Thứ hai, về công tác chỉnh lý, hoàn
thiện dự án luật, pháp lệnh: Trên thực tế, các
vấn đề chính sách của dự án còn được tiếp
tục chỉnh lý, bổ sung, hoàn thiện kể từ sau
giai đoạn thẩm tra. Có thể nói hiện nay, do
chưa có quy định đầy đủ, cụ thể, thống nhất
về cách thức tổ chức việc chỉnh lý, hoàn
thiện dự án luật, pháp lệnh, quy trình chỉnh
lý giữa các cơ quan của Quốc hội, thậm chí
trong một Ủy ban chưa thống nhất, chất
lượng các dự án chưa đồng đều. Vì vậy, nội
dung này cần được quan tâm nhằm xây
dựng, hoàn thiện được quy trình tổ chức
chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh đầy đủ, hợp
lý hơn trong thời gian tới. Trong quá trình
này, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của
Quốc hội phát huy vai trò, trách nhiệm cùng
cơ quan trình dự án trong việc tiếp tục đề
xuất, phân tích chính sách, tham mưu chính
sách trình UBTVQH, Quốc hội.
Thứ ba, trong điều kiện thực tiễn ở nước
ta, trên cơ sở kế thừa và phát huy cơ chế
hiện hành, trên cơ sở quy định của Hiến
pháp (sửa đổi), trong toàn bộ quy trình lập
pháp, việc bảo đảm tính hợp hiến của hệ
thống văn bản pháp luật là một trong những
vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Trong
giai đoạn thẩm tra, chỉnh lý, xem xét thông
qua dự án, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
Luật BHVBQPPL theo hướng tiếp tục
khẳng định mạnh mẽ hơn vai trò của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, trong đó có
Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (nhấn mạnh
đến vai trò của toàn thể Ủy ban) trong việc
bảo đảm tính hợp hiến của của hệ thống
VBQPPL; quy định cụ thể nhằm nâng cao
hơn nữa vai trò, trách nhiệm thẩm tra bảo
đảm tính hợp hiến của hệ thống pháp luật
trong Luật BHVBQPPL.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề hoạch định, phân tích chính sách trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÑNH SAÁCH
VẤN ĐỀ HOẠCH ĐỊNH, PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH
TRONG LUÊÅT BAN HAÂNH VÙN BAÃN QUY PHAÅM PHAÁP LUÊÅT
ĐINH XUÂN THẢO*
TRẦN VĂN THUÂN**
1. Một số vấn đề chung về chính sách,
phân tích chính sách
a) Chính sách
Có nhiều cách hiểu, định nghĩa khác
nhau về chính sách. Hiểu một cách chung
nhất, có thể quan niệm chính sách là “sách
lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục
đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị
chung và tình hình thực tế mà đề ra chính
sách”1
Chính sách cần được xem xét ở các khía
cạnh khác nhau, ở khía cạnh độc lập hay
trong mối quan hệ với các phạm trù khác,
chẳng hạn như chính trị hay pháp quyền.
Nếu nhìn nhận chính sách như một hiện
tượng tĩnh và tương đối độc lập, thì chính
sách có thể được hiểu là những tư tưởng,
những định hướng, những mong muốn cần
hướng tới, cần đạt được; còn chiến lược hay
kế hoạch, thậm chí pháp luật chẳng qua chỉ
là hình thức, là phương tiện để chuyển tải,
để thể hiện chính sách. Nếu xét nội hàm của
khái niệm này trong mối quan hệ với chính
trị và pháp quyền thì khái niệm chính sách
cần được tìm hiểu ở một số điểm: (i) Chính
sách là sự thể hiện cụ thể của đường lối
chính trị chung. Dựa vào đường lối chính trị
chung, cương lĩnh chính trị của đảng cầm
quyền mà người ta định ra chính sách; (ii)
Chính sách là cơ sở nền tảng để chế định nên
pháp luật; hay nói cách khác, pháp luật là
kết quả của sự thể chế hóa chính sách. Có
thể có chính sách chưa được luật pháp hóa,
hoặc cũng có thể không bao giờ được luật
pháp hóa vì nó không được lựa chọn để luật
pháp hóa khi không còn phù hợp với tư
tưởng mới hay sự thay đổi của thực tiễn,
nhưng sẽ không có pháp luật phi chính sách
hay pháp luật ngoài chính sách. Theo nghĩa
đó, chính sách chính là linh hồn, là nội dung
của pháp luật, còn pháp luật là hình thức, là
phương tiện thể hiện của chính sách khi nó
được ban hành bởi Nhà nước theo một trình
tự luật định2.
Như vậy, chính sách luôn gắn liền với
quyền lực chính trị, với đảng cầm quyền và
với bộ máy quyền lực công - nhà nước. Nhà
nước xây dựng và ban hành pháp luật là thể
chế hóa chính sách của Đảng thành pháp
luật nhưng cũng là một bước xây dựng và
hoàn thiện chính sách. Và vì vậy, chính sách
34 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01 (257) T01/2014
* PGS.TS, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp.
** ThS, Trung tâm Nghiên cứu khoa học, Viện Nghiên cứu Lập pháp.
1 Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học ấn hành năm 1997, Hoàng Phê chủ biên, tr. 157.
2 TS. Đinh Dũng Sỹ, Chính sách và mối quan hệ giữa chính sách với pháp luật trong hoạt động lập pháp,
phapluat.chinhphu.vn/portal/page/portal/xaydungphapluat/tinchitiet?title=L%C3%BD+lu%E1%BA%ADn&perspec-
tiveId=621&viewMode=detail&articleId=10000104
Chóc Mõng N¨m Míi - 2014
35NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01 (257) T01/2014
và pháp luật là hai phạm trù rất gần gũi và
có những điểm giao nhau, là cơ sở tồn tại
của nhau trong một chế độ nhà nước pháp
quyền3. Đó cũng là lý do vì sao phân tích
chính sách có vị trí, vai trò rất quan trọng,
mang tính chất nền tảng trong hoạt động xây
dựng pháp luật.
b) Phân tích chính sách
Phân tích chính sách là lĩnh vực được
quan tâm nghiên cứu và có mức độ ứng
dụng cao trong nhiều lĩnh vực ở nhiều nước
trên thế giới.
Có nhiều quan niệm, định nghĩa khác
nhau về phân tích chính sách. Có ý kiến chỉ
ra rằng, phân tích chính sách là một quy
trình điều tra có tính đa ngành được thiết kế
nhằm tạo ra, đánh giá một cách phê phán và
truyền đạt thông tin giúp ích cho việc hiểu
và cải thiện chính sách4.
Trong hoạt động xây dựng pháp luật, có
ý kiến cho rằng phân tích chính sách là một
công đoạn hữu cơ, gắn kết trong quá trình
đó một cách khoa học, dựa trên các nhóm
mục tiêu, cách tiếp cận, các tiêu chí đánh
giá, nguồn lực và công cụ bảo đảm thực
hiện, sự thống nhất tác động phối hợp của
các chính sách khác và dựa trên hoàn cảnh
thực tế của các đối tượng điều chỉnh của
chính sách hướng tới; do pháp luật là hình
thức thể hiện của chính sách công, cho nên,
việc phân tích chính sách nhằm đảm bảo
rằng, pháp luật được ban hành ra sẽ tuân thủ
các nguyên tắc căn bản của việc thiết kế
chính sách công là: vì lợi ích công cộng; bắt
buộc thi hành; có hệ thống; tập hợp các
quyết định; liên đới; kế thừa lịch sử; quyết
định theo đa số5.
Phân tích chính sách là xem xét chính
sách từ nhiều góc độ khác nhau, đó là việc
phân tích tính phù hợp giữa chính sách với
chủ trương, đường lối của Đảng; phân tích
động lực của chính sách: chính sách được
ban hành thì động lực của chính sách đó là
gì; phân tích tính khả thi, tính hợp lý của
chính sách; phân tích để làm rõ chính sách
đó đơn giản hay phức tạp; phân tích để làm
rõ chính sách có tính cấp bách hay không;
phân tích để làm rõ chính sách dài hạn hay
là chính sách ngắn hạn; dự báo hiệu quả của
chính sách khi tổ chức thực hiện trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội; thời điểm ban hành
chính sách.v.v..6
Có nên tách biệt rõ quy trình hoạch
định, phân tích chính sách và quy phạm hóa
chính sách trong Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật (Luật BHVBQPPL)? Trong
hoạt động lập pháp - mà chúng tôi quan
niệm như một dòng chảy xuyên suốt qua các
công đoạn của quy trình lập pháp - từ khâu
khởi đầu cho đến khi văn bản được xem xét
thông qua, việc làm chính sách, quy phạm
hóa chính sách cũng là một sự tiếp nối liên
tục của quá trình đó. Phải ghi nhận rằng, ở
mỗi một công đoạn, vai trò, trách nhiệm của
các cơ quan hữu quan là khác nhau và phải
được minh định rõ, song tựu trung, đều phải
hướng đến việc hiện thực hóa các mục tiêu
chung của thể chế chính trị, nhất là các chủ
trương, đường lối của Đảng, vào yêu cầu
của thực tiễn cuộc sống. Trên thực tế, việc
hoạch định, làm chính sách thường bắt đầu
từ khâu đề xuất chính sách, kiến nghị xây
dựng luật, pháp lệnh, thường tập trung nhất
vào giai đoạn quy phạm hóa chính sách
(soạn thảo), song ngoại trừ những vấn đề có
tính cốt lõi, các vấn đề chính sách không vì
thế mà bất biến, nó còn có thể được tiếp tục
phát hiện, bổ sung, chỉnh lý, hoàn thiện, phát
3 TS. Đinh Dũng Sỹ, Tlđd.
4 Dẫn theo Tài liệu Chương trình Giảng dạy kinh tế Fullbright niên khoá 2011-2013 (Quy trình phân tích chính sách); Do
Nguyễn Thị Xinh Xinh biên dịch; Vũ Thành Tự Anh hiệu đính.
www.fetp.edu.vn/attachment.aspx?ID=2674 (truy cập ngày 15/11/2013).
5 Ths. Nguyễn Đức Lam, Phân tích chính sách trong quy trình lập pháp ở các nước.
phap-o-cac-nuoc.aspx
6 Ths Ngô Tự Nam, Tổng quan về phân tích chính sách
triển trải dài, xuyên suốt qua các công đoạn
khác của quy trình lập pháp, như giai đoạn
thẩm tra, trình Ủy ban thường vụ Quốc hội
(UBTVQH), Quốc hội cho ý kiến; chỉnh lý,
tiếp thu ý kiến (có thể qua cả việc lấy ý kiến
nhân dân); trình UBTVQH, Quốc hội xem
xét thông qua.
Trong thực tiễn lịch sử hoạt động lập
pháp của Nhà nước ta, có thể nói vấn đề
phân tích chính sách cũng đã được thể hiện
từ khá sớm, dưới những khía cạnh khác
nhau. Những năm gần đây, Luật
BHVBQPPL năm 2008 là văn bản đề cập
tương đối rõ, nhiều nhất vấn đề phân tích
chính sách trong hoạt động BHVBQPPL.
2. Vài nét về hoạch định, phân tích, quyết
định chính sách trong các văn bản về quy
trình xây dựng luật, pháp lệnh ở nước ta
và những vấn đề thực tiễn đang đặt ra
Đầu tiên, phải kể đến Nghị quyết số
91/NQ/HĐNN8 ngày 06/8/1988 của Hội
đồng Nhà nước về việc ban hành Quy chế
xây dựng luật và pháp lệnh. Bản quy chế có
10 chương, 44 điều, quy định mang tính
khái quát về quy trình hoạt động lập pháp
của Quốc hội. Có thể nói, đây là văn bản
đánh dấu mốc quan trọng trong hoạt động
lập pháp của Quốc hội nước ta tuy mới được
thể hiện dưới hình thức quy chế (được ban
hành kèm theo Nghị quyết của Hội đồng
Nhà nước); với nội dung tương đối tóm tắt.
Tuy nhiên, mặc dù còn chưa rõ nét, song
cũng có một số quy định mà ở đó, có “dáng
dấp” của vấn đề phân tích chính sách ở một
số nét nhất định trong quy trình xây dựng
luật, pháp lệnh, như:
(i) Trong Lời nói đầu của Quy chế quy
định: “Để kịp thời thể chế hóa chủ trương,
chính sách của Đảng, phục vụ ngày càng tốt
hơn yêu cầu quản lý xã hội theo pháp luật,
không ngừng tăng cường pháp chế XHCN.
Để bảo đảm phát huy tác dụng của công
tác xây dựng pháp luật, từng bước đưa công
tác này vào nền nếp, xác định rõ phạm vi,
quyền hạn nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước có trách nhiệm xây dựng luật, pháp
lệnh;
Quy chế này xác định trình tự, thủ tục
xây dựng luật và pháp lệnh”.
(ii) Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh
năm 1988 còn quy định việc thẩm tra; việc
tổ chức thảo luận tại các Đoàn đại biểu Quốc
hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, lấy ý kiến các chuyên gia...
Như vậy, một mạch nguồn xuyên suốt
trong các vấn đề liên quan đến chính sách
trong quy trình lập pháp đã được thể hiện rất
rõ trong phần “Lời nói đầu” của Quy chế
này, đó là nhằm để: kịp thời thể chế hóa chủ
trương, chính sách của Đảng, phục vụ ngày
càng tốt hơn yêu cầu quản lý xã hội theo
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa (XHCN); bảo đảm phát
huy tác dụng của công tác xây dựng pháp
luật, từng bước đưa công tác này vào nền
nếp, xác định rõ phạm vi, quyền hạn nhiệm
vụ của các cơ quan nhà nước có trách nhiệm
xây dựng luật, pháp lệnh
Tiếp đó, Quốc hội khóa IX đã ban hành
Luật BHVBQPPL tại kỳ họp thứ 10 ngày
12/11/1996, Luật có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/1997. Đây là văn bản có hiệu lực
pháp luật cao nhất quy định cụ thể, chi tiết
về quy trình xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL) của các cơ quan nhà
nước ở trung ương từ Quốc hội, UBTVQH,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ đến Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC), các bộ, cơ quan ngang bộ.
Luật BHVBQPPL năm 1996 đã được sửa
đổi, bổ sung một số điều vào tháng 12/2002.
Ngày 03/6/2008, Quốc hội đã ban hành
Luật BHVBQPPL mới, thay thế Luật
BHVBQPPL năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật BHVBQPPL
năm 2002.
Theo quy định của Luật BHVBQPPL
năm 2008, có thể tạm sắp xếp quy trình làm
luật gắn với các bước cơ bản sau: Lập
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; Soạn
thảo; Trình Chính phủ xem xét, quyết định
để trình Quốc hội (đối với các dự án do
Chính phủ chuẩn bị). Chính phủ tham gia ý
kiến (đối với dự án do cơ quan khác, tổ
chức, đại biểu Quốc hội trình); Thẩm tra
CHÑNH SAÁCH
36 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01 (257) T01/2014
Chóc Mõng N¨m Míi - 2014
37NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01 (257) T01/2014
(thường do Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội tiến hành); UBTVQH xem
xét, cho ý kiến; Quốc hội xem xét, thông qua
dự án luật, dự thảo nghị quyết/UBTVQH
xem xét thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo
nghị quyết.
Trong các bước này, so với Luật
BHVBQPPL năm 1996, các hoạt động có
liên quan đến hoạch định, xây dựng chính
sách nói chung và vấn đề phân tích chính
sách nói riêng đã được quy định ngày càng
cụ thể, rõ nét hơn.
a) Hoạch định, phân tích chính sách
trong hoạt động lập Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh
Điều 23 Luật BHVBQPPL năm 2008 đã
nêu rõ yêu cầu của hoạt động xây dựng,
hoạch định chính sách ngay từ khâu các chủ
thể có thẩm quyền thực hiện quyền đề nghị,
kiến nghị về luật, pháp lệnh. Theo đó, đề
nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải nêu rõ sự
cần thiết ban hành văn bản, đối tượng, phạm
vi điều chỉnh của văn bản, những quan điểm,
chính sách cơ bản, nội dung chính của văn
bản, dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm
cho việc soạn thảo văn bản, báo cáo đánh
giá tác động sơ bộ của văn bản, thời gian dự
kiến đề nghị Quốc hội, UBTVQH xem xét
thông qua. Những vấn đề này còn được xem
xét kỹ lưỡng thêm trong quy trình thẩm tra
đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh (Điều
25 Luật BHVBQPPL năm 2008); qua hoạt
động lập dự kiến chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh (Điều 26), cũng như trong
quá trình xem xét, thông qua, cũng như việc
điều chỉnh trong trường hợp cần thiết (Điều
27, Điều 29)...
Trong thời gian qua, việc xây dựng và
tổ chức triển khai thực hiện Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh phù hợp với yêu
cầu trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN và xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN.
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
trong nhiệm kỳ và hằng năm của Quốc hội
đã được Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC,
các cơ quan hữu quan chuẩn bị trên cơ sở
quán triệt và thể chế hóa đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, các nghị quyết
của Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính
trị về cải cách hành chính, cải cách tư pháp,
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam, nhất là Nghị quyết
số 48-NQ/TW.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được
giao, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội đã tham gia tích cực, hiệu quả vào
quá trình này, trong đó tập trung vào những
lĩnh vực thuộc phạm vi phụ trách của Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.
Căn cứ vào những định hướng, nhiệm vụ
được nêu trong Nghị quyết 48-NQ/TW, trên
cơ sở đánh giá về nhu cầu cấp bách điều
chỉnh pháp luật đối với các lĩnh vực, Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã
tích cực tham gia ý kiến đối với việc xây
dựng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
toàn khóa của Quốc hội, trong đó đã thể hiện
chính kiến và quan điểm về những dự án
luật, pháp lệnh trọng điểm thuộc phạm vi,
lĩnh vực mình phụ trách cần được ưu tiên,
kiến nghị UBTVQH đưa ra khỏi chương
trình chính thức đối với những dự án chưa
thực sự cấp thiết, ủng hộ đưa vào chương
trình chính thức những dự án mà thực tiễn
cuộc sống đòi hỏi Nhiều cơ quan của
Quốc hội đã chủ động và tích cực phối hợp
với các bộ, ngành, cơ quan chuẩn bị dự án
luật, pháp lệnh ngay từ giai đoạn đề xuất,
xây dựng chương trình pháp luật. Bên cạnh
đó, có cơ quan của Quốc hội còn chủ động
đề xuất sáng kiến xây dựng luật và được
giao nhiệm vụ chủ trì soạn thảo. Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh là cơ sở để tổ
chức công tác nghiên cứu, soạn thảo, thẩm
tra các dự án luật, pháp lệnh; tạo sự ổn định,
chủ động trong hoạt động lập pháp của
Quốc hội; góp phần quan trọng để các đạo
luật được Quốc hội ban hành có chất lượng,
kịp thời.
Dấu ấn quan trọng, đáng ghi nhận là đã
góp phần đổi mới khá cơ bản cách làm
chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật
của Quốc hội và Chính phủ, khắc phục tính
hình thức trong việc đề xuất các dự án luật,
pháp lệnh; góp phần làm cho chương trình,
kế hoạch lập pháp trở nên khoa học-thực
tiễn hơn thông qua yêu cầu phải làm rõ trong
các đề xuất chính sách, dự báo sơ bộ tác
động kinh tế-xã hội, lộ trình ban hành, cơ
quan soạn thảo và các điều kiện bảo đảm...
làm cho hoạt động xây dựng pháp luật sát
hợp hơn với yêu cầu của thực tiễn7.
Những vấn đề đặt ra
Trong tổ chức thực hiện, ở khâu chuẩn
bị, có những thời điểm, việc trình kiến nghị
xây dựng luật, pháp lệnh của một số cơ quan
chưa thực sự có đầy đủ căn cứ khoa học và
thực tiễn, chưa được quan tâm đúng mức;
còn thiên về tập hợp kiến nghị, đề xuất sáng
kiến xây dựng pháp luật mà chưa có sự phân
tích, đánh giá chính sách một cách thực sự
toàn diện đối với toàn bộ dự kiến chương
trình cũng như từng dự án cụ thể; tránh việc
lập ra chương trình quá đồ sộ, chưa dự liệu
được đầy đủ tình hình, nên có lúc dễ dẫn đến
cách nhìn nhận dường như việc “đưa vào
đưa ra các chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh rất là dễ dàng” như có ý kiến đã nêu8.
Việc thực hiện quy định của Luật
BHVBQPPL năm 2008 về đánh giá sơ bộ
tác động kinh tế-xã hội của đề xuất xây dựng
luật, pháp lệnh tại giai đoạn lập dự kiến
chương trình đòi hỏi đầu tư thích đáng về
nguồn nhân lực, kinh phí nhưng việc thực
hiện trên thực tế còn có bất cập. Có dự án
chất lượng báo cáo đánh giá tác động còn
chưa cao, thiếu báo cáo về bảo đảm nguồn
lực tài chính để thi hành luật, nhất là đối với
các dự án chứa đựng chính sách, chế độ mới,
đòi hỏi kinh phí lớn để thực hiện; một số dự
án được kiến nghị đưa vào chương trình
không bảo đảm thời hạn theo quy định của
pháp luật. Về quy định của Luật, nội dung
quy định về đánh giá tác động đối với dự
thảo văn bản còn chưa thật cụ thể. Việc xem
xét về sự cần thiết ban hành của từng dự án
để đưa vào Chương trình trong quá trình
thẩm tra có trường hợp chưa được xem xét
kỹ tính khả thi và khả năng dự báo khi đưa
các dự án vào Chương trình. Có trường hợp,
cơ quan thẩm tra chưa được cung cấp kịp
thời, đầy đủ thông tin, chưa đủ cơ sở khoa
học và căn cứ thực tiễn để đề xuất về số
lượng, thứ tự ưu tiên của các dự án.
Về mặt quy định của Luật, trong lập
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, Luật
BHVBQPPL năm 2008 đã quy định việc
“dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh phải được đăng tải trên Trang thông tin
điện tử của Quốc hội” (khoản 2 Điều 26).
Tuy nhiên, cơ chế nghiên cứu tiếp thu các ý
kiến góp ý, phản hồi trong trường hợp này
lại chưa được quy định thật rõ, cụ thể.
b) Hoạch định, phân tích chính sách
trong hoạt động soạn thảo
Có thể nói, việc hoạch định, xây dựng,
thể hiện các chính sách cụ thể được thể hiện
khá tập trung trong hoạt động soạn thảo
VBQPPL. Luật BHVBQPPL đã quy định cụ
thể về nhiệm vụ liên quan đến hoạch định,
phân tích chính sách của Ban soạn thảo
(Điều 32 Luật BHVBQPPL), nhiệm vụ của
cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo (Điều 33),
nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đại biểu
Quốc hội trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo
nghị quyết (Điều 34); hoạt động lấy ý kiến
đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị
quyết (Điều 35); công tác thẩm định (Điều
36).v.v..
Quy trình xây dựng, BHVBQPPL đã có
những đổi mới quan trọng theo hướng ngày
càng minh bạch, chặt chẽ, dân chủ, huy
động trí tuệ của xã hội vào hoạt động xây
dựng pháp luật. Nguyên tắc bảo đảm tính
công khai trong quá trình xây dựng,
BHVBQPPL; bảo đảm tính minh bạch trong
các quy định của VBQPPL đã được ghi nhận
trong Luật BHVBQPPL. Đã hình thành cơ
chế mở và bắt buộc đăng tải công khai dự
thảo VBQPPL trên trang thông tin điện tử
của Chính phủ và của cơ quan soạn thảo để
thu hút sự tham gia rộng rãi của nhân dân
vào quá trình xây dựng pháp luật.
Bên cạnh đó, hoạt động xây dựng pháp
luật thời gian qua tiếp tục bảo đảm phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên của Mặt trận. Các dự
CHÑNH SAÁCH
38 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01 (257) T01/2014
7 Tham khảo thêm: Báo cáo sơ kết Kế hoạch số 900/UBTVQH11 thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
8 Xem thêm: Ý kiến phát biểu của ĐBQH Chu Sơn Hà tại phiên thảo luận tại Hội trường sáng ngày 22/11/2013, kỳ họp thứ
6, Quốc hội khoá XIII.
Chóc Mõng N¨m Míi - 2014
39NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01 (257) T01/2014
án luật, pháp lệnh quan trọng đều có đại diện
Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tham gia với tư cách là thành viên Ban
soạn thảo, Tổ biên tập... Việc tham gia phối
hợp một cách tích cực, chủ động nêu trên đã
góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện
dự thảo văn bản ngày càng bảo đảm hơn về
tiến độ và chất lượng.
Một số vấn đề đặt ra
- Trong hoạt động soạn thảo: Hoạt động
của tập thể Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án
luật, pháp lệnh có trường hợp hiệu quả chưa
cao; việc tổ chức điều tra, khảo sát, đánh giá
thực trạng hoạt động liên quan đến văn bản
chưa được quan tâm đúng mức; chưa chú
trọng đến việc thu thập và xử lý thông tin,
tài liệu. Công đoạn phân tích chính sách,
đánh giá tác động trước khi xây dựng dự
thảo luật có trường hợp chưa được Ban soạn
thảo thực hiện một cách kỹ lưỡng dẫn đến
nội dung của một số dự án luật, pháp lệnh
nếu xét ở giai đoạn trình so với văn bản luật,
pháp lệnh khi được thông qua thay đổi
nhiều9.
- Việc tổ chức đánh giá tác động và xây
dựng báo cáo đánh giá tác động của dự thảo
văn bản đã được quy định trong Luật
BHVBQPPL năm 2008, đây là một trong
những quy định có ý nghĩa quan trọng, thiết
thực trong quy trình hoạch định, phân tích
chính sách. Tuy nhiên, toàn bộ các vấn đề
liên quan đến đánh giá tác động quy định
trong Luật còn khá sơ lược (Điều 33 của
Luật chỉ nêu: nội dung của báo cáo đánh giá
tác động phải nêu rõ các vấn đề cần giải
quyết và giải pháp đối với từng vấn đề đó,
chi phí, lợi ích của các giải pháp; so sánh chi
phí, lợi ích của các giải pháp...). Từ thực tiễn
việc xây dựng các báo cáo đánh giá tác động
đối với các dự án thời gian qua, nhằm bảo
đảm kỹ lưỡng, chuẩn xác hơn trong việc
thực hiện đánh giá tác động làm căn cứ cho
việc quyết định chính sách, thì việc nghiên
cứu để quy định rõ, cụ thể hơn về các vấn
đề liên quan đến việc đánh giá tác động của
dự thảo cũng là vấn đề cần được quan tâm.
c) Hoạch định, phân tích chính sách
trong hoạt động thẩm tra, chỉnh lý dự án
- Trong thẩm tra dự án luật, pháp lệnh,
việc cung cấp thông tin có dự án thực hiện
chưa tốt, dẫn đến khi thẩm tra thiếu thông
tin về dự án, ảnh hưởng đến chất lượng báo
cáo thẩm tra. Có trường hợp, do việc nghiên
cứu, xây dựng chính sách trong giai đoạn
soạn thảo còn chưa bảo đảm đầy đủ chất
lượng, các cơ quan thẩm tra vừa phải tiếp
tục phân tích chính sách, vừa hoàn thiện về
kỹ thuật nên đã ảnh hưởng tới việc tập trung
vào thực hiện nhiệm vụ chính của cơ quan
thẩm tra. Có một thực tế là trong hoạt động
thẩm tra, có ý kiến cho rằng thẩm tra “chay”
là vấn đề cần tránh; song không phải tất cả
các Uỷ ban trong quá trình thẩm tra đều có
các hoạt động khảo sát, đánh giá để từ đó có
căn cứ thực tiễn để thẩm tra các dự án được
chất lượng hơn10.
- Công tác chỉnh lý, hoàn thiện dự án
luật, pháp lệnh: có thể nói, việc xây dựng
được một quy trình hợp lý, hoàn chỉnh sẽ có
tác động rất lớn đến chất lượng của việc tiếp
tục hoàn chỉnh, bổ sung các vấn đề liên quan
đến chính sách của dự thảo văn bản ở công
đoạn này. Thực tế hiện nay, do chưa có quy
định đầy đủ, cụ thể, thống nhất về cách thức
tổ chức việc chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật,
pháp lệnh, quy trình chỉnh lý giữa các cơ
quan của Quốc hội chưa hoàn toàn thống
nhất, chất lượng các dự án chưa đồng đều.
Nội dung này cũng cần được quan tâm
nghiên cứu nhằm xây dựng, hoàn thiện được
quy trình tổ chức chỉnh lý dự án luật, pháp
lệnh đầy đủ, hợp lý hơn trong thời gian tới.
- Có những dự án nếu so với lúc trình
sang Quốc hội, UBTVQH đã có những thay
đổi đáng kể so với thời điểm xem xét thông
qua; về vấn đề này, có ý kiến nhận định: “có
những dự thảo luật, Chính phủ trình với
Quốc hội nhưng khi thông qua thì chất
lượng, cơ chế, chính sách như ban đầu thay
đổi rất nhiều, có những luật đến 60-70%”11.
Trên thực tế, điều này cũng gợi lên một
vấn đề rất đáng suy nghĩ, bởi vì có thể xuất
9 Báo cáo sơ kết Kế hoạch số 900/UBTVQH11..., Tlđd.
10 Xem thêm: Ý kiến phát biểu của ĐBQH Chu Sơn Hà tại phiên thảo luận tại Hội trường sáng ngày 22/11/2013, kỳ họp thứ
6, Quốc hội khoá XIII.
hiện trường hợp báo cáo đánh giá tác động
của văn bản đó (do cơ quan trình dự án thực
hiện) đã trở nên “lạc hậu” quá xa so với dự
thảo văn bản được Quốc hội, UBTVQH
chuẩn bị xem xét thông qua (do đã có sự
chỉnh lý đáng kể trong quá trình thẩm tra,
chỉnh lý, tiếp thu ý kiến...). Trên thực tế,
hoàn toàn có thể xuất hiện, nảy sinh những
vấn đề mới về mặt chính sách trong quá
trình này; do đó, phải nói rằng đây là vấn đề
cần tính toán kỹ để tránh “khoảng trống” có
thể phát sinh do chưa dự liệu, đánh giá
trước, nhằm bảo đảm tính khả thi của văn
bản, các nguồn lực bảo đảm... cũng như
tránh được khả năng xuất hiện những tác
động bất lợi của văn bản khi thực thi trong
thực tiễn.
3. Một số kiến nghị về công tác hoạch
định, phân tích chính sách trong quy
trình xây dựng luật, pháp lệnh hiện nay
Có thể nói, toàn bộ các quy định của
Luật BHVBQPPL hiện hành có liên quan
đến vấn đề quy trình lập pháp, từ giai đoạn
lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh,
việc soạn thảo văn bản; hoạt động thẩm tra;
hoạt động xem xét, cho ý kiến của
UBTVQH; hoạt động lấy ý kiến nhân dân,
ý kiến đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội đến hoạt động xem xét thông qua
dự án về cơ bản là phù hợp, phát huy tác
dụng trong thực tiễn hoạt động BHVBQPPL
ở nước ta. Trên thực tế, kể từ khi Luật
BHVBQPPL năm 1996 được ban hành,
trong quá trình áp dụng, đã được sửa đổi, bổ
sung một số điều vào năm 2002; tiếp đó, đã
có những sửa đổi, bổ sung quan trọng đánh
dấu bằng việc Quốc hội thông qua Luật
BHVBQPPL năm 2008. Song cũng từ thực
tiễn thời gian qua, xét ở khía cạnh các vấn
đề liên quan đến xây dựng, quyết định chính
sách, cho thấy có những nội dung quy định
của Luật BHVBQPPL cần được tiếp tục
nghiên cứu xem xét để điều chỉnh cho hợp
lý hơn.
a) Trong việc lập và thông qua
Chương trình xây dựng VBQPPL
- Đổi mới tư duy trong việc lập và thông
qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
theo hướng: việc xây dựng chính sách pháp
luật của các dự án luật, pháp lệnh phải được
hoàn thành cơ bản cùng với việc thông qua
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh,
trong đó: các bộ, ngành hình thành rõ ràng
chính sách ngay trong các đề xuất xây dựng
luật, pháp lệnh; Chính phủ xem xét, duyệt
và chịu trách nhiệm về các chính sách trong
các dự án luật, pháp lệnh được đưa vào dự
kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
trình Quốc hội; Quốc hội phê chuẩn, thông
qua Chương trình cũng đồng thời là phê
chuẩn các chính sách do Chính phủ đề xuất
và các vấn đề chính sách tiếp tục được hoàn
thiện trong quá trình soạn thảo, thẩm tra,
chỉnh lý, xem xét thông qua các dự án luật,
pháp lệnh.
Việc nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
việc đề xuất, phân tích chính sách ngay từ
khâu ban đầu trong quy trình lập pháp có ý
nghĩa lớn, nhằm tăng cường tính chịu trách
nhiệm, tính chủ động của các cơ quan công
quyền trong hoạt động lập pháp, góp phần
tăng cường tính khả thi của Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh. Tuy nhiên, bên
cạnh những vấn đề có tính then chốt, nhiều
vấn đề về chính sách khác có thể không dự
liệu được hết ngay từ đầu, do vậy, việc tiếp
tục bổ sung, hoàn thiện chính sách trong quá
trình soạn thảo, thẩm tra, xem xét thông qua
(kể cả thông qua hoạt động lấy ý kiến
chuyên gia, các nhà khoa học, các tầng lớp
nhân dân) là điều cần thiết.
- Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
cần nghiên cứu việc lập theo hướng mở, kịp
thời đáp ứng nhu cầu xây dựng thể chế đặt
ra trong quản lý nhà nước. Do đó, cần có
quy định khác nhau về việc lập Chương
trình hằng năm và Chương trình nhiệm kỳ.
Chương trình nhiệm kỳ phải có tính định
hướng, chiến lược và linh hoạt; Chương
trình hằng năm phải bám sát thực tiễn cuộc
sống, sự cân đối trong thực hiện chương
trình giữa các năm trong nhiệm kỳ Quốc hội
và có tính khả thi cao, tránh dồn quá nhiều
dự án vào năm cuối nhiệm kỳ. Việc lập
Chương trình theo hướng phản ánh được
CHÑNH SAÁCH
40 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01 (257) T01/2014
11 Xem thêm: ý kiến phát biểu của ĐBQH Bùi Sỹ Lợi trong phiên thảo luận tại Hội trường sáng ngày 22/11/2013, kỳ họp thứ
6, Quốc hội khoá XIII.
Chóc Mõng N¨m Míi - 2014
41NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01 (257) T01/2014
thực chất nhu cầu cần có pháp luật điều
chỉnh của xã hội, bảo đảm quyền trình dự án
luật, pháp lệnh của các chủ thể.
Đối với Chương trình nhiệm kỳ, thay vì
việc lập một danh mục cứng các dự án như
cách làm hiện nay thì nên nghiên cứu việc
xây dựng một kế hoạch lập pháp cho cả giai
đoạn theo hướng mở, trong đó xác định các
lĩnh vực được ưu tiên (mỗi lĩnh vực sẽ liệt
kê các nội dung cụ thể, tương đối chi tiết -
tương ứng với nội dung của các dự án cần
được xây dựng); xác định chỉ tiêu phấn đấu
(số lượng văn bản dự kiến được thông qua,
số lượng dự án sẽ được cho ý kiến, số lượng
dự án được phân công cho các cơ quan để
triển khai việc soạn thảo). Trên cơ sở kế
hoạch này, Quốc hội quyết định Chương
trình hằng năm dựa vào các tiêu chí: dự án
thuộc lĩnh vực ưu tiên; mức độ, chất lượng
chuẩn bị của dự án; số lượng dự án đưa vào
chương trình phù hợp với điều kiện thực tế
của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội;
bảo đảm thực hiện chỉ tiêu đã đề ra trong
Chương trình nhiệm kỳ12.
- Trong quy trình xem xét, thông qua
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, cần
nghiên cứu đổi mới một số điểm sau đây:
(i) Gia tăng chất lượng của công tác xây
dựng, phân tích chính sách, theo đó, quy
định rõ thời hạn, nội dung, trách nhiệm của
các chủ thể có quyền trình dự án luật trong
việc đề xuất đưa các dự án vào Chương
trình; nghiên cứu việc xây dựng quy trình
xem xét tiếp thu sáng kiến pháp luật của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân để làm cơ sở cho
việc xem xét, quyết định Chương trình nhằm
phản ánh được sát thực nhu cầu của xã hội.
(ii) Coi việc lập dự kiến Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh là giai đoạn phân
tích chính sách trong quá trình tiền soạn thảo.
Việc phân tích chính sách được làm tốt từ
giai đoạn này, có cơ sở khoa học, thực tiễn
sẽ tạo thuận lợi cho việc tiếp tục hoàn thiện
các vấn đề về chính sách trong quá trình
Quốc hội xem xét thông qua luật sau này.
(iii) Cần tập trung nâng cao chất lượng
ở khâu thảo luận, quyết định đưa dự án luật
vào Chương trình hằng năm. Theo đó cần bố
trí thời gian hợp lý để đại biểu Quốc hội thảo
luận kỹ về từng dự án, bao gồm các vấn đề
về tên gọi, đối tượng, phạm vi điều chỉnh,
quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung
chính của văn bản, thời gian dự kiến trình
Quốc hội xem xét cho ý kiến, thông qua.
Đồng thời, coi trọng đánh giá tác động sơ bộ
của dự án trên cơ sở đề xuất của cơ quan
trình, ý kiến của cơ quan thẩm tra để làm
định hướng cho việc soạn thảo dự án luật
sau này13.
- Như đã đề cập ở trên, về mặt quy định
của Luật, trong lập Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh, Luật BHVBQPPL năm 2008
đã quy định việc “dự kiến chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh phải được đăng tải trên
Trang thông tin điện tử của Quốc hội”
(khoản 2 Điều 26); tuy nhiên, cơ chế nghiên
cứu tiếp thu các ý kiến góp ý, phản hồi trong
trường hợp này lại chưa được đề cập rõ
trong Luật. Đây cũng là vấn đề cần được
nghiên cứu để xây dựng thành quy trình cụ
thể trong thời gian tới.
Tuy nhiên, có một sự kiện chính trị-
pháp lý quan trọng là Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam (sửa đổi) vừa được
Quốc hội khoá XIII (kỳ họp thứ 6) thông
qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực từ ngày
01/01/2014. Theo quy định của Bản Hiến
pháp (sửa đổi), có thể thấy những điều chỉnh
đáng chú ý có liên quan đến hoạt động ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là:
(i) Về thẩm quyền của Quốc hội, Hiến
pháp (sửa đổi), tại Điều 70 về nhiệm vụ,
quyền hạn của Quốc hội, đã không tiếp tục
quy định việc Quốc hội thực hiện “quyết
định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh”
như nội dung đã được quy định tại điểm 1
Điều 84 Hiến pháp nước CHXHCN Việt
Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung
một số điều năm 2001);
(ii) Về thẩm quyền của Chính phủ, khác
với Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam
năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số
điều năm 2001) về cơ bản chỉ quy định thẩm
quyền của Chính phủ trong việc “trình dự án
12 Báo cáo sơ kết Kế hoạch số 900/UBTVQH11..., Tlđd
13 Báo cáo sơ kết Kế hoạch số 900/UBTVQH11 ...,Tlđd
luật, pháp lệnh và các dự án khác trước
Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội
(điểm 3 Điều 112); bản Hiến pháp (sửa đổi)
lần này đã thể hiện bước tiến mới thông qua
việc quy định rõ hơn thẩm quyền đề xuất,
xây dựng chính sách của Chính phủ, theo
đó, Chính phủ có thẩm quyền: “Đề xuất, xây
dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết
định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình
dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các
dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp
lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội”
(điểm 2 Điều 96).14
Như vậy, với những điều chỉnh, bổ sung
mới trong bản Hiến pháp (sửa đổi) lần này,
các nội dung liên quan trong Luật BHVB
QPPL tất yếu sẽ phải có những điều chỉnh
tương ứng, bảo đảm phù hợp, cụ thể hoá
Hiến pháp (sửa đổi). Tuy nhiên, những nội
dung, thông tin liên quan đến đề xuất, phân
tích, xây dựng chính sách trong hoạt động
lập và thông qua chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh như đã trình bày ở trên xét ở
một khía cạnh nhất định vẫn có những giá
trị tham khảo thực tiễn nhất định cần được
lưu tâm, ngay cả khi quy trình lập pháp
trong Luật BHVB QPPL hiện hành có
những điều chỉnh để phù hợp với nội dung
mới của bản Hiến pháp (sửa đổi).
b) Trong quá trình soạn thảo, thẩm tra,
xem xét thông qua VBQPPL
Thứ nhất, về đánh giá tác động của dự
thảo văn bản.
Việc tổ chức đánh giá tác động và xây
dựng báo cáo đánh giá tác động của dự thảo
văn bản đã được quy định trong Luật
BHVBQPPL năm 2008, đây là một trong
những quy định có ý nghĩa quan trọng, thiết
thực trong quy trình hoạch định, phân tích
chính sách. Tuy nhiên, toàn bộ các vấn đề
liên quan đến đánh giá tác động quy định
trong Luật còn khá sơ lược (Điều 33 của
Luật chỉ nêu: nội dung của báo cáo đánh giá
tác động phải nêu rõ các vấn đề cần giải
quyết và giải pháp đối với từng vấn đề đó,
chi phí, lợi ích của các giải pháp; so sánh chi
phí, lợi ích của các giải pháp...). Từ thực
tiễn việc xây dựng các báo cáo đánh giá tác
động đối với các dự án thời gian qua, nhằm
bảo đảm kỹ lưỡng, chuẩn xác hơn trong việc
thực hiện đánh giá tác động làm căn cứ cho
việc quyết định chính sách, thì việc nghiên
cứu để quy định rõ, cụ thể hơn về các vấn
đề liên quan đến việc đánh giá tác động của
dự thảo văn bản ngay trong Luật
BHVBQPPL là vấn đề cần được quan tâm
xem xét.
Về đánh giá tác động đối với những vấn
đề chính sách mới được bổ sung: Như đã đề
cập ở trên, có những dự án nếu so với lúc
trình sang Quốc hội, UBTVQH đã có những
thay đổi đáng kể so với thời điểm xem xét
thông qua; trên thực tế, điều này cũng gợi
lên một vấn đề rất đáng suy nghĩ, bởi vì có
thể xuất hiện trường hợp báo cáo đánh giá
tác động của văn bản đó (do cơ quan trình
dự án thực hiện) đã trở lên “lạc hậu” quá xa
so với dự thảo văn bản được Quốc hội,
UBTVQH chuẩn bị xem xét thông qua (do
đã có sự chỉnh lý đáng kể trong quá trình
thẩm tra, chỉnh lý, tiếp thu ý kiến...) Trên
thực tế, hoàn toàn có thể xuất hiện, nảy sinh
những vấn đề mới về mặt chính sách trong
quá trình này; do đó, phải nói rằng đây là
vấn đề cần tính toán kỹ để tránh “khoảng
trống” có thể phát sinh do chưa dự liệu, đánh
giá trước, nhằm bảo đảm tính khả thi của
văn bản, các nguồn lực bảo đảm... cũng như
tránh được khả năng xuất hiện những tác
động bất lợi của văn bản khi thực thi trong
thực tiễn.
Vì vậy, để phù hợp với việc bản Hiến
pháp (sửa đổi) lần này đã có sự quy định rõ
hơn về thẩm quyền đề xuất, xây dựng chính
sách của Chính phủ như đã đề cập ở trên,
trong quá trình hoàn thiện pháp luật về
CHÑNH SAÁCH
42 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01 (257) T01/2014
14 Ngoài ra, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi) lần này, tại Điều 84 tiếp tục quy định thẩm quyền trình dự án luật,
dự án pháp lệnh trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hộitheo đó: “1. Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán
nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận có
quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội. 2. Đại biểu Quốc hội có
quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.”
Chóc Mõng N¨m Míi - 2014
43NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01 (257) T01/2014
BHVBQPPL trong thời gian tới, việc xem
xét mở ra cơ chế để Chính phủ, cơ quan
trình dự án có điều kiện đánh giá, phát biểu
ý kiến lần cuối về những nội dung này trước
khi Quốc hội, UBTVQH xem xét thông qua
văn bản là rất cần thiết.
Bên cạnh đó, có lẽ cần chú ý thêm đến
vấn đề đánh giá tác động cụ thể của dự án
đối với việc bảo đảm lợi ích, chủ quyền
quốc gia, quốc phòng - an ninh, đối với
nguồn lực tài chính, ngân sách của Nhà
nước, với nguồn nhân lực của bộ máy nhà
nước; có thể chú ý ở một chừng mực nhất
định cả về tác động của dự án ở các khía
cạnh cụ thể hơn đối với các giai tầng xã hội,
chú trọng hài hòa lợi ích xã hội, ngăn ngừa
đến mức tối đa việc để lọt những chính sách
có thể tạo kẽ hở, tác động bất lợi đến việc
tăng cường đồng thuận xã hội, gây hệ lụy
xấu cho việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
cũng như phát triển kinh tế-xã hội bền vững
của đất nước. Mặt khác, đây cũng là những
điểm cần được lưu tâm trong những công
đoạn khác của quy trình lập pháp.
Thứ hai, về công tác chỉnh lý, hoàn
thiện dự án luật, pháp lệnh: Trên thực tế, các
vấn đề chính sách của dự án còn được tiếp
tục chỉnh lý, bổ sung, hoàn thiện kể từ sau
giai đoạn thẩm tra. Có thể nói hiện nay, do
chưa có quy định đầy đủ, cụ thể, thống nhất
về cách thức tổ chức việc chỉnh lý, hoàn
thiện dự án luật, pháp lệnh, quy trình chỉnh
lý giữa các cơ quan của Quốc hội, thậm chí
trong một Ủy ban chưa thống nhất, chất
lượng các dự án chưa đồng đều. Vì vậy, nội
dung này cần được quan tâm nhằm xây
dựng, hoàn thiện được quy trình tổ chức
chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh đầy đủ, hợp
lý hơn trong thời gian tới. Trong quá trình
này, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của
Quốc hội phát huy vai trò, trách nhiệm cùng
cơ quan trình dự án trong việc tiếp tục đề
xuất, phân tích chính sách, tham mưu chính
sách trình UBTVQH, Quốc hội.
Thứ ba, trong điều kiện thực tiễn ở nước
ta, trên cơ sở kế thừa và phát huy cơ chế
hiện hành, trên cơ sở quy định của Hiến
pháp (sửa đổi), trong toàn bộ quy trình lập
pháp, việc bảo đảm tính hợp hiến của hệ
thống văn bản pháp luật là một trong những
vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Trong
giai đoạn thẩm tra, chỉnh lý, xem xét thông
qua dự án, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
Luật BHVBQPPL theo hướng tiếp tục
khẳng định mạnh mẽ hơn vai trò của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, trong đó có
Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (nhấn mạnh
đến vai trò của toàn thể Ủy ban) trong việc
bảo đảm tính hợp hiến của của hệ thống
VBQPPL; quy định cụ thể nhằm nâng cao
hơn nữa vai trò, trách nhiệm thẩm tra bảo
đảm tính hợp hiến của hệ thống pháp luật
trong Luật BHVBQPPL.
Cuối cùng, là vấn đề kinh phí phục vụ
hoạt động xây dựng pháp luật. Thực tiễn
cho thấy, đây là vấn đề đã được quan tâm
nhiều trong thời gian qua, song nhìn chung
vẫn còn hạn hẹp; trong thực tế, cần tránh
trường hợp có thể xảy ra là cứ dự án nào mà
“có ODA thì rất là nhanh”;15 trong khi đó,
đây là hoạt động xây dựng, quyết định
chính sách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
hoặc là thúc đẩy, hoặc là kìm hãm sự phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước. Do đó,
trong tổ chức thực hiện, cần tiếp tục đổi mới
cơ chế phân bổ kinh phí thỏa đáng cho việc
lập và thực hiện chương trình xây dựng
VBQPPL,16 chú trọng phát huy nguồn nội
lực quốc gia, nhận thức, xác định rõ kinh phí
đảm bảo xây dựng và hoàn thiện pháp luật
là kinh phí đầu tư cơ bản cho hạ tầng pháp
lý của Nhà nước và xã hội. Kinh phí xây
dựng pháp luật cần đủ để đáp ứng một cách
thực chất các yêu cầu đổi mới quy trình và
nâng cao chất lượng của các dự án, dự thảo
pháp luật, nhất là việc đánh giá tác động
kinh tế-xã hội của dự thảo văn bản, việc tổ
chức soạn thảo, thẩm tra, chỉnh lý và việc
tham vấn, tổ chức lấy ý kiến của nhân dân,
đặc biệt là những đối tượng chịu sự tác
động trực tiếp của dự thảo văn bản n
15 Xem thêm: ý kiến phát biểu của ĐBQH Nguyễn Văn Tiên trong phiên thảo luận tại Hội trường sáng ngày 22/11/2013, kỳ
họp thứ 6 Quốc hội khoá XIII.
16 Báo cáo sơ kết Kế hoạch số 900/UBTVQH11..., Tlđd.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_de_hoach_dinh_phan_tich_chinh_sach_trong_luat_ban_hanh_v.pdf