tương ứng với từng giai đoạn tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án hành
chính, để bảo vệ QCN, QCD của người
đương sự và người tham gia tố tụng
khác theo quy định tại Luật TTHC năm
2015, phương thức bảo vệ QCN, QCD của
VKSND được thể hiện thông qua hoạt
động trực tiếp của Viện trưởng, KSV khi
thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị,
kháng nghị.
Như vậy, việc VKS tham gia phiên toà,
phiên họp giải quyết vụ án hành chính thể
hiện vị trí, vai trò của VKS trong tố tụng
hành chính, qua đó củng cố niềm tin vào
pháp luật của đương sự và người tham gia
tố tụng khác, góp phần quan trọng trong
việc bảo vệ QCN, QCD trong tố tụng hành
chính khi có sự tham gia của VKS.
VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN...
60 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
Thứ ba, bảo vệ QCN, QCD thông qua
việc KSV phát biểu ý kiến của VKS về việc giải
quyết vụ án hành chính tại phiên tòa sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về việc KSV phát biểu quan điểm,
đường lối của VKS trong giải quyết vụ
án hành chính được quy định trong Luật
TTHC năm 2015, cụ thể như sau:
- Tại phiên tòa sơ thẩm, theo Điều 190
Luật TTHC năm 2015 quy định: “Sau khi
những người tham gia tố tụng tranh luận
và đối đáp xong, KSV phát biểu ý kiến về
việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên
tòa và của người tham gia tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ
lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét
xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải
quyết vụ án. Ngay sau khi kết thúc phiên
tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát
biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ
vụ án”.
Về phát biểu của Kiểm sát viên tại
phiên tòa sơ thẩm được thực hiện theo
Điều 27 Thông tư số 03/2016/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC quy định việc phối
hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi
hành một số quy định của Luật TTHC.
- Tại phiên tòa phúc thẩm, theo khoản
4 Điều 243 Luật TTHC năm 2015 quy định
phát biểu của KSV tại phiên họp phúc
thẩm đối với quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị “Kiểm
sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia
phiên họp phúc thẩm và phát biểu ý kiến
về việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị
trước khi Hội đồng xét xử phúc thẩm ra
quyết định. Hội đồng xét xử quyết định
hoãn phiên họp khi KSV vắng mặt trong
trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị”.
Về phát biểu của Kiểm sát viên tại
phiên tòa phúc thẩm được thực hiện
theo Điều 29 Thông tư số 03/2016/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC quy định việc phối
hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi
hành một số quy định của Luật TTHC.
Để bảo vệ QCN, QCD của người
kháng cáo, trong trường hợp chỉ có kháng
cáo của đương sự thì Kiểm sát viên phát
biểu những vấn đề sau đây: (1) Tính có
căn cứ và hợp pháp của kháng cáo; (2)
Việc tuân theo pháp luật của người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án ở giai
đoạn phúc thẩm; (3) Quan điểm về việc
giải quyết đối với bản án, quyết định sơ
thẩm hoặc phần bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo.
- Tại phiên tòa giám đốc thẩm và
tái thẩm, Luật TTHC năm 2015 bổ sung
thêm quy định mới là đại diện VKS phát
biểu ý kiến về quyết định kháng nghị
thay vì chỉ phát biểu về việc giải quyết
vụ án hành chính như Luật TTHC năm
2010 trước đây.
Về phát biểu của Kiểm sát viên tại
phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm được
thực hiện theo Điều 30 Thông tư số
03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC quy
định việc phối hợp giữa VKSND và TAND
trong việc thi hành một số quy định của
Luật TTHC.
Dưới góc độ khoa học pháp lý và thực
tiễn xét xử các vụ án hành chính ở nước
ta hiện nay, chúng tôi cho rằng việc quy
định cho VKSND được tham gia sâu hơn
vào việc giải quyết vụ án hành chính, theo
đó quy định cho KSV phát biểu ý kiến của
VKS về việc giải quyết vụ án hành chính
tại phiên tòa, phiên họp sơ thẩm, phúc
LÊ NGỌC DUY
61Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm là hoàn
toàn hợp lý và mang tính cấp thiết thể
hiện trên các phương diện sau đây:
+ KSV phát biểu ý kiến về việc giải
quyết vụ không có nghĩa là Hội đồng xét
xử phải theo ý kiến hay phải phụ thuộc
vào ý kiến của KSV, mà càng làm phong
phú hơn về quan điểm, đường lối giải
quyết vụ án, đưa ra thêm lập luận, tình
tiết trên cơ sở nghiên cứu vụ án để Hội
đồng xét xử có đánh giá khách quan, tạo
cơ sở pháp lý cho Hội đồng xét xử đưa ra
phán quyết cuối cùng. Do vậy việc KSV
phát biểu ý kiến về đường lối giải quyết
vụ án không làm mất đi tính độc lập xét
xử của Tòa án theo nguyên tắc Tòa án xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, mà
đó cũng chỉ là một ý kiến để Hội đồng xét
xử tham khảo cũng như ý kiến của các
đương sự hoặc luật sự, giúp cho Hội đồng
xét xử có thêm một kênh thông tin quan
trọng để xem xét việc kháng nghị là có căn
cứ hay không, từ đó quyết định việc chấp
nhận hay không chấp nhận kháng nghị để
đưa ra phán quyết đúng với sự thật khách
quan của vụ án.
+ KSV phát biểu ý kiến về việc giải
quyết vụ án sẽ góp phần bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự và người
tham gia tố tụng khác. Sự tham gia của
VKS tại phiên tòa, phiên họp sơ thẩm vụ
án hành chính sẽ đảm bảo cho mọi hoạt
động trước, trong và sau phiên tòa được
tuân thủ theo đúng quy định của pháp
luật, đặc biệt đương sự và những người
tham gia tố tụng khác được bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp. Đây cũng là thực tế
của phiên tòa, phiên họp xét xử sơ thẩm
vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay,
do vậy, vai trò của VKS rất quan trọng, sẽ
bảo đảm tính khách quan, công bằng, dân
chủ của các bên tham gia trước pháp luật.
Với sự tham gia của VKS, ở một góc độ, cả
Tòa án và các bên đương sự phải tuân thủ
đúng quy định của pháp luật, góp phần
bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự và những người tham gia
tố tụng khác.KSV là người kiểm sát việc
giải quyết vụ án ngay từ khi vụ án hành
chính được khởi kiện, KSV cũng được
quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án nên hơn ai
hết KSV là người nắm rõ bản chất vụ việc.
Do đó, KSV phát biểu quan điểm về việc
giải quyết vụ án được xem như là kênh
quan trọng để Hội đồng xét xử tham khảo
đánh giá về tính hợp pháp của đối tượng
khiếu kiện.
+ Thực tế xét xử cho thấy, VKS (thông
qua KSV) phát biểu quan điểm về đường
lối giải quyết vụ việc tại phiên tòa phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đã mang
lại hiệu quả cao trong việc giải quyết vụ
án hành chính. Bên cạnh đó, với quy định
này còn nâng cao vai trò của VKSND khi
tham gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết
vụán hành chính. Bởi lẽ, bản thân mỗi KSV
khi tham gia phát biểu ý kiến về đường
lối giải quyết vụ án hành chính tại phiên
tòa sơ thẩm cũng đặt ra “trách nhiệm” của
mình trước pháp luật và trước cơ quan,
đơn vị giao phó.
Như vậy, quy định trên là phù hợp về
cả phương diện lý luận, pháp lý và thực
tiễn xét xử vụ án hành chính ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Từ đây, với quy
định này sẽ góp phần quan trọng đối với
vai trò VKSND trong bảo vệ QCN, QCD
trong tố tụng hành chính.
Thứ tư, bảo vệ QCN, QCD thông qua
thẩm quyền xác minh, thu thập tài liệu, chứng
cứ của VKS
VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN...
62 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
Luật TTHC năm 2015 tiếp tục kế thừa
quy định của Luật TTHC năm 2010 về
thẩm quyền xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ của VKS, nhưng có sửa đổi, bổ
sung một số nội dung mới như sau:
- Bổ sung quy định KSV khi được
Viện trưởng VKS phân công thực hiện
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hành chính, có nhiệm vụ, quyền
hạn. Trong tố tụng hành chính, quy định
tại khoản 3 Điều 43 Luật TTHC năm 2015,
KSV có nhiệm vụ, quyền hạn: “Nghiên
cứu hồ sơ vụ án; xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 84
của Luật này”
- VKS thu thập tài liệu, chứng cứ để
bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm (khoản 6 Điều 84 Luật
TTHC năm 2015). Bổ sung quy định tại
Điều 93 (khoản 3, 4) Luật TTHC năm 2015
về quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhâncung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa
án và trường hợp Viện kiểm sát có yêu cầu
cung cấp tài liệu, chứng cứ thì cơ quan,
tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện
cung cấp tài liệu, chứng cứ.
- Trong quá trình giải quyết đơn đề
nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục
giám đốc thẩm, người có thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
(trong đó có Viện trưởng VKSND tối cao
và Viện trưởng VKSND cấp cao) có quyền
yêu cầu người có đơn bổ sung tài liệu,
chứng cứ hoặc tự mình kiểm tra, xác minh
tài liệu, chứng cứ cần thiết (khoản 2 Điều
259 Luật TTHC năm 2015).
Xuất phát từ chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp của VKS, trong tố tụng
hành chính, VKS thực hiện kiểm sát việc
giải quyết các vụ án hành chính, theo đó
VKS có quyền(1): Thu thập tài liệu, chứng
cứ trong trường hợp pháp luật quy định.
Với những quy định trong Luật TTHC năm
2015, VKS có thẩm quyền xác minh, thu
thập chứng cứ sẽ đặt ra một số yêu cầu sau:
- VKS phải đảm bảo tính hợp pháp
của các quyết định, hành vi của Tòa án, cá
nhân, tổ chức tham gia trong tố tụng hành
chính thông qua hoạt động kiểm tra, giám
sát theo quy định của pháp luật. Do vậy,
Luật TTHC năm 2015 đã quy định VKS có
quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập
chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án
hành chính theo quy định của pháp luật
tố tụng. Quy định này hướng đến mục
đích và ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia
tố tụng dân sự.
- VKS có thẩm quyền kháng nghị bản
án, quyết định của Tòa án theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc
trong quá trình giải quyết đơn đề nghị
xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm thì VKS có quyền thu thập, xác minh
chứng cứ hoặc yêu cầu người có đơn bổ
sung tài liệu, chứng cứ. Với những quy
định trên sẽ góp phần quan trọng thể hiện
vai trò của VKS trong việc tiến hành thủ
tục kháng nghị sẽ bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự và người tham
gia tố tụng.
Thứ năm, bảo vệ QCN, QCD thông qua
thẩm quyền kháng nghị bán án, quyết định
của tòa án có vi phạm pháp luật theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
Tại điểm g khoản 1 Điều 27 Luật tổ chức
1 Điều 27 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014
LÊ NGỌC DUY
63Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
VKSND năm 2014 quy định về thẩm quyền
kháng nghị của VKSND như sau: “Kháng
nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm
pháp luật”.
Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm được trao cho Viện trưởng VKS
các cấp quy định như sau: “Viện trưởng
Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có
quyền kháng nghị bản án sơ thẩm, quyết định
tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính,
quyết định đình chỉ giải quyết vụ ánhành
chính của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục
phúc thẩm” (Điều 211 Luật TTHC năm
2015). Quyết định kháng nghị phải được
thể hiện hình thức bằng văn bản và có
nội dung theo quy định tại Điều 212 Luật
TTHC năm 2015. Thời hạn kháng nghị
được quy định tại Điều 213 Luật TTHC
năm 2015.
Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm theo Điều 260 và
283 Luật TTHC năm 2015 như sau:
- Viện trưởng VKSND tối cao có thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy
cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao.
- Viện trưởng VKSND cấp cao có
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong
phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Bên cạnh đó, thời hạn kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm khác so với
thủ tục tái thẩm. Thời hạn kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm là 03 năm kể
từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực pháp luật (khoản 1 Điều 263 Luật
TTHC năm 2015), còn thời hạn kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm là 01 năm kể từ ngày
người có thẩm quyền kháng nghị biết
được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm quy định tại Điều 281 của Luật
này (Điều 284 Luật TTHC năm 2015). Về
căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm và tái thẩm cũng rất khác nhau, căn
cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
được thực hiện theo Điều 255 Luật TTHC
năm 2015, còn căn cứ kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm được thực hiện theo Điều 281
Luật TTHC năm 2015.
Với những quy định này sẽ góp phần
tăng cường về chủ thể có thẩm quyền
kháng nghị tạo điều kiện và đẩy mạnh
hoạt động kháng nghị của VKSND cấp
cao và VKSND tối cao, góp phần đảm bảo
việc tuân thủ pháp luật của Tòa án và bảo
vệ QCN, QCD trong tố tụng hành chính
thật sự hiệu quả.
Thứ sáu, bảo vệ QCN, QCD thông qua
hoạt động kiểm sát việc thi hành bản án, quyết
định của Tòa án
Để bảo đảm việc thi hành bản án,
quyết định của Tòa án kịp thời, đầy đủ,
đúng pháp luật, đồng thời, bảo đảm
QCN, QCD của người được thi hành án,
VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan đến việc thi hành án. VKS thực hiện
quyền kiến nghị với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có nghĩa vụ thi hành án và cơ quan,
tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân phải thi hành án để có biện
pháp tổ chức thi hành nghiêm chỉnh bản
VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN...
64 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
án, quyết định của Tòa án. Nếu phát hiện
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong
việc giải quyết vụ án thì Viện trưởng VKS
thực hiện quyền yêu cầu hoãn thi hành
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án để xem xét việc kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; Quyền
yêu cầu, kiến nghị với Tòa án khắc phục
những vi phạm trong việc giải quyết vụ
án hành chính.
Như vậy, thông qua hoạt động kháng
nghị bản án, quyết định của Tòa án, VKS
đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên đương sự và người tham gia tố
tụng khác. Theo đó, quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự và người tham gia tố
tụng sẽ được bảo đảm bằng một cấp xét
xử mới và nội dung mà VKS kháng nghị
đó là phần mà VKS cho rằng Tòa án đã xét
xử có thể chưa đúng, chưa đầy đủ theo
quy định của pháp luật. Như vậy, vai trò
bảo vệ QCN, QCD trong tụng hành chính
của VKSND thể hiện rõ nét qua hoạt động
kháng nghị của VKS theo thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Qua đó,
có thể khẳng định một lần nữa vai trò của
VKSND chính là “Tấm lá chắn bằng thép
vững chắc” bảo vệ QCN, QCD trong hoạt
động tư pháp nói chung và trong tố tụng
hành chính.
2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy
định về vai trò bảo vệ quyền con người,
quyền công dân trong tố tụng hành chính
của VKSND
Vai trò của VKS trong tố tụng hành
chính là một cơ quan bảo vệ pháp luật,
với những quyền năng đủ mạnh như:
quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, quyền
kháng nghị để bảo vệ pháp chế, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân và được sử ủng hộ, tin cậy của nhân
dân, cũng như của toàn xã hội sẽ góp
phần rất lớn cho VKSND thực hiện tốt
công tác kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hành chính cũng như
thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã
giao phó.
- Thứ nhất, cần quy định bắt buộc sự
có mặt của KSV tại các phiên họp, phiên
tòa nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp
luật tố tụng của những người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng, qua đó
bảo vệ quyền của người khởi kiện trong
quá trình giải quyết vụ án hành chính.
Tại khoản 2 Điều 25 Luật TTHC năm 2015
quy định về tham gia phiên tòa, phiên họp của
VKS (KSV). Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều
156 Luật TTHC năm 2015 lại quy định
về việc có mặt của KSV:“KSV được Viện
trưởng VKS cùng cấp phân công có nhiệm
vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì Hội
đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử”. Mặt khác,
tại Điều 232 Luật TTHC năm 2015, thì các
trường hợp luật quy định hoãn phiên tòa
phúc thẩm không có trường hợp vắng
KSV. Như vậy, quy định như trên sẽ rất
bất cập cho KSV sẽ không kiểm sát được
diễn biến tại phiên tòa để có quan điểm
về tố tụng cũng như nội dung vụ án.
Bởi thực tế khối lượng công việc tại địa
phương nhiều, trong một số trường hợp
một KSV có 02 hoặc nhiều vụ án cùng lên
lịch xét xử cùng một thời điểm hoặc cũng
có trường hợp do tham gia xét xử vụ án
khác còn kéo dài thời gian nghị án mà
không có KSV dự khuyết hoặc đến ngày
xét xử KSV được phân công ốm hoặc trên
đường tham gia giao thông gặp trở ngại
thì trường hợp này KSV phải thực hiện
như thế nào.
LÊ NGỌC DUY
65Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
- Thứ hai, pháp luật tố tụng hành
chính cần thiết lập cơ chế bảo đảm quyền
kiến nghị của VKS đối với “cơ quan, tổ
chức, cá nhân có nghĩa vụ thi hành án và
cơ quan, tổ chức, cá nhân cấp trên trực tiếp
của cơ quan, tổ chức phải chấp hành bản
án, quyết định của Tòa án” để bảo đảm
phán quyết của Tòa án được thực thi, bảo
vệ quyền của người được thi hành án. Ví
dụ, cụ thể hóa trách nhiệm trả lời của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân khi nhận được
kiến nghị của VKS về thời hạn trả lời, biện
pháp tổ chức thi hành án hành chính...
Bên cạnh đó, cần bổ sung thẩm quyền
kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn
bản quy phạm pháp luật của Viện trưởng
VKS trong trường hợp Tòa án không phát
hiện được, nhưng VKS phải thông báo
việc này cho Tòa án đã giải quyết vụ án
hành chính.
- Thứ ba, quy định về vai trò của
VKSND tham gia vào quá trình thụ lý,
giải quyết vụ việc hành chính trong Luật
TTHC với tư cách giám sát hoạt động tố
tụng của Tòa án, còn chưa đề cập đầy đủ
và cụ thể đã hạn chế vai trò giám sát hoạt
động TTHC của VKSND:
+ Bổ sung quy định khi tiếp nhận
và xem xét đơn khởi kiện, TAND có trách
nhiệm thông báo cho VKS biết để thực
hiện chức năng kiểm sát hoạt động tố
tụng hành chính theo quy định;
+ Bổ sung quy định về thời hạn cụ
thể Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng với
việc gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử
cho VKS cùng cấp nghiên cứu nhằm bảo
đảm tuân thủ đúng thời hạn xét xử vụ án
hành chính do pháp luật quy định.
- Thứ tư, theo khoản 3 Điều 25 Luật
TTHC năm 2015 cũng quy định: “Đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính
liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi, nếu họ không có người
khởi kiện thì VKS kiến nghị UBND cấp xã nơi
người đó cư trú cử người giám hộ đứng ra
khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp cho người đó”.
Trong tố tụng hành chính, thực tế
sẽ rất khó có người đứng ra khởi kiện
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự,người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, nếu
quyết định hành chính, hành vi hành
chính có liên quan đến lợi ích của họ do
chính UBND xã, phường, thị trấn (hoặc
cơ quan hành chính cấp trên) nơi người
chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự cư trú ban hành. Như vậy,
cần giao lại thẩm quyền khởi tố (khởi
kiện) vụ án hành chính cho VKS là hoàn
toàn phù hợp với thực tiễn và quy định
Hiến pháp năm 2013 về nhiệm vụ bảo vệ
QCN, QCD của VKSND, bởi một số lý do
sau đây:
- Lịch sử mà pháp luật Việt Nam đã
quy định về thẩm quyền khởi kiện (khởi
tố) vụ án hành chính(1) vẫn còn nguyên
giá trị, mang lại và bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà nước, tập thể và
1 Theo Điều 18 Pháp lệnh TTGQCVAHC năm 1996:
“Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, VKS có
quyền tham gia tố tụng từ bất cứ giai đoạn nào khi xét thấy
cần thiết. Đối với các quyết định hành chính, hành vi hành
chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm
thần, nếu không có ai khởi kiện thì VKS có quyền khởi tố
vụ án hành chính và có trách nhiệm cung cấp chứng cứ”.
VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN...
66 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
cá nhân. Hàng năm, VKSND các cấp đã
khởi tố rất nhiều vụ án hành chính bảo vệ
có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân.
- Việc pháp luật tố tụng hành chính
bỏ thẩm quyền khởi tố (khởi kiện) của
VKS đã thực sự tạo ra khoảng trống pháp
luật vì không một cá nhân nào, không
một cơ quan, tổ chức Nhà nước nào được
giao nhiệm vụ quan trọng này có thể
thay thế hoặc rất khó có thể thay thế cho
nhiệm vụ này của VKS. Vai trò yếu ớt của
các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước
trong việc khởi kiện vụ án hành chính thể
hiện sự tham gia tố tụng không đạt kết
quả như mong muốn của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức Nhà nước, mà không phải
là VKS trong việc khởi kiện vụ án hành
chính nhằm bảo vệ lợi ích chung trong
thời gian qua là minh chứng rõ nét cho
nhận định này.
- Với việc thực hiện nhiệm vụ của
cơ quan Nhà nước chuyên trách trong
lĩnh vực tố tụng, có tính chuyên nghiệp
cao thông qua bộ máy và cán bộ chuyên
môn trong hệ thống cơ quan VKS được
tổ chức chặt chẽ, VKS có điều kiện hơn
và có ưu thế hơn các mô hình khác trong
việc khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích
hợp pháp cá nhân, công dân. Không phải
ngẫu nhiên mà trước đây pháp luật các
nước đều quy định dành cho Viện công
tố (Viện kiểm sát) thực hiện thẩm quyền
này. Trong xã hội dân chủ cần đa dạng
hoá các kênh, các hình thức bảo vệ lợi ích
Nhà nước, lợi ích tổ chức và công dân
bằng con đường Toà án nhưng không
loại trừ khả năng bảo vệ của VKS trong
lĩnh vực này. Các hình thức bảo vệ khác
nhau cần phải được phát triển song song
mà không phủ nhận lẫn nhau. Như vậy,
cần phải bổ sung quy định VKS là người
đứng đơn khởi kiện (khởi tố) vụ án hành
chính nhân danh lợi ích nhà nước, lợi ích
công cộng, lợi ích của cá nhân không có
khả năng tự thực hiện quyền dân sự hoặc
không thể tự bảo vệ mình.
Do vậy, khoản 3 Điều 25 Luật TTHC
năm 2015 nên sửa thành:“Đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính liên
quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi, nếu họ không có người khởi kiện
thì VKS có quyền khởi kiện vụ án hành
chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho người đó và có trách nhiệm cung cấp
chứng cứ”.
Như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong tố tụng hành chính được
ghi nhận trong Luật TTHC năm 2015,
VKSND vừa là cơ quan tiến hành tố tụng
hành chính thực hiện kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hành chính
nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án
hành chính kịp thời, đúng pháp luật. Bên
cạnh đó, VKSND có vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ quyền con người, quyền
công dân trong tố tụng hành chính. Trong
xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc
tăng cường và mở rộng thẩm quyền của
VKSND trong bảo vệ quyền con người,
quyền công dân trong tố tụng hành chính
là vấn đề hết sức cấp thiết, bởi nó đáp
ứng được yêu cầu bảo vệ từ phía xã hội,
người dân, đồng thời với sự tham gia của
VKSND vào phiên tòa vụ án hành chính
sẽ tăng cường dân chủ, tuân thủ pháp luật
từ phía Tòa án./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_bao_ve_quyen_con_nguoi_quyen_cong_dan_trong_to_tung.pdf