Cũng trong nghiên cứu này, sự tiến triển về số
lượng tiểu cầu cũng như bạch cầu là có ý nghĩa. Tất
cả 17 bệnh nhân đều tăng số lượng tiểu cầu sau can
thiệp. Mặc dù thời gian theo dõi chưa dài và số lượng
bệnh nhân còn ít, nhưng nghiên cứu đã cho thấy hiệu
quả của phương pháp đặc biệt ở những bệnh nhân
có chống chỉ định với các mổ cắt lách. Số lượng tiểu
cầu trung bình của các bệnh nhân đã tăng hơn gấp đôi
trước (47,39G/l) và sau (138,00G/l) can thiệp 1 tuần.
Kết quả này thống nhất với kết quả nghiên cứu của
Elmonem và cộng sự [8]. Trong 17 bệnh nhân, có 1
bệnh nhân xơ gan mật, giãn đường mật trong và ngoài
gan do sỏi ống mật chủ, trước nút mạch số lượng tiểu
cầu 55G/l, sau nút mạch 3 ngày, số lượng tiểu cầu tăng
lên 255 G/l đủ điều kiện để phẫu thuật, bệnh nhân được
chuyển đi mổ nội soi lấy sỏi ống mật chủ. 10/17 bệnh
nhân có kèm ung thư tế bào gan nguyên phát, những
bệnh nhân này đều được nút mạch hoá chất ung thư
gan, sau đó nút động mạch lách bán phần và đạt được
mục tiêu về tăng số lượng tiểu cầu, từ đó tăng khả năng
điều trị hoá chất toàn thân để kiểm soát ung thư tế bào
gan. Các bệnh nhân mang các đặc điểm và được điều
trị như trên đã được đề cập đến trong nghiên cứu của
Yoshihiko Ooka và cộng sự [7] cho thấy kết quả tốt.
Về vật liệu nút mạch, chúng tôi sử dụng hạt PVA
355-500µm và 500-710µm, Embozene 400µm và
500µm. Hiện chưa có nghiên cứu nào về hiệu quả của
các vật liệu nút mạch, nhưng sử dụng hạt dễ dàng hơn
trong việc kiểm soát phần nhu mô lách không ngấm
thuốc. Mặc dù hạt Embozene có kích thước đồng đều
và bề mặt mịn hơn hạt PVA, có khả năng gây tắc các
nhánh mạch nhỏ hơn, tuy nhiên với kích thước nhỏ, cả
hai loại vẫn đảm bảo về mặt kĩ thuật.
Trong nghiên cứu này cũng như các nghiên cứu
khác trên thế giới, chúng tôi nhận thấy rằng tăng thể
tích lách không ngấm thuốc dẫn đến tăng số lượng tiểu
cầu và bạch cầu nhưng đồng thời cũng tăng nguy cơ
và mức độ trầm trọng của biến chứng. Vài nghiên cứu
đánh giá sự tương quan giữa mức độ biến chứng của
nút mạch lách bán phần với tỷ lệ thể tích lách không
ngấm thuốc đã chỉ ra rằng mức độ trầm trọng của biến
chứng xuất hiện thường xuyên hơn ở những bệnh nhân
có phần nhu mô lách không ngấm thuốc nhiều hơn 70%
thể tích nhu mô lách. Trong nghiên cứu, chúng tôi cố
gắng giữ tỷ lệ phần nhu mô lách không ngấm thuốc
từ 50 - 70% thể tích lách để đạt kết quả tốt nhất và
tránh những biến chứng nặng tương tự như nghiên của
Zhu và cộng sự [9], 10/17 bệnh nhân đạt được phần
nhu mô lách không ngấm thuốc từ 50-70%, 5/17 bệnh
nhân có phần nhu mô lách hoại tử < 50%, và 2/17 bệnh
nhân còn lại có phần nhu mô lách hoại tử > 70%. Tất
cả bệnh nhân đều đạt hiệu quả tăng số lượng tiểu cầu.
Những bệnh nhân có phần nhu mô lách hoại tử < 50%
đang được tiếp tục theo dõi và có thể nút động mạch
lách lần 2 nếu cần thiết. Hội chứng sau nút mạch là tác
dụng phụ gặp nhiều nhất (17/17 bệnh nhân), bệnh nhân
tự biết và dễ dàng kiểm soát bởi các thuốc giảm đau
thông thường [10]. Tràn dịch màng phổi số lượng ít và
không cần dẫn lưu gặp ở 4/17 bệnh nhân, những bệnh
nhân này ít nhiều nhu mô 1/3 trên lách có phần bị hoại
tử, điều này có thể giải thích cho biến chứng tràn dịch
màng. 2/17 bệnh nhân có dịch ổ bụng trước can thiệp,
sau can thiệp lượng dịch ổ bụng tăng lên không đáng
kể, số lượng dịch được tính theo công thức của Noburu
Oriuchi và cộng sự [11], 3/17 bệnh nhân xuất hiện dịch
ổ bụng sau can thiệp, trong đó có 1 bệnh nhân số lượng
dịch ổ bụng rất nhiều và 1 bệnh nhân có huyết khối bán
phần tĩnh mạch cửa, cả 2 bệnh nhân này đều có phần
nhu mô lách hoại tử > 70%, và cần số ngày nằm viện
tăng lên để điều trị ổn các biến chứng.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 21 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của nút động mạch lách bán phần điều trị cường lách ở bệnh nhân xơ gan và giảm tiểu cầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/201752
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
VAI TRÒ CỦA NÚT ĐỘNG MẠCH LÁCH
BÁN PHẦN ĐIỀU TRỊ CƯỜNG LÁCH Ở
BỆNH NHÂN XƠ GAN VÀ GIẢM TIỂU CẦU
Role of partial splenic embolization for hypersplenism
in patients with liver cirrhosis and thrombocytopenia
Vũ Lê Minh*,Vũ Hoài Linh*, Nguyễn Mậu Định*, Phan Nhật Anh*,
Lê Thanh Dũng*
* Khoa CĐHA
Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
SUMMARY Objective: To evaluate the safety and efficacy of partial
splenic embolization (PSE) in treatment of hypersplenism due to
cirrhosis.
Patients and Methods: From December 2014 to February
2017, 17 cirrhotic patients with splenomegaly who have
thrombocytopenia were treated with PSE in Viet Duc Hospital.
Results: PSE was successfully performed in 17/17 patients
with increased thrombocytes counts in the number post - PSE.
The splenic infarction volume 70% are
achieved in 5/17 patients, 10/17 patients and 2/17 patients
respectively. 17/17 patients experienced post-embolization
syndrome, 4/17 patients developed pleural effusion, 5/17 patients
developed ascites, portal vein thrombosis was found in 1/17
patients.
Conclusion: PSE is a safe and efficient treatment of
hypersplenism in patients with cirrhosis and thrombocytopenia.
Key words: hypersplenism, thrombocytopenia, partial
splenic embolization.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/2017 53
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nút mạch lách bán phần do cường lách được báo
cáo đạt được những cải thiện tốt về chỉ số công thức máu
ngoại vi [1]. Phương pháp này được nhiều nước trên thế
giới áp dụng như một giải pháp điều trị thay thế cho mổ
cắt lách, do tổn thương nhẹ hơn, ít biến chứng hơn, hậu
phẫu nhẹ hơn cắt lách, giảm thời gian nằm viện, giảm chi
phí điều trị [2]. Ở Việt Nam phương pháp nút động mạch
lách bán phần chưa được áp dụng rộng rãi và có ít nghiên
cứu đánh giá hiệu quả cũng như biến chứng của phương
pháp. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu
đánh giá “Vai trò của nút động mạch lách bán phần điều trị
cường lách ở bệnh nhân xơ gan và giảm tiểu cầu”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
17 bệnh nhân cường lách sau xơ gan có giảm tiểu
cầu và/hoặc bạch cầu được tiến hành nút mạch lách
bán phần từ tháng 12/2014 đến tháng 02/2017.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân cho
nghiên cứu:
Bệnh nhân xơ gan - cường lách có: giảm tiểu cầu
(số lượng tiểu cầu £ 75G/L) và/hoặc giảm bạch cầu (số
lượng bạch cầu £ 3G/L).
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
Bệnh nhân xơ gan nặng (Child - Pugh C), các
trường hợp có suy thận nặng, bệnh nhân dị ứng với
thuốc cản quang.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tiến cứu và can thiệp
không đối chứng.
2.2.2. Chọn mẫu
Sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện
2.2.3. Phương tiện nghiên cứu
• Máy chụp mạch Allura Xpert- Phillips.
• Dụng cụ nút mạch: ống thông 5F (Yashiro,
Simmons-Terumo), dây dẫn 0.035’’, vi ống thông 2.7F.
• Vật liệu nút mạch: hạt PVA, hạt Embozene.
• Thuốc phục vụ can thiệp nội mạch.
2.2.4. Kỹ thuật can thiệp nội mạch lách
• Bước 1: Gây tê tại chỗ, đặt bộ mở thông động
mạch đùi (phải/trái) hoặc động mạch quay phải.
• Bước 2: Chụp động mạch thân tạng và chọn
lọc động mạch lách xác định số nhánh và phân bố các
nhánh, đo kích thước lách trước nút, khẳng định vị trí
đầu ống thông ở sau chỗ xuất phát của động mạch tuỵ
cuối cùng.
• Bước 3: Chọn lọc nhánh cấp máu cho nhu mô
cực giữa và/hoặc cực dưới lách bằng vi ống thông 2.7F.
• Bước 4: Sử dụng hạt PVA và/hoặc Embozene
nút lần lượt các nhánh mạch, ước lượng phần nhu mô
lách không ngấm thuốc đạt từ 50-70% thể tích lách thì
dừng lại.
• Bước 5: Chụp kiểm tra đánh giá phần nhu mô
lách ngấm thuốc.
• Bước 6: Rút toàn bộ ống thông, bộ mở thông
động mạch, băng ép cầm máu.
2.2.5. Chỉ tiêu nghiên cứu
• Chỉ tiêu nghiên cứu: tuổi, giới, lâm sàng, số
lượng tiểu cầu, bạch cầu, chiều dài dọc lách, thể tích
lách, tỷ lệ phần nhu mô lách không ngấm thuốc, kết quả
can thiệp, biến chứng sau can thiệp.
• Thành công kỹ thuật khi tiếp cận và ước lượng
phần nhu mô lách không ngấm thuốc đạt được từ 50-70%
thể tích lách. Thành công về lâm sàng khi số lượng tiểu
cầu > 75G/l.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
• Tổng số bệnh nhân: 17 (13 nam, 4 nữ), độ tuổi
trung bình: 52,18 ± 14,73.
Đặc điểm Bênh nhân (17)
• Đặc điểm lâm
sàng
− Thiếu máu
− Vàng da
− Lách to
− Cổ trướng
• HBsAg
• Phân loại Child:
− A
− B
2/17
1/17
6/17
2/17
13/17
9/17
8/17
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/201754
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3.2. Đặc điểm trên cắt lớp vi tính, chụp và can
thiệp mạch
Đặc điểm Bệnh nhân (17)
• Chiều dài dọc lách
(cm)
• Thể tích lách toàn
phần (cm3)
• Thể tích lách hoại
tử (cm3)
• Tỷ lệ phần thể tích
lách hoại tử ước
lượng trên CLVT
− <50%
− 50-70%
− >70%
• Vật liệu nút mạch
− PVA
− Embozene
− PVA +
Embozene
17,35 ± 3,18
820,26 ± 381,84
487,08 ± 337,71
5/17
10/17
2/17
14/17
2/17
1/17
3.3. Đặc điểm số lượng tiểu cầu, bạch cầu
trước và sau can thiệp
Thời
gian
Số lượng tiểu cầu Số lượng bạch
cầu
Trung
Bình
Độ
lệch
Giá
trị P
Trung
bình
Độ
lệch
Giá
trị P
Trước
nút
47,39 ±
12,16
4,45 ± 2,34
Sau
nút
3
ngày
79,39 ±
45,92
<
0,05
9,54 ± 3,64 <
0,05
7
ngày
138,00 ±
71,16
<
0,05
9,29 ± 4,17 <
0,05
3.4. Theo dõi sau điều trị
• Hội chứng sau nút mạch là biến chứng hay gặp
nhất trong nghiên cứu bao gồm: đau bụng, sốt, buồn
nôn và nôn. Hội chứng này gặp 17/17: 1/17 chỉ có sốt,
10/17 chỉ đau bụng, 6/17 cả sốt, đau bụng, buồn nôn và
nôn. Thời gian hết hội chứng sau nút mạch trung bình
là 6 ngày (từ 3-10 ngày).
• 2/17 bệnh nhân có cổ trướng trước và sau can
thiệp với mức độ dịch cổ trướng không thay đổi, 3/17
xuất hiện dịch cổ trướng.
• 4/17 bệnh nhân có dịch khoang màng phổi trái
số lượng ít (không cần dẫn lưu).
• 1/17 bệnh nhân có huyết khối bán phần tĩnh
mạch cửa.
IV. BÀN LUẬN
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, 17 bệnh
nhân gồm 13 nam và 4 nữ có độ tuổi trung bình là 52,
tất cả các bệnh nhân đều có số lượng tiểu cầu giảm
<75G/L, bệnh nhân biểu hiện xơ gan với 9/17 Child A
và 8/17 Child B, 13/17 bệnh nhân có xét nghiệm dương
tính với viêm gan B, khám lâm sàng phát hiện 6/17 bệnh
nhân có lách to. Cường lách được định nghĩa là sự tăng
kích thước của lách, theo Poulin và cộng sự, cường lách
trung bình khi đường kính lớn nhất của lách từ 11-20cm,
cường lách nặng khi đường kính này lớn hơn 20cm [3].
Cường lách là một diễn biến của tăng áp lực tĩnh mạch
cửa ở bệnh nhân xơ gan, bệnh có thể dẫn đến giảm số
lượng tiểu cầu và/hoặc bạch cầu. Ở bệnh nhân xơ gan,
giảm tiểu cầu tăng nguy cơ chảy máu, phải truyền tiểu
cầu nhiều lần (nguy cơ mắc bệnh tự miễn và nguy cơ
biến chứng liên quan tới truyền tiểu cầu tăng lên sau mỗi
lần truyền tiểu cầu) và tăng số lần nhập viện điều trị so
với bệnh nhân không có giảm tiểu cầu. Đặc biệt, giảm số
lượng tiểu cầu trầm trọng (<50G/l đến 75G/l) [4] là chống
chỉ định điều trị của điều trị liệu pháp interferon [5], liệu
pháp hoá học [6], các phẫu thuật lớn.
Theo Yasuhiro Miyake và cộng sự [5], giảm số
lượng tiểu cầu dẫn đến giảm liều của interferon và thất
bại trong việc kiểm soát virus viêm gan B/C ở bệnh nhân
xơ gan, nút động mạch lách bán phần có thể cho phép
sử dụng interferon an toàn hơn và tăng tỷ lệ kiểm soát
virus viêm gan B/C ở những bệnh nhân có xơ gan và
giảm tiểu cầu. Còn theo Yoshihiko Ooka [7], giảm tiểu
cầu do cường lách gây khó khăn trong điều trị ở bệnh
nhân xơ gan có ung thư biểu mô tế bào gan, những
bệnh nhân này sẽ rất hạn chế trong điều trị hoá chất
toàn thân do những hoá chất này gây giảm tiểu cầu. Nút
động mạch lách bán phần làm tăng số lượng tiểu cầu và
tăng khả năng điều trị hoá chất toàn thân ở những bệnh
nhân xơ gan có ung thư biểu mô tế bào gan.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/2017 55
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chiều dài dọc lách
trung bình 17,35 cm và thể tích lách trung bình 820,26
cm3, tất cả 17/17 bệnh nhân đều thích hợp với phương
pháp nút động mạch lách bán phần. Điều này phù hợp
với nghiên cứu Gangireddy và cộng sự [4], các tác giả
đã chỉ ra rằng thể tích lách > 400ml thích hợp với can
thiệp mạch hơn là phẫu thuật cắt lách.
Cũng trong nghiên cứu này, sự tiến triển về số
lượng tiểu cầu cũng như bạch cầu là có ý nghĩa. Tất
cả 17 bệnh nhân đều tăng số lượng tiểu cầu sau can
thiệp. Mặc dù thời gian theo dõi chưa dài và số lượng
bệnh nhân còn ít, nhưng nghiên cứu đã cho thấy hiệu
quả của phương pháp đặc biệt ở những bệnh nhân
có chống chỉ định với các mổ cắt lách. Số lượng tiểu
cầu trung bình của các bệnh nhân đã tăng hơn gấp đôi
trước (47,39G/l) và sau (138,00G/l) can thiệp 1 tuần.
Kết quả này thống nhất với kết quả nghiên cứu của
Elmonem và cộng sự [8]. Trong 17 bệnh nhân, có 1
bệnh nhân xơ gan mật, giãn đường mật trong và ngoài
gan do sỏi ống mật chủ, trước nút mạch số lượng tiểu
cầu 55G/l, sau nút mạch 3 ngày, số lượng tiểu cầu tăng
lên 255 G/l đủ điều kiện để phẫu thuật, bệnh nhân được
chuyển đi mổ nội soi lấy sỏi ống mật chủ. 10/17 bệnh
nhân có kèm ung thư tế bào gan nguyên phát, những
bệnh nhân này đều được nút mạch hoá chất ung thư
gan, sau đó nút động mạch lách bán phần và đạt được
mục tiêu về tăng số lượng tiểu cầu, từ đó tăng khả năng
điều trị hoá chất toàn thân để kiểm soát ung thư tế bào
gan. Các bệnh nhân mang các đặc điểm và được điều
trị như trên đã được đề cập đến trong nghiên cứu của
Yoshihiko Ooka và cộng sự [7] cho thấy kết quả tốt.
Về vật liệu nút mạch, chúng tôi sử dụng hạt PVA
355-500µm và 500-710µm, Embozene 400µm và
500µm. Hiện chưa có nghiên cứu nào về hiệu quả của
các vật liệu nút mạch, nhưng sử dụng hạt dễ dàng hơn
trong việc kiểm soát phần nhu mô lách không ngấm
thuốc. Mặc dù hạt Embozene có kích thước đồng đều
và bề mặt mịn hơn hạt PVA, có khả năng gây tắc các
nhánh mạch nhỏ hơn, tuy nhiên với kích thước nhỏ, cả
hai loại vẫn đảm bảo về mặt kĩ thuật.
Trong nghiên cứu này cũng như các nghiên cứu
khác trên thế giới, chúng tôi nhận thấy rằng tăng thể
tích lách không ngấm thuốc dẫn đến tăng số lượng tiểu
cầu và bạch cầu nhưng đồng thời cũng tăng nguy cơ
và mức độ trầm trọng của biến chứng. Vài nghiên cứu
đánh giá sự tương quan giữa mức độ biến chứng của
nút mạch lách bán phần với tỷ lệ thể tích lách không
ngấm thuốc đã chỉ ra rằng mức độ trầm trọng của biến
chứng xuất hiện thường xuyên hơn ở những bệnh nhân
có phần nhu mô lách không ngấm thuốc nhiều hơn 70%
thể tích nhu mô lách. Trong nghiên cứu, chúng tôi cố
gắng giữ tỷ lệ phần nhu mô lách không ngấm thuốc
từ 50 - 70% thể tích lách để đạt kết quả tốt nhất và
tránh những biến chứng nặng tương tự như nghiên của
Zhu và cộng sự [9], 10/17 bệnh nhân đạt được phần
nhu mô lách không ngấm thuốc từ 50-70%, 5/17 bệnh
nhân có phần nhu mô lách hoại tử < 50%, và 2/17 bệnh
nhân còn lại có phần nhu mô lách hoại tử > 70%. Tất
cả bệnh nhân đều đạt hiệu quả tăng số lượng tiểu cầu.
Những bệnh nhân có phần nhu mô lách hoại tử < 50%
đang được tiếp tục theo dõi và có thể nút động mạch
lách lần 2 nếu cần thiết. Hội chứng sau nút mạch là tác
dụng phụ gặp nhiều nhất (17/17 bệnh nhân), bệnh nhân
tự biết và dễ dàng kiểm soát bởi các thuốc giảm đau
thông thường [10]. Tràn dịch màng phổi số lượng ít và
không cần dẫn lưu gặp ở 4/17 bệnh nhân, những bệnh
nhân này ít nhiều nhu mô 1/3 trên lách có phần bị hoại
tử, điều này có thể giải thích cho biến chứng tràn dịch
màng. 2/17 bệnh nhân có dịch ổ bụng trước can thiệp,
sau can thiệp lượng dịch ổ bụng tăng lên không đáng
kể, số lượng dịch được tính theo công thức của Noburu
Oriuchi và cộng sự [11], 3/17 bệnh nhân xuất hiện dịch
ổ bụng sau can thiệp, trong đó có 1 bệnh nhân số lượng
dịch ổ bụng rất nhiều và 1 bệnh nhân có huyết khối bán
phần tĩnh mạch cửa, cả 2 bệnh nhân này đều có phần
nhu mô lách hoại tử > 70%, và cần số ngày nằm viện
tăng lên để điều trị ổn các biến chứng.
V. KẾT LUẬN
Nút động mạch lách bán phần là phương pháp an
toàn và hiệu quả trong điều trị cường lách ở bệnh nhân
xơ gan và giảm tiểu cầu.
VI. CA LÂM SÀNG
Ca lâm sàng: Bệnh nhân nam 62 tuổi có cường
lách do xơ gan, có tiểu cầu giảm thấp 26G/l, được nút
mạch hoá chất u gan sau đó nút động mạch lách bán
phần, tiểu cầu sau 1 tuần nút động mạch lách 136G/l.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/201756
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Noguchi, H., et al., Changes in platelet kinetics after a partial splenic arterial embolization in cirrhotic patients
with hypersplenism. Hepatology, 1995. 22(6): p. 1682-1688.
2. Schuppan, D. and N.H. Afdhal, Liver cirrhosis. The Lancet, 2008. 371(9615): p. 838-851.
3. Poulin, E., J. Mamazza, and C. Schlachta, Splenic artery embolization before laparoscopic splenectomy.
Surgical endoscopy, 1998. 12(6): p. 870-875.
4. Gangireddy, V., et al., Management of thrombocytopenia in advanced liver disease. Canadian Journal of
Gastroenterology and Hepatology, 2014. 28(10): p. 558-564.
5. Miyake, Y., et al., Partial splenic embolization prior to combination therapy of interferon and ribavirin in chronic
hepatitis C patients with thrombocytopenia. Hepatology Research, 2008. 38(10): p. 980-986.
6. Kauffman, C.R., et al., Partial splenic embolization for cancer patients with thrombocytopenia requiring systemic
chemotherapy. Cancer, 2008. 112(10): p. 2283-2288.
7. Ooka, Y., et al., Partial splenic embolization with transarterial chemoembolization in patients with hepatocellular
carcinoma accompanied by thrombocytopenia. BioMed research international, 2014. 2014.
8. Elmonem, S.A., et al., The outcome of partial splenic embolization for hypersplenism in the cirrhotic patients.
The Egyptian Journal of Radiology and Nuclear Medicine, 2011. 42(1): p. 35-42.
9. Zhu, K., et al., Partial splenic embolization for hypersplenism in cirrhosis: a long-term outcome in 62 patients.
Digestive and Liver Disease, 2009. 41(6): p. 411-416.
10. Sangro, B., et al., Partial splenic embolization for the treatment of hypersplenism in cirrhosis. Hepatology, 1993.
18(2): p. 309-314.
11. Oriuchi, N., et al., A new, accurate and conventional five-point method for quantitative evaluation of ascites
using plain computed tomography in cancer patients. Japanese journal of clinical oncology, 2005. 35(7): p. 386-
390.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/2017 57
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tính an toàn và hiệu quả điều trị cường lách ở bệnh nhân xơ gan và giảm tiểu cầu bằng
nút động mạch lách bán phần.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ 12/2014 đến 02/2017, 17 bệnh nhân cường lách có xơ gan và
giảm tiểu cầu được điều trị nút động mạch lách bán phần tại Bệnh viện Việt Đức.
Kết quả: Nút động mạch lách bán phần được thực hiện thành công ở 17/17 bệnh nhân với số lượng tiểu cầu
tăng lên sau nút mạch. Phần nhu mô lách hoại tử < 50% thể tích lách gặp ở 5/17 bệnh nhân, từ 50-70% thể tích gặp
ở 10/17 bệnh nhân và > 70% thể tích gặp ở 2/17 bệnh nhân. Hội chứng sau nút mạch gặp ở 17/17 bệnh nhân, tràn
dịch màng phổi gặp ở 4/17 bệnh nhân, dịch ổ bụng gặp ở 5/17 bệnh nhân, huyết khối tĩnh mạch cửa gặp ở 1/17.
Kết luận: Nút động mạch lách bán phần là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị cường lách ở bệnh
nhân xơ gan và giảm tiểu cầu.
Từ khoá: cường lách, giảm tiểu cầu, nút mạch lách bán phần.
Người liên hệ: Vũ Lê Minh, Khoa CĐHA bệnh viện Việt Đức Email: vuleminh156@gmail.com
Ngày nhận bài: 25.4.2017 Ngày chấp nhận đăng: 30.5.2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
vai_tro_cua_nut_dong_mach_lach_ban_phan_dieu_tri_cuong_lach.pdf