Năm là, cần xác định rõ ràng các sản phẩm có lợi
thế cạnh tranh chủ đạo của Việt Nam là gì để có những
chính sách hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp sản
xuất các mặt hàng đó. Việc lựa chọn này cần tuân
thủ những điều kiện như: (i) Nguồn lực hiện tại
của quốc gia có đáp ứng được việc sản xuất sản
phẩm đó hay không; (ii) Các điều kiện về thể chế
có phù hợp hay không, nếu không phù hợp thì
chỗ nào cần tháo gỡ; (iii) Xác định được vị thế của
sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế là gì,
vị thế dẫn đầu hay vị thế của người theo sau; (iv)
Để sản xuất ra những sản phẩm đó thì Nhà nước
sẽ cần thực hiện các chính sách kiến tạo như thế
nào cho phù hợp.
Sáu là, ban hành và thực hiện một cách cân bằng các
chính sách tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng
xã hội. Các nguồn vốn con người và nguồn vốn xã
hội cũng cần được quan tâm phát triển để có thể
gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế trong dài hạn,
cần xác định tăng trưởng kinh tế có thể đạt được
trạng thái bền vững khi cả nguồn vốn con người
và nguồn vốn xã hội được quan tâm phát triển một
cách đồng đều.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 392 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò kiến tạo của nhà nước trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20
phù hợp với điều kiện sẵn có của các nguồn lực mà
quốc gia đó sở hữu.
Tham khảo bảng tổng hợp các chiều cạnh, biến số
và chỉ số mô tả mối tương quan giữa nhà nước kiến
tạo và tăng trưởng kinh tế (Bảng 1). Có thể thấy, Nhà
nước kiến tạo thực hiện vai trò thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của mình thông qua 4 khía cạnh: (i) Tầm nhìn
và thiết lập các mục tiêu; (ii) Tạo lập các lợi thế cạnh
tranh; (iii) Chuyển đổi kinh tế; (iv) Chuyển đổi xã
hội. Cụ thể:
Về vai trò xác lập tầm nhìn và thiết lập các mục tiêu
tăng trưởng kinh tế của Nhà nước kiến tạo: Nhà nước
kiến tạo, xét về bản chất là Nhà nước định hướng
tăng trưởng kinh tế cho nền kinh tế thông qua
việc xác lập tầm nhìn dài hạn và các mục tiêu tăng
trưởng trong ngắn hạn và trung hạn. Nhà nước
kiến tạo sẽ xác lập tầm nhìn dựa trên sự tổng hợp
các mục tiêu kinh tế và chỉ số kinh tế trong ngắn
hạn và trung hạn hơn là việc đưa ra tầm nhìn vượt
quá năng lực thực hiện của nền kinh tế. Nhà nước
kiến tạo thiết lập các mục tiêu tăng trưởng dựa trên
các tiêu chí định lượng có thể kiểm định được và
các chỉ số kinh tế có thể đo lường được trong thực
hiện các chính sách kinh tế.
Về vai trò tạo lập các lợi thế cạnh tranh của Nhà nước
kiến tạo: Nhà nước tạo dựng và nuôi dưỡng những
lợi thế cạnh tranh mà doanh nghiệp tạo ra để làm
gia tăng lợi thế cạnh tranh của quốc gia về những
mặt hàng cụ thể. Ví dụ, Nhà nước Mỹ tạo điều kiện
để hãng Apple sản xuất các thiết bị di động bằng
chính sách, nguồn nhân lực, nguồn tài chính dồi
dào; Nhà nước Trung Quốc tạo điều kiện để các
doanh nghiệp công nghệ thông tin trong nước phát
Nhà nước kiến tạo
và vấn đề thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế có được là nhờ vào việc sử
dụng có hiệu quả các nhân tố đầu vào, gồm vốn vật
chất, vốn con người và khoa học công nghệ dưới
ảnh hưởng của các chính sách kinh tế của Nhà nước.
Vai trò kiến tạo của Nhà nước trong thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thực hiện bằng hệ thống các chính
sách kinh tế duy lý của mình. Các chính sách kinh tế
duy lý được xây dựng dựa trên những bằng chứng
thực nghiệm và kinh nghiệm tốt nhất của thế giới
vai TrÒ KiếN Tạo cỦa Nhà NưỚc
TroNg ThÚc ĐẨy TăNg TrưởNg KiNh Tế
Pgs., Ts. Bùi văN huyềN, Ts. Đỗ TấT cườNg - Viện Kinh tế (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) *
Có một sự đồng thuận chung giữa các nhà khoa học và hoạch định chính sách là Nhà nước thực hiện vai trò
kiến tạo trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua hoàn thiện thể chế, đổi mới phương thức điều hành
nền kinh tế và giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Trên cơ sở phân tích những thành tựu và hạn chế trong thực hiện
vai trò kiến tạo thúc đẩy tăng trưởng của Nhà nước, bài viết đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm thực
hiện vai trò kiến tạo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong tương lai ở Việt Nam.
Từ khóa: Kinh tế vĩ mô, Nhà nước kiến tạo, kinh tế, tài chính, tăng trưởng
There has been a compromise between
scientists and policy makers of the State to
implement the tectonic role to strengthen
economic growth by improving and renovating
economic administration mechanism and
stabilizing macroeconomics. On the basis of
analyzing achievements and limitations in
implementing the State’s tectonic role for
economic growth, the paper recommends
implications for Vietnam in the future.
Keywords: Macroeconomic stability, Tectonic State,
economic growth
Ngày nhận bài: 21/12/2017
Ngày hoàn thiện biên tập: 2/1/2018
Ngày duyệt đăng: 4/1/2018
*Email: dotatcuong@gmail.com
Xuân Mậu Tuất
21TÀI CHÍNH - Tháng 01/2018
hơn. Nhà nước kiến tạo thực hiện điều đó thông
qua việc gia tăng nguồn vốn con người, nguồn vốn
xã hội. Nguồn vốn con người được gia tăng bằng
việc cải cách và nâng cao chất lượng của hệ thống
giáo dục quốc gia, bao gồm giáo dục dậy nghề,
giáo dục phổ thông và giáo dục bậc cao. Nguồn
vốn xã hội được gia tăng bằng việc bảo tồn các giá
trị truyền thống của quốc gia và sáng tạo ra những
giá trị xã hội mới.
Những thành tựu trong kiến tạo
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở việt Nam
Thứ nhất, kiến tạo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đã
được thể hiện một cách nhất quán trong nhận thức và
tư duy điều hành của Chính phủ.
Trong Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường
kỳ tháng 4/2016, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn
mạnh: “Chính phủ thống nhất hành động với quyết
tâm cao nhất, kiên quyết đổi mới phương thức lãnh
đạo, quản lý, điều hành, loại bỏ dần biện pháp mệnh
lệnh – hành chính, xây dựng Chính phủ trong sạch,
liêm chính, Chính phủ kiến tạo phát triển”. Quan
điểm này hoàn toàn phù hợp khi Chính phủ tập
trung vào công tác xây dựng thể chế, chính sách,
tạo môi trường cho đầu tư kinh doanh phát triển.
Sự chuyển đổi này hàm ý chiến lược về vai trò kiến
tạo của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là, Chính phủ xác
định các mục tiêu tăng trưởng kinh tế sẽ khó có thể
đạt được nếu không tạo dựng được một môi trường
công bằng, minh bạch, tháo gỡ các rào cản đối với
doanh nghiệp, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp phát triển.
Thứ hai, vai trò kiến tạo thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế đã được lồng ghép vào những thay đổi trong
triển bằng việc hạn chế các tập đoàn công nghệ
thông tin lớn của thế giới thâm nhập vào nền kinh
tế của nước này. Cả Mỹ và Trung Quốc đều mong
muốn phát triển doanh nghiệp nội địa nhưng cách
thức thực hiện vai trò kiến tạo của 2 nhà nước này
khác nhau.
Nhà nước kiến tạo còn xác định được ngành công
nghiệp mũi nhọn của mình nhằm gia tăng lợi thế
cạnh tranh của quốc gia để làm trục tăng trưởng kinh
tế của quốc gia. Ví dụ, từ những năm 1960, Chính
phủ Hàn Quốc đã xác định ngành công nghiệp trọng
tâm của đất nước là ngành công nghiệp hóa chất. Đối
với trường hợp của Nhật Bản, Chính phủ nước này
đã chuyển hướng trọng tâm từ công nghiệp nhẹ sang
công nghiệp nặng và tập trung vào các ngành luyện
kim, chế tạo máy và hóa chất. Sự chuyển hướng đó
đã tạo nên những lợi thế cạnh tranh mới cho Nhật
Bản và tạo nên giai đoạn tăng trưởng thần kỳ của
quốc gia này.
Về vai trò kiến tạo của Nhà nước trong thực hiện các
chuyển đổi kinh tế: Trên cơ sở thực hiện 2 vai trò kiến
tạo nêu trên, Nhà nước thực hiện vai trò kiến tạo thứ
ba nhằm thực hiện các chuyển đổi về kinh tế. Lợi thế
cạnh tranh quốc gia được xác lập dựa trên những sản
phẩm có lợi thế cạnh tranh của những ngành công
nghiệp mũi nhọn. Các hoạt động đổi mới, sáng tạo
trong ngành công nghiệp đó cũng sẽ tạo ra sự lan tỏa
tới các ngành công nghiệp khác trong xã hội. Chuỗi
hành động đó sẽ tạo ra những chuyển đổi về cơ cấu
kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng.
Về vai trò kiến tạo của Nhà nước trong thực hiện
chuyển đổi xã hội: Khi các mục tiêu về tăng trưởng
kinh tế đã được thực hiện, Nhà nước kiến tạo sẽ
thực hiện tiếp các mục tiêu về xã hội nhằm chuyển
đổi xã hội từ trạng thái hiện tại sang trạng thái cao
bảNG 1: Sự vậN HÀNH Của CáC KHáI NIệm CăN bảN về NHÀ NướC KIếN Tạo
Khái niệm các chiều cạnh các biến số các chỉ số
Nhà nước
kiến tạo
Tầm nhìn và thiết
lập mục tiêu
Các mục tiêu tăng trưởng
kinh tế của quốc gia
Các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và các chỉ số và các chính sách
có liên quan.
Tạo lập các lợi thế
cạnh tranh
Đầu tư Đầu tư trong (cả kinh tế và xã hội) các ngành công nghiệp then chốt (dựa trên tiết kiệm cộng đồng).
Quản lý thị trường
Thể chế hóa sự hợp tác chặt chẽ giữa khu vực tư nhân, thúc đẩy
đầu tư vào những ngành then chốt, chính sách công nghiệp mạnh
mẽ, hỗ trợ và các thuế quan có chọn lọc.
Các thể chế nhà nước
hiệu quả Cơ quan hành chính nhà nước.
Chuyển đổi kinh tế Tăng trưởng kinh tế (bền vững)
Các chính sách kinh tế hợp lý, tăng trưởng GDP, sáng tạo trong
những ngành công nghiệp chủ chốt.
Chuyển đổi xã hội Vốn con người, vốn xã hội Bao gồm cả đào tạo từ xa (tỷ lệ nhập học), truy cập vào các dịch vụ tưởng ứng.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
22
doanh. Tuy nhiên, kể từ năm 2015 cho đến nay, vị trí
này luôn được hoán đổi ngoạn mục. Năm 2015, thứ
hạng của Việt Nam đã nâng 8 bậc lên vị trí 90; năm
2016 thứ hạng của Việt Nam tiếp tục nâng 8 bậc, lên
vị trí 82/190 nước được xếp hạng. Năm 2017, với
nhiều cải cách quyết liệt, thứ hạng của Việt Nam
tăng 14 bậc, lên vị trí 68 trong 190 nền kinh tế được
xếp hạng. Theo báo cáo Năng lực cạnh tranh quốc
gia hàng năm của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Việt
Nam xếp hạng 55 trong năm 2017, tăng 5 bậc so với
năm 2016 và 20 bậc so với năm 2012.
Thứ năm, phản ứng tích cực của khu vực tư nhân
trong nước trước việc thực hiện vai trò kiến tạo, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của Chính phủ.
Trong điều kiện môi trường đầu tư kinh doanh
không ngừng được cải thiện, tính chung năm 2017,
cả nước có 126.859 doanh nghiệp đăng ký thành
lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.280,9 nghìn
tỷ đồng, tăng 15,2% về số doanh nghiệp và tăng
45,4% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016;
Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành
lập mới đạt 10,2 tỷ đồng, tăng 26,2% so với cùng kỳ
năm 2016. Số việc làm tạo ra cho toàn bộ nền kinh
tế của các doanh nghiệp này là 1.161,3 nghìn việc
làm, giảm 8,4% so với cùng kỳ năm 2016. Tính đến
hết tháng 12 năm 2017, cả nước có 26.448 doanh
nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 0,9% so với
cùng kỳ năm 2016.
một số hạn chế trong kiến tạo
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở việt Nam
Bên cạnh các kết quả tích cực, vai trò kiến tạo của
Nhà nước trong phát triển kinh tế đang còn những
vấn đề cần lưu ý:
phương thức điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
Chính phủ Việt Nam đã gửi đi một thông điệp
mạnh mẽ trong điều hành kinh tế vĩ mô khi xác định
không đánh đổi mục tiêu tăng trưởng bền vững, thực
chất bằng những thành tích trong điều hành kinh tế
vĩ mô ngắn hạn. Việc chấp nhận kết quả tốc độ tăng
trưởng kinh tế không đạt như kế hoạch đề ra trong
năm 2016 (kế hoạch đặt ra 6,7% nhưng thực hiện chỉ
đạt 6,2%) thay vì gồng mình của cả nền kinh tế đã
cho thấy tầm nhìn trung hạn của Chính phủ. Sang
năm 2017, với phương châm không thực hiện tăng
trưởng bằng mọi giá, Chính phủ kiên quyết điều
hành kinh tế vĩ mô một cách thực chất thông qua việc
cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia. Kết quả tình hình kinh tế - xã
hội năm 2017 đã có nhiều chuyển biến tích cực, các
chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của năm đã đạt được và tăng
trưởng kinh tế đạt 6,81%. Đó là kết quả của nhiều nỗ
lực thực hiện vai trò kiến tạo của Chính phủ trong
năm 2017.
Thứ ba, việc thực hiện thực chất vai trò kiến tạo
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đã góp phần thay đổi
phong cách hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và các thành viên Chính phủ.
Trên nền tảng thay đổi căn bản về tư duy và
nhận thức của Chính phủ về điều hành kinh tế
vĩ mô theo hướng kiến tạo thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, Chính phủ đã chỉ đạo đề cao vai trò, trách
nhiệm cá nhân của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ. Với tư cách là thành viên Chính phủ,
người đứng đầu các bộ, ngành cần dành nhiều
thời gian để tập trung chỉ đạo xây dựng thể chế
luật pháp và chỉ đạo, điều hành bằng cơ chế,
chính sách, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch.
Với tinh thần quyết liệt như vậy,
các bộ, ngành, địa phương đều
được yêu cầu xây dựng chương
trình hành động cụ thể để thực
hiện Nghị quyết 35/NQ-CP về hỗ
trợ và phát triển doanh nghiệp
ngày 16/5/2016. Cơ chế này đã tháo
gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc cho
doanh nghiệp.
Thứ tư, nỗ lực của Chính phủ Việt
Nam trong tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp đã được quốc
tế ghi nhận.
Trong giai đoạn 2012 – 2014, Việt
Nam luôn đứng ở vị trí 98 – 99 trong
số 189 nước được xếp hạng theo
chỉ số mức độ thuận lợi trong kinh
Số vốn đăng ký (1000 tỷ đồng)
Xu hướng vốn đăng ký
Số việc làm ước tạo ra (1000 người)
Xu hướng việc làm tạo ra
0
20
60
80
40
100
140
160
180
120
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
90,3
104,1
125
118,1
98,4 97,8
119,2
105,6
110,6
93,5
94,5 113,1
101,7
64
80,6
119,2 109,9
164,1
96,3
88,6
90
132,4
62,3
62,5
HìNH 1: TìNH HìNH vốN ĐăNG Ký vÀ Số vIệC LÀm Tạo ra
Của DoaNH NGHIệP THeo THáNG TroNG Năm 2017
Nguồn: Tính toán dựa trên báo cáo kinh tế - xã hội các tháng trong năm 2017 của Tổng cục Thống kê
Xuân Mậu Tuất
23TÀI CHÍNH - Tháng 01/2018
Thứ ba, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong hoàn thiện
thể chế kiến tạo nhưng chất lượng thể chế so với các quốc
gia trong khu vực vẫn còn thấp.
Đa số các đánh giá quốc tế về chất lượng thể chế
của Việt Nam có thứ hạng thấp hơn so với các quốc
gia trong nhóm 6 quốc gia ASEAN. Với mẫu đánh
giá là 11 báo cáo đánh giá từ các tổ chức quốc tế, chất
lượng thể chế của Việt Nam được đánh giá tốt ở báo
cáo năng lực đổi mới sáng tạo, xếp hạng thứ 47 trong
127 quốc gia, đứng thứ 3 trong nhóm này, chỉ thấp
hơn Singapore và Malaysia. Trong các đánh giá còn
lại, Việt Nam được đánh giá về chất lượng thể chế
khá thấp so với các quốc gia trong nhóm 6 quốc gia
khu vực ASEAN.
một số hàm ý chính sách đối với việt Nam
Một là, hoạch định một chiến lược phát triển công
nghiệp phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Các
ngành công nghiệp nhẹ như may mặc và da giày,
các ngành công nghiệp chế biến nông-lâm-ngư
nghiệp, công nghiệp phụ trợ cần được coi là hướng
đi trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Bước tiếp
theo cần hướng đến những ngành công nghiệp
sử dụng nhiều công nghệ, tạo giá trị gia tăng cao.
Trong bước phát triển thứ hai, Chính phủ cần có
nhiều chính sách cụ thể để kiến tạo cơ hội phát triển
và mở rộng không gian phát triển của ngành công
nghiệp. Cụ thể là cần chuẩn bị các điều kiện và môi
trường phát triển các ngành cơ khí điện tử, công
nghệ thông tin. Chỉ có như vậy thì vai trò kiến tạo
của Nhà nước mới được thực hiện.
Chính sách công nghiệp cần được xây dựng dựa
trên lộ trình phát triển theo từng giai đoạn trung
và dài hạn một cách bền vững và gắn với từng đối
tượng cụ thể: (i) Loại sản phẩm; (ii) Cụm ngành,
lĩnh vực, vùng; (iii) Loại hình, quy mô và khu vực
doanh nghiệp; (iv) Gắn với chuỗi liên kết sản xuất.
Thứ nhất, việc xác lập một chiến lược phát triển công
nghiệp phù hợp với quá trình thúc đẩy tăng trưởng của
Việt Nam hiện vẫn còn hạn chế.
Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện Quyết định
2146/QĐ-TTg ngày 01/12/2014 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt “Đề án tái cơ cấu ngành Công thương
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
phát triển bền vững giai đoạn đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030” và Quyết định 11476/QĐ-BCT
ngày 18/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Công Thương
về việc ban hành Kế hoạch hành động của ngành
Công Thương thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành
Công Thương, kết quả vẫn còn nhiều hạn chế. Văn
kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương khóa XII đã chỉ ra: “Cơ cấu lại các ngành công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ chưa thực chất, hiệu
quả thấp”.
Trong thực tế, tăng trưởng công nghiệp vẫn chưa
được cải thiện cơ bản, năng suất lao động trong các
ngành công nghiệp hiện vẫn còn thấp. Các ngành
công nghiệp phần lớn chỉ tham gia ở các khâu giá trị
gia tăng thấp của chuỗi giá trị toàn cầu. Sự phát triển
của các ngành công nghiệp chưa đáp ứng được nhu
cầu của các ngành sản xuất trong nước, thậm chí mới
chỉ gia tăng ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, việc duy trì ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
chưa thực sự bền vững.
Cân đối ngân sách nhà nước tiếp tục khó khăn, nợ
công vẫn đang ở mức cao, nợ Chính phủ vượt trần
50% GDP, tỷ trọng chi đầu tư phát triển giảm mạnh
chỉ còn 15,2% trong tổng chi ngân sách năm 2015. Quy
mô đầu tư cho các lĩnh vực cần thiết để thúc đẩy tăng
năng suất lao động như cơ sở hạ tầng, giáo dục – đào
tạo, công nghệ bị ảnh hưởng nhiều. Lãi suất cho vay
hiện vẫn duy trì ở mức cao, việc kiểm soát lạm phát
và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế vĩ mô chưa
thực sự bền vững...
bảNG 2: CHấT LượNG THể CHế Của vIệT Nam vÀ mộT Số NướC TroNG KHu vựC
xếp hạng của các tổ chức quốc tế Tổng số Philippines indonesia việt Nam Thái lan malaysia singapore
Năng lực cạnh tranh toàn
cầu (gci 2016 - 2017)
138 57 41 60 34 25 2
môi trường kinh doanh (dB 2017) 190 99 91 82 46 23 2
Năng lực đổi mới sáng tạo (gci 2017) 127 73 87 47 51 37 7
cảm nhận tham nhũng (2015) 168 95 88 112 76 54 8
hiệu quả logistic (lPi 2016) 160 71 63 64 45 32 5
Tự do kinh tế (2017) 180 58 84 147 55 27 2
chính phủ điện tử (2016) 193 71 116 89 77 60 4
Quyền tài sản (iPri 2016) 128 63 67 85 65 26 6
Nguồn: Tổng hợp từ các tổ chức xếp hạng quốc tế
24
đó, có những chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích
các doanh nghiệp công nghệ áp dụng các kết quả
nghiên cứu trong nước; Lựa chọn và hỗ trợ triển
khai nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ
một số nhóm nhiệm vụ có quy mô lớn và sức lan tỏa
lớn trong nền kinh tế.
Năm là, cần xác định rõ ràng các sản phẩm có lợi
thế cạnh tranh chủ đạo của Việt Nam là gì để có những
chính sách hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp sản
xuất các mặt hàng đó. Việc lựa chọn này cần tuân
thủ những điều kiện như: (i) Nguồn lực hiện tại
của quốc gia có đáp ứng được việc sản xuất sản
phẩm đó hay không; (ii) Các điều kiện về thể chế
có phù hợp hay không, nếu không phù hợp thì
chỗ nào cần tháo gỡ; (iii) Xác định được vị thế của
sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế là gì,
vị thế dẫn đầu hay vị thế của người theo sau; (iv)
Để sản xuất ra những sản phẩm đó thì Nhà nước
sẽ cần thực hiện các chính sách kiến tạo như thế
nào cho phù hợp...
Sáu là, ban hành và thực hiện một cách cân bằng các
chính sách tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng
xã hội. Các nguồn vốn con người và nguồn vốn xã
hội cũng cần được quan tâm phát triển để có thể
gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế trong dài hạn,
cần xác định tăng trưởng kinh tế có thể đạt được
trạng thái bền vững khi cả nguồn vốn con người
và nguồn vốn xã hội được quan tâm phát triển một
cách đồng đều.
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ (2017), Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2017; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, Thủ tướng
Chính phủ trình bày tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV;
2. Chính phủ (10/2016), Báo cáo tóm tắt về Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế
giai đoạn 2016 – 2020;
3. Chính phủ (05/2016), Nghị quyết Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2016;
4. Đinh Tuấn Minh và Phạm Thế Anh (2016), Từ Nhà nước điều hành sang Nhà
nước kiến tạo, NXB Tri thức, Hà Nội;
5. Vũ Cương và Nguyễn Anh Tuấn, (2017), “Nhìn lại một năm thực hiện quyết
tâm xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động”, Kỷ yếu Hội thảo
quốc gia: “Triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam và vai trò của Nhà nước
kiến tạo trong hoàn thiện thể chế và môi trường kinh doanh”, NXB Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội;
6. Johnson, Chalmers (1982), MITI and the Japanese miracle: the growth of
industrial policy: 1925-1975: Stanford University Press;
7. Johnson, Chalmers (1999), The developmental state: Odyssey of a concept.
In M. Woo-Cummings (Ed.), The developmental state (pp. 32-60);
8. Krieckhaus, Jonathan (2002), Reconceptualizing the developmental
state: public savings and economic growth. World Development, 30(10),
1697-1712.
Đồng thời, cần đảm bảo tính đồng bộ trong quá
trình hoàn thiện các cơ chế, chính sách có tính
kiến tạo trong phát triển công nghiệp. Theo đó, coi
trọng sự cân đối, bố trí nguồn lực trong việc xây
dựng và tổ chức thực hiện các mục tiêu phát triển
công nghiệp đề ra.
Hai là, thực hiện một chiến lược phát triển nguồn
nhân lực theo chiều sâu. Nguồn nhân lực là then
chốt của quá trình tăng trưởng kinh tế và phát
triển bền vững. Vì vậy, cần đổi mới và phát triển
đào tạo nguồn nhân lực theo hướng chuẩn hóa,
công nghiệp hóa và hội nhập một cách toàn diện.
Chương trình đào tạo cần được đồng bộ hóa từ
mục tiêu đến nội dung chương trình, phương
pháp đào tạo và phương pháp đánh giá kết quả
đào tạo theo hướng đáp ứng nhu cầu sử dụng lao
động của thị trường. Chuẩn hóa các trình độ đào
tạo và sự liên thông giữa các trình độ đào tạo khác
nhau theo hướng tuân thủ những chuẩn mực quốc
tế. Đồng thời, cần có những khuyến khích hoạt
động đào tạo tại doanh nghiệp, khuyến khích sự
tham gia của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và
các hiệp hội nghề vào trong quá trình đào tạo và
sử dụng nguồn nhân lực sao cho có hiệu quả nhất.
Ba là, cần duy trì một môi trường kinh tế vĩ mô ổn
định. Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định sẽ làm cho các
cân đối lớn của nền kinh tế được duy trì trong một
thời gian dài. Các cân đối lớn được giữ ổn định sẽ là
điều kiện quan trọng cho việc thực hiện vai trò kiến
tạo trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong trung
và dài hạn.
Bốn là, xây dựng cơ chế, chính sách liên kết giữa 3
đơn vị: (i) Tổ chức nghiên cứu và phát triển khoa học
công nghệ; (ii) Đơn vị sản xuất, kinh doanh; và (iii)
Đơn vị đào tạo nhằm tăng cường sự gắn kết giữa
nghiên cứu và ứng dụng. Nhà nước thực hiện vai
trò kiến tạo thông qua việc cụ thể hóa cơ chế quản
lý hiệu quả gắn với trách nhiệm của nhà nghiên
cứu và doanh nghiệp công nghiệp trong việc áp
dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Thêm vào
Chính phủ việt Nam đã gửi đi
một thông điệp mạnh mẽ trong
điều hành kinh tế vĩ mô khi xác
định không đánh đổi mục tiêu tăng trưởng
bền vững, thực chất bằng những thành tích
trong điều hành kinh tế vĩ mô ngắn hạn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_kien_tao_cua_nha_nuoc_trong_thuc_day_tang_truong_kin.pdf