Ngưỡng chẩn đoán của nồng độ β‐hCG
sau hút nạo tuần thứ 2 trong nghiên cứu của
chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của tác
giả Kang (850 mUI/mL với 2400 mUI/mL). Kết
quả nồng độ β‐hCG sau hút nạo tuần thứ 2
trong nghiên cứu chúng tôi cho giá trị tiên
đoán BNBNTT tốt hơn so với kết quả nghiên
cứu của Kang (Bảng 5). Sự khác biệt này có lẽ
là do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi khác
nhau về chủng tộc, địa dư, tiêu chuẩn chẩn
đoán cũng như phương pháp chọn điểm cắt(4).
Ngưỡng chẩn đoán của chúng tôi thấp hơn so
với tác giả Kang có thể là do trong nghiên cứu
chúng tôi bệnh nhân được định lượng thêm
nồng độ β‐hCG sau hút nạo 48 giờ sau đó cách
khoảng mỗi tuần, do đó thời điểm định lượng
nồng độ β‐hCG tuần thứ 2 sau hút nạo trong
nghiên cứu chúng tôi dài hơn 2 ngày so với tác
giả Kang, và dòng máy xét nghiệm trong
nghiên cứu của chúng tôi không phát hiện tốt
được các dạng lưu hành của β‐hCG(2).
Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi vẫn
còn hạn chế nhất định do phương pháp thực
hiện đoàn hệ hồi cứu dựa trên hồ sơ bệnh án đã
có của bệnh viện nên có nhiều yếu tố của đối
tượng nghiên cứu có thể ảnh hưởng lên nguy cơ
xuất hiện BNBNTT mà chúng tôi không thu
thập được: kích thước TC so với tuổi thai, tiền
căn tiếp xúc với hóa chất, chế độ dinh dưỡng,
hay đời sống kinh tế Chúng tôi đã lấy mẫu
toàn bộ nhưng cỡ mẫu trong nghiên cứu vẫn
còn hạn chế. Nếu có điều kiện chúng tôi sẽ tiến
hành nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu với cỡ mẫu
lớn hơn được ước tính theo diện tính dưới
đường cong để làm tăng thêm tính tin cậy cho
kết quả nghiên cứu.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 426 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của β‐hCG sau hút nạo thai trứng toàn phần trong tiên lượng sớm bệnh nguyên bào nuôi tồn tại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 41
VAI TRÒ CỦA β‐hCG SAU HÚT NẠO THAI TRỨNG TOÀN PHẦN  
TRONG TIÊN LƯỢNG SỚM BỆNH NGUYÊN BÀO NUÔI TỒN TẠI 
Nguyễn Vũ Hà Phúc*, Lê Hồng Cẩm* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Thai trứng là một bệnh lý có liên quan đến sự phát triển bất thường của tế bào nuôi. Đa số các 
bệnh nhân thai trứng bệnh sẽ thoái lui sau hút nạo, tuy nhiên một số bệnh nhân sẽ tiến triển thành bệnh nguyên 
bào nuôi tồn tại (BNBNTT), đây là một bệnh lý ác tính cần phải được điều trị với hóa chất. 
Mục tiêu: Xác định vai trò của nồng độ β‐hCG sau hút nạo thai trứng toàn phần (TTTP) trong tiên lượng 
sớm BNBNTT. 
Phương pháp: Hồi cứu hồ sơ toàn bộ các bệnh nhân TTTP được chẩn đoán và theo dõi tại bệnh viện Hùng 
Vương từ tháng 11/2011 đến tháng 11/2012. Sử dụng đường cong ROC và hồi quy đa biến để tìm ra yếu tố 
giúp tiên đoán tốt nhất nguy cơ diễn tiến thành BNBNTT. 
Kết  quả:  Có  42  bệnh nhân  diễn  tiến  thành BNBNTT  được  chẩn  đoán  theo  tiêu  chuẩn Charing Cross 
Hospital trong tổng số 131 bệnh nhân TTTP. Nồng độ β‐hCG sau hút nạo tuần thứ 2 là một yếu tố tiên lượng 
độc lập có ý nghĩa thống kê cho nguy cơ diễn tiến BNBNTT sau hút nạo ở các bệnh nhân TTTP (p < 0,001). Tại 
ngưỡng chẩn đoán của nồng độ β‐hCG sau hút nạo tuần thứ 2 ≥ 850 mUI/mL cho giá trị tiên đoán BNBNTT 
với: độ nhạy 73%, độ chuyên 79%, giá trị tiên đoán dương 62%, và giá trị tiên đoán âm 86%.  
Kết luận: Nồng độ β‐hCG sau hút nạo tuần thứ 2 có thể là một yếu tố giúptiên đoán sớm nguy cơ diễn tiến 
thành BNBNTT sau hút nạo TTTP. 
Từ khóa: thai trứng toàn phần, bệnh nguyên bào nuôi, bệnh nguyên bào nuôi tồn tại 
ABSTRACT 
POST EVACUTATION BETA‐hCG LEVEL AS A PREDICTIVE MARKER 
 OF DEVELOPING PERSISTENT GESTATIONAL TROPHOBLASTIC DISEASE  
IN WOMEN WITH COMPLETE MOLAR PREGNANCY 
Nguyen Vu Ha Phuc, Le Hong Cam  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 41‐46 
Background: Hydatidiform mole is characterised by an overgrowth of trophoblasts within the uterus. Most 
women with hydatidiform mole can be cured by evacuation. However, in some women the growth persists and 
develops into persistent gestational trophoblastic disease (GTD), a malignant form requiring chemotherapy.  
Objectives: To evaluate the role of post evacuation β‐hCG levels to predict the risk of developing persistent 
GTD in women with complete molar pregnancies. 
Method: Reviewed past medical records of all patients from Hung Vuong hospital diagnosed with complete 
molar pregnancies between November 2011 and November 2012. Persistent GTD was diagnosed using Charing 
Cross criteria. Values of beta hCG measurements at two weeks after evacuation of complete molar pregnancy were 
taken.  A  receiver  operating  characteristic  (ROC)  curve  and  multivariate  logistic  regression  were  used  to 
determine the predictive value of post evacuation beta hCG level on the persistent development of GTD. 
Results: Out of the 131 women, 42 was diagnosed as persistent GTD. The two‐week post evacuation β‐
* Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP HCM 
Tác giả liên lạc. PGS Lê Hồng Cẩm  ĐT: 0913 645517 Email: lehongcam61@yahoo.com  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 42
hCG  level was  a  significant  independent  prognostic  factor  for  the  risk  of  developing  persistent GTD  in 
patients with complete molar pregnancies (p < 0.001). The optimal cut‐off value of two‐week post evacuation 
β‐hCG  level was 850 mUI/mL with 73%  sensitivity, 79%  specificity, 62% positive predictive value,  and 
86% negative predictive value. 
Conclusion:  Post  evacuation  β‐hCG  level  is  a  predictor  of  developing  persistent GTD  in women with 
complete molar pregnancies.  
Key words: complete mole, gestational trophoblastic disease, persistent gestational trophoblastic neoplasia. 
MỞ ĐẦU 
Bệnh  lý nguyên bào nuôi  là một bệnh  lý có 
liên quan  đến  sự phát  triển  bất  thường  của  tế 
bào nuôi, trong đó thai trứng  là dạng  lâm sàng 
phổ  biến  nhất,  bao  gồm  thai  trứng  toàn  phần 
(TTTP) và thai trứng bán phần (TTBP). Hút nạo 
được xem là phương pháp điều trị lựa chọn đối 
với  thai  trứng  không  biến  chứng. Theo  y  văn, 
sau  hút  nạo  nguy  cơ  tiến  triển  thành  bệnh 
nguyên bào nuôi tồn tại (BNBNTT) là 6‐20% đối 
với TTTP, và 0,5‐4% đối với TTBP(3). 
Việc  quản  lý  bệnh  nhân  sau  hút  nạo  có  ý 
nghĩa  đặc  biệt  quan  trọng  đối  với  tất  cả  bệnh 
nhân  thai  trứng.  Trong  số  BNBNTT  sau  thai 
trứng có đến 50‐70% là thai trứng xâm lấn và 30‐
50%  bệnh  có  thể  sẽ  phát  triển  thành  ung  thư 
nguyên bào nuôi(6). 
Trên  thế giới đã có nhiều nghiên cứu được 
thực hiện với nỗ  lực  tiên  lượng  sớm BNBNTT 
sau  thai  trứng. Cho  đến nay,  theo dõi biểu  đồ 
của hCG sau hút nạo thai trứng vẫn là một yếu 
tố quan trọng nhất trong tiên lượng BNBNTT(5). 
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đưa ra kết  luận 
không đồng nhất về  thời điểm cũng như điểm 
cắt khoảng của nồng độ β‐hCG sau hút nạo, hơn 
nữa các nghiên cứu  lại sử dụng các  tiêu chuẩn 
khác nhau để chẩn đoán BNBNTT. Nước ta xuất 
độ bệnh lý nguyên bào nuôi khá phổ biến, đa số 
bệnh nhân thuộc diện nghèo, dân trí thấp và tập 
trung ở vùng nông thôn, hơn nữa việc theo dõi 
sau hút nạo  thai  trứng  đòi hỏi phải  lâu dài và 
tốn kém nên việc  tiên  lượng và phát hiện  sớm 
BNBNTT rất cần thiết.  
Mục tiêu 
Xác định vai trò của nồng độ β‐hCG sau hút 
nạo TTTP trong tiên lượng sớm BNBNTT. 
ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Chúng  tôi  tra  cứu  lại  hồ  sơ  của  tất  cả  các 
bệnh nhân TTTP, được nhập viện và theo dõi tại 
bệnh  viện  Hùng  Vương  trong  thời  gian  từ 
11/2011 đến 11/2012. Chúng tôi chọn vào nhóm 
nghiên cứu các hồ sơ bệnh nhân TTTP được hút 
nạo và gửi giải phẫu bệnh, không  có  chỉ  định 
hóa  dự  phòng.  Bệnh  nhân  sau  hút  nạo  được 
theo dõi nồng độ β‐hCG theo phác đồ của bệnh 
viện: 48 giờ sau hút nạo, mỗi tuần cho đến khi β‐
hCG về âm tính 3 lần liên tiếp (< 5 mUI/mL), và 
mỗi tháng 1 lần trong 6 tháng tiếp theo.  
Các  trường  hợp  loại  ra  khỏi  nghiên  cứu 
gồm: sót trứng phải hút nạo lại sau > 1 tuần, có 
thai mới  trong  thời  gian  theo  dõi,  hoặc  theo 
dõi không đủ 6 tháng từ khi nồng độ β‐hCG về 
âm tính  
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu, lấy mẫu toàn bộ. 
Thu thập và quản lý số liệu 
Phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 11. 
Xử lý số liệu 
Chúng  tôi  phân  tích  2  nhóm  bệnh 
nhân:nhóm  sau  hút  nạo  diễn  tiến  thành 
BNBNTT, và nhóm  lui bệnh bao gồm các bệnh 
nhân  không  diễn  tiến  thành  BNBNTT  sau  6 
tháng  theo  dõi.  Chẩn  đoán  BNBNTT  sau  thai 
trứng  theo  tiêu  chuẩn  Curent  Charing  Cross 
Hospital.  BNBNTT  được  chẩn  đoán  khi  có  1 
trong các yếu tố sau: 
Có bằng chứng của di căn.  
Chảy máu âm đạo dai dẳng kéo dài, hoặc có 
xuất huyết nội. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 43
Nồng độ hCG tăng qua 2 giá trị liên tiếp. 
Nồng  độ  hCG  bình  nguyên  (giảm  ít  hơn 
10%) qua 3 giá trị liên tiếp. 
Nồng  độ hCG  sau hút nạo 4  tuần > 20.000 
mIU/ml.  
hCG còn tồn tại 6 tháng sau hút nạo. 
Kết quả giải phẫu bệnh  là ung  thư nguyên 
bào nuôi. 
Sử dụng phép kiểm Chi bình phương, Fisher 
chính xác và t test để phân tích đơn biến giữa các 
biến số và kết cuộc. Sử dụng Hồi qui Logistic để 
tìm  ra mối  liên quan giữa nồng  độ  β‐hCG  sau 
hút nạo trong tiên lượng BNBNTT. Phân tích hồi 
quy đa biến nhằm kiểm soát và  loại bỏ các yếu 
tố gây nhiễu. Các phép kiểm  được  tính  toán  ở 
khoảng tin cậy 95%, kết quả có ý nghĩa thống kê 
nếu P < 0,05. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Tại  bệnh  viện Hùng Vương,  khảo  sát  trên 
toàn bộ số bệnh nhân TTTP nhập viện và điều 
trị  tại viện  từ  tháng 11‐2011 đến  tháng 11‐2012, 
sau khi đã loại trừ 28 bệnh nhân không theo dõi 
đủ  6  tháng  chúng  tôi  có  được  131  bệnh  nhân 
TTTP thỏa các tiêu chuẩn chọn mẫu, trong đó có 
42 bệnh nhân diễn tiến thành BNBNTT. 
Độ  tuổi  của  đối  tượng  nghiên  cứu  trung 
bình là 28 ± 8,0, nhỏ nhất là 15 tuổi, lớn nhất là 
50  tuổi,  47,3% bệnh nhân  sống  tại  thành phố 
Hồ Chí Minh, còn  lại sống tại các tỉnh vệ tinh 
gần thành phố Hồ Chí Minh. Nghề nghiệp chủ 
yếu  là công nhân và công nhân viên. Số bệnh 
nhân đa sản chiếm  tỉ  lệ  thấp  (2,3%) và không 
có bệnh nhân nào có tiền căn thai trứng trước 
đây. Nồng  độ  β‐hCG  trước  hút  nạo  rất  dao 
động, trường hợp có nồng độ β‐hCG thấp nhất 
là  11.674  mUI/mL,  trường  hợp  cao  nhất  có 
nồng độ β‐hCG lên đến 1.299.714 mUI/mL. Có 
92/131  (70,2%)  trường hợp có nồng độ β‐hCG 
trước  hút  nạo  ≥  100.000 mUI/mL.  Thời  gian 
phát hiện có biến chứng BNBNTT  trung bình 
là 4,3 tuần, trường hợp phát hiện sớm nhất  là 
1,5  tuần  sau hút nạo,  trễ nhất  là  11  tuần  sau 
hút  nạo,  có  tới  gần  50%  số  bệnh  nhân  phát 
hiện ở thời điểm 3,5 tuần. 
Bảng 1. Liên quan giữa BNBNTT với đặc điểm của 
đối tượng nghiên cứu: 
Đặc điểm 
BNBNTT 
Giá trị 
p Có 
n=42 (%) 
Không 
n=89 (%)
Tuổi mẹ 
< 20 6 (54,5) 5 (45,5) 0,236(1)
20-40 32 (29,6) 76 (70,4) 
> 40 4 (33,3) 8 (66,7) 
Đa sản Có 1 (33,3) 2 (66,7) 1,000
(1)
Không 41 (32,0) 87 (68,0) 
Số lần thai ngừng 
phát triển 
0 41 (33,9) 80 (66,1) 0,414(1)
1 1 (11,1) 8 (88,9) 
2 0 (0) 1 (100) 
Nhóm máu 
A 10 (34,5) 19 (65,5) 0,806(2)
B 12 (30) 28 (70) 
O 18 (34,6) 34 (65,4) 
AB 2 (20) 8 (80) 
Nang hoàng tuyến 
> 6cm 
Có 2 (66,7) 1 (33,3) 0,241(1)
Không 40 (31,2) 88 (68,7) 
Cường giáp Có 6 (50) 6(50) 0,198
(1)
Không 36 (30,3) 83 (69,7) 
Kích thước tử cung trung 
bình (cm) 
67,5 66,7 0,822(3)
Nồng độ β-hCG 
trước hút nạo 
(mUI/mL) 
≥ 100.000 33 (35,9) 59 (64,1) 0,151(2)
<100.000 9 (23,1) 30 (76,9) 
Fisher chính xác. Chi bình phương. t‐test. 
Kết  quả  khi  phân  tích  đơn  biến,  nhóm 
BNBNTT và nhóm khỏi bệnh khác nhau không 
có ý nghĩa thống kê về các đặc điểm: nhóm tuổi 
mẹ. đa sản, tiền sử số lần thai ngừng phát triển, 
nhóm máu, nang hoàng tuyến > 6cm, kích thước 
tử  cung,  cường giáp, và nồng  độ  β‐hCG  trước 
hút nạo ≥ 100.000 mUI/mL, với p > 0,05. 
Khi  tìm phân bố của nồng độ β‐hCG  trước 
hút nạo, và sau hút nạo (48 giờ, 1 tuần, 2 tuần) 
chúng tôi thấy rằng nồng độ β‐hCG trước và sau 
hút nạo  ở hai nhóm không  có phân phối bình 
thường, nhưng biến đổi log của nồng độ β‐hCG 
sau hút nạo có phân phối xấp xỉ bình thường. Vì 
vậy chúng tôi sử dụng log của biến số nồng độ 
β‐hCG khi phân tích thống kê. Khi so sánh giữa 
các mô hình  tiên  lượng BNBNTT  cho  thấy:  sử 
dụng nồng độ β‐hCG sau hút nạo tuần thứ 2 cho 
giá trị tiên đoán BNBNTT tốt với AUC = 0,80, và 
đây  là mô hình  tiên  đoán  tốt hơn mô hình  sử 
dụng  nồng  độ  β‐hCG  sau  hút  nạo  48  giờ  hay 
nồng độ β‐hCG sau hút nạo tuần thứ 1. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 44
Bảng 2. Nồng độ β‐hCG trong tiên lượng BNBNTT: 
Nồng độ β-hCG Log likelihood AUC Giá trị p*
Trước hút nạo: 80,360 0,063 
Sau hút nạo 48 giờ: -79,715 0,62 0,033 
Sau hút nạo tuần thứ 1: -76,480 0,64 0,012 
Sau hút nạo tuần thứ 2: -65,572 0,80 0,000 
Tỷ số của nồng độ β-hCG sau hút nạo 48 giờ/trước hút nạo: -81,817 0,51 0,404 
Tỷ số của nồng độ β-hCG sau hút nạo tuần thứ 1/trước hút nạo: -78,564 0,59 0,113 
Tỷ số của nồng độ β-hCG sau hút nạo tuần thứ 2/trước hút nạo: -65,957 0,79 0,000 
Tỷ số của nồng độ β-hCG sau hút nạo tuần thứ 2/sau hút nạo tuần thứ 1: -65,549 0,78 0,000 
* Hồi qui Logistic. 
Biểu đồ 1. Đường cong ROC. 
Tại  điểm  cắt  logb2  =  2,931  tương  ứng  với 
nồng  độ  β‐hCG  sau hút nạo  tuần  thứ hai: b2 = 
850 mUI/mL  cho  chỉ  số Youden  đạt giá  trị  lớn 
nhất  (Youdenmax  =  0,52),  đồng  thời  cũng  cho 
khoảng cách trên đường cong ROC là ngắn nhất 
(distmin  =  0,34).  Tại  điểm  cắt  của  nồng  độ  β‐
hCG sau hút nạo tuần thứ 2 ≥ 850 mUI/mL cho 
giá  trị  tiên  đoán  BNBNTT:  độ  nhạy  73%,  độ 
chuyên 79%, giá trị tiên đoán dương 62%, và giá 
trị tiên đoán âm 86%. 
Bảng 4. Phân tích hồi quy đa biến mối liên quan giữa 
các yếu tố với BNBNTT: 
Yếu tố OR(95% CI) Giá trị p* 
Nồng độ b-hCG sau hút 
nạo tuần thứ 2 (log) 
24,3 (6,6-89,3) 0,000 
Nồng độβ-hCG trước hút 
nạo (log) 
0,3 (0,1-1,7) 0,169 
Tuổi mẹ 0,9 (0,3-2,6) 0,781 
Nang hoàng tuyến 0,8 (0,2-3,1) 0,806 
Cường giáp 1,0 (0,2-5,6) 0,976 
Kích thước TC 0,9 (0,8-1,0) 0,114 
* Hồi qui Logistic. 
Biểu đồ 2. Đường cong ROC của nồng độ β‐hCG 
sau hút nạo tuần thứ 2. 
Sau khi đưa vào phân tích hồi quy đa biến, 
các yếu tố như nồng độ β‐hCG trước hút nạo, 
tuổi mẹ, nang hoàng tuyến, cường giáp và kích 
thước  TC  vẫn  không  liên  quan  có  ý  nghĩa 
thống kê với BNBNTT giống với kết quả khi 
phân tích đơn biến. Yếu tố nồng độ β‐hCG sau 
hút nạo tuần thứ 2 có OR tăng từ 10,4 lên 24,3; 
log likelihood cải thiện từ ‐65,5724 lên ‐60,6392, 
và  đây  là yếu  tố có  liên quan  độc  lập với kết 
cuộc BNBNTT. 
BÀN LUẬN 
Thai  trứng  là một bệnh  lý  có  tiềm năng ác 
tính đặc biệt là TTTP, vì vậy ngay sau khi được 
chẩn đoán bệnh nhân được theo dõi β‐hCG mỗi 
tuần  sau  khi  hút  nạo  để  phát  hiện  sớm 
BNBNTT. Nồng  độ  β‐hCG  trong  huyết  thanh 
được đo mỗi tuần cho đến khi âm tính 3 lần liên 
tiếp, sau đó  theo dõi β‐hCG  trong 6  tháng  tiếp 
theo.  Thời  gian  trung  bình  β‐hCG  về  âm  tính 
đầu tiên sau hút nạo  là 9 tuần(3). Giống như tác 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 45
giả Kang, nghiên cứu của chúng tôi cũng không 
tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa 
BNBNTT với các yếu tố: tuổi mẹ, tiền căn số lần 
thai ngừng phát triển, nang hoàng tuyến > 6cm, 
kích  thước TC,  cường giáp và nồng  độ  β‐hCG 
trước hút nạo ≥ 100.000 UI/L. Mặc dù nồng độ β‐
hCG  trước hút nạo  là một yếu  tố nguy  cơ  của 
BNBNTT trong bảng điểm tiên lượng của FIGO 
2000, nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy  nồng  độ  β‐hCG  trước  hút  nạo  >  100.000 
UI/L  không  làm  tăng  nguy  cơ  BNBNTT  sau 
TTTP (p = 0,151). Kết quả này giống với nghiên 
cứu  của  Kang  và Wolberg(4,7).  Kết  quả  nghiên 
cứu là phù hợp khi những thập niên gần đây với 
sự phát triển rộng rãi của siêu âm và xét nghiệm 
β‐hCG huyết thanh, chúng ta đã phát hiện sớm 
các trường hợp thai trứng nên mặc dù nồng độ 
β‐hCG khi phát hiện bệnh thấp hơn so với trước 
đây, tần suất xuất hiện các triệu chứng nội khoa 
cũng  giảm  đi  nhưng  tỉ  lệ  diễn  tiến  thành 
BNBNTT vẫn không giảm(0). 
Hóa dự phòng  có  hiệu  quả  làm  giảm  tỉ  lệ 
BNBNTT sau hút nạo thai trứng nhưng hiện nay 
không  được  khuyến  cáo  vì:  hóa  dự  phòng 
không bảo vệ tuyệt đối đối với BNBNTT nhưng 
có  độc  tính  cao,  lại  làm  tăng  nguy  cơ  kháng 
thuốc và  làm chậm  trễ việc điều  trị BNBNTT(3). 
Vì  các  biện  pháp  ngăn  chặn  sự  xuất  hiện  của 
BNBNTT  chưa  có  hiệu  quả  nên  cho  đến  nay 
trong  thai  trứng  việc  tiên  đoán  sớm  nguy  cơ 
BNBNTT vẫn là yếu tố quan trọng nhất giúp cải 
thiện tiên lượng bệnh.  
Kết  quả  nghiên  cứu  chúng  tôi  cho  thấy: 
trong 2  tuần  đầu  sau hút nạo, nồng  độ β‐hCG 
sau  hút  nạo  tuần  thứ  2  có  giá  trị  tiên  đoán 
BNBNTT tốt hơn nồng độ β‐hCG trước hút nạo 
và β‐hCG sau hút nạo  tại  thời điểm 48 giờ hay 
tuần  thứ  1. Nồng  độ  β‐hCG  sau hút nạo  tuần 
thứ 2 khi lấy tỷ số so với nồng độ β‐hCG trước 
hút nạo, hay khi lấy tỷ số so với nồng độ β‐hCG 
sau hút nạo  tuần  thứ  1  thì  các  tỷ  số này  cũng 
không làm tăng thêm giá trị tiên đoán BNBNTT 
so với giá  trị  tuyệt đối của nồng độ β‐hCG sau 
hút nạo tuần thứ 2 (Bảng 2). Hơn nữa, khi lấy tỷ 
số  như  vậy  lại  làm  phức  tạp  thêm  trong  tính 
toán, do đó chúng  tôi chỉ chọn giá  trị  tuyệt đối 
của nồng độ β‐hCG sau hút nạo  tuần  thứ 2 để 
tiên lượng khả năng diễn tiến thành BNBNTT. 
Tại ngưỡng chẩn đoán của nồng độ β‐hCG 
sau hút nạo tuần thứ 2 ≥ 850 mUI/mL cho giá trị 
tiên đoán BNBNTT khá tốt với: độ nhạy 73%, độ 
chuyên 79%, giá trị tiên đoán dương 62%, và giá 
trị tiên đoán âm 86%.  
Ngưỡng  chẩn  đoán  của  nồng  độ  β‐hCG 
sau hút nạo  tuần  thứ 2  trong nghiên cứu  của 
chúng  tôi  thấp hơn so với nghiên cứu của  tác 
giả Kang (850 mUI/mL với 2400 mUI/mL). Kết 
quả  nồng  độ  β‐hCG  sau  hút  nạo  tuần  thứ  2 
trong  nghiên  cứu  chúng  tôi  cho  giá  trị  tiên 
đoán BNBNTT  tốt hơn  so với kết quả nghiên 
cứu của Kang (Bảng 5). Sự khác biệt này có lẽ 
là do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi khác 
nhau  về  chủng  tộc,  địa  dư,  tiêu  chuẩn  chẩn 
đoán cũng như phương pháp chọn điểm cắt(4). 
Ngưỡng chẩn đoán của chúng tôi thấp hơn so 
với tác giả Kang có thể là do trong nghiên cứu 
chúng  tôi  bệnh  nhân  được  định  lượng  thêm 
nồng độ β‐hCG sau hút nạo 48 giờ sau đó cách 
khoảng mỗi tuần, do đó thời điểm định lượng 
nồng độ β‐hCG  tuần  thứ 2 sau hút nạo  trong 
nghiên cứu chúng tôi dài hơn 2 ngày so với tác 
giả  Kang,  và  dòng  máy  xét  nghiệm  trong 
nghiên cứu của chúng tôi không phát hiện tốt 
được các dạng lưu hành của β‐hCG(2). 
Tuy  nhiên,  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  vẫn 
còn  hạn  chế  nhất  định  do  phương  pháp  thực 
hiện đoàn hệ hồi cứu dựa trên hồ sơ bệnh án đã 
có  của bệnh viện nên  có nhiều yếu  tố  của  đối 
tượng nghiên cứu có thể ảnh hưởng lên nguy cơ 
xuất  hiện  BNBNTT  mà  chúng  tôi  không  thu 
thập được: kích  thước TC  so với  tuổi  thai,  tiền 
căn  tiếp xúc với hóa  chất,  chế  độ dinh dưỡng, 
hay  đời  sống kinh  tế Chúng  tôi  đã  lấy mẫu 
toàn  bộ  nhưng  cỡ mẫu  trong  nghiên  cứu  vẫn 
còn hạn chế. Nếu có điều kiện chúng tôi sẽ tiến 
hành nghiên cứu đoàn hệ  tiền cứu với cỡ mẫu 
lớn  hơn  được  ước  tính  theo  diện  tính  dưới 
đường cong để  làm  tăng  thêm  tính  tin cậy cho 
kết quả nghiên cứu. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 46
Bảng 5. Giá trị tiên đoán BNBNTT của nồng độ β‐hCG sau hút nạo tuần thứ 2: 
β-hCG sau hút nạo tuần thứ 2 (mUI/mL) 95%CI Độ nhạy Độ đặc hiệu GTTĐ (+) GTTĐ (-) OR 
Kang 2012 
≥ 2400 và < 2400 
64% 
(53-76) 
78% 
(73-84) 
49% 
(38-59) 
87% 
(83-92) 
6,5 
(2,6-10,4) 
Chúng tôi 
≥ 850 và < 850 
73% 
(58-86) 
79% 
(69-87) 
62% 
(47-75) 
86% 
(77-93) 
10,4 
(4,5-24,2) 
KẾT LUẬN 
Hồi cứu hồ sơ toàn bộ các bệnh nhân TTTP 
được hút nạo và  theo dõi  tại bệnh viện Hùng 
Vương  từ  tháng  11/2011  đến  tháng  11/2012, 
thu thập nồng độ β‐hCG trước‐sau hút nạo và 
các biến số khác được coi là yếu tố nguy cơ của 
BNBNTT,  đồng  thời  sử  dụng  các  phép  kiểm 
thống kê để tìm ra mối liên quan giữa nồng độ 
β‐hCG  sau  hút  nạo  và  kết  cuộc  BNBNTT  để 
nhằm  mục  đích  tiên  đoán  sớm  nguy  cơ 
BNBNTT, chúng tôi nhận thấy nồng độ β‐hCG 
sau hút nạo tuần thứ 2 là một yếu tố tiên lượng 
độc lập có ý nghĩa thống kê cho nguy cơ diễn 
tiến  BNBNTT  sau  hút  nạo  ở  các  bệnh  nhân 
TTTP. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Berkowitz RS, Goldstein DP (2013) ʺCurrent advances  in the 
management of gestational trophoblastic diseaseʺ. Gynecologic 
oncology, 128 (1), 3‐5. 
2. Cole LA (2009) ʺNew discoveries on the biology and detection 
of  human  chorionic  gonadotropinʺ.  Reproductive  biology  and 
endocrinology: RB&E, 7,8. 
3. Fu J, Fang F, Xie L, Chen H, He F, Wu T, Hu L, Lawrie TA 
(2012) ʺProphylactic chemotherapy for hydatidiform mole to 
prevent gestational trophoblastic neoplasiaʺ. Cochrane database 
of systematic reviews, 10, CD007289. 
4. Kang WD, Choi HS, Kim SM (2012) ʺPrediction of persistent 
gestational trophobalstic neoplasia: the role of hCG level and 
ratio  in  2  weeks  after  evacuation  of  complete  moleʺ. 
Gynecologic oncology, 124 (2), 250‐3. 
5. Kerkmeijer  LGW  (2010) Human  chorionic  gonadotropin  in  the 
prediction of persistent trophoblastic disease,  Ipskamp Drukkers, 
Enschede,Raboud University Nijmegen, 145‐132 
6. Soper  JT  (2006)  ʺGestational  trophoblastic diseaseʺ.Obstetrics 
and gynecology, 108 (1), 187‐176. 
7. Wolfberg  AJ,  Berkowitz  RS,  Goldstein  DP,  Feltmate  C, 
Lieberman E.  (2005)  ʺPostevacuation hCG  levels and  risk of 
gestational  trophoblastic neoplasia  in women with complete 
molar pregnancyʺ. Obstetrics and gynecology, 106 (3), 548‐52. 
Ngày nhận bài báo:       30/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:   02/12/2013 
Ngày bài báo được đăng:     05/01/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 vai_tro_cua_hcg_sau_hut_nao_thai_trung_toan_phan_trong_tien.pdf vai_tro_cua_hcg_sau_hut_nao_thai_trung_toan_phan_trong_tien.pdf