Vân môi và giới tính
Theo bảng 3.4, tỉ lệ vân môi ở nam và nữ gần
tương đương nhau, có sự chênh lệch nhưng
không nhiều. Ở nam thứ tự xuất hiện các dạng
giống như thứ tự xuất hiện chung các dạng vân
môi, dạng I chiếm cao nhất, đến dạng VIII, rồi
dạng II, dạng IV, dạng V, dạng III, dạng VII,
dạng VI. Nhưng ở nữ thì thứ tự này có thay đổi,
bốn dạng đầu giống mẫu chung, nhưng tiếp
theo là dạng III rồi mới dạng V, dạng VI và VII
không ghi nhận xuất hiện ở nữ. Tuy nhiên sự
khác nhau về tỉ lệ và thứ tự xuất hiện các dạng
rãnh không có ý nghĩa thống kê với P > 0,05.
Khi so sánh riêng dạng vân môi của nam và
nữ với các tác giả, theo bảng 4.2 thì kết quả của
chúng tôi là dạng rãnh thẳng phổ biến nhất ở cả
hai giới, điều này giống với kết quả nghiên cứu
của tác giả Lê Văn Cường trên người Việt Nam.
Còn trên người Nhật, theo Tsuchihashi thì giao
rãnh là dạng phổ biến nhất, dạng rãnh thẳng chỉ
xếp thứ 2. Nghiên cứu của chúng tôi thì ghi
nhận dạng giao rãnh và dạng lưới rãnh xuất
hiện với tỉ lệ rất thấp, chưa tới 1% ở cả hai giới.
Xác định vân môi mang tính đặc trưng duy
nhất của cá thể
Để có thể kết luận không có vân môi của
người nào giống người nào trong 1364 người
Nhật mà mình nghiên cứu, Tsuchihasshi đã
xây dựng sơ đồ cho các rãnh vân môi dựa theo
qui ước ghi sơ đồ răng với bốn vùng: 1/4 trên
(P); 1/4 trên (T); 1/4 dưới (P); 1/4 dưới (T); các
rãnh vân môi sẽ được bà ghi nhận theo 6 dạng
phân loại của bà lên 4 vùng trên. Tsuchihashi
gọi đây là mô hình vân môi. Từ đó bà đã kết
luận: không có vân môi nào có cùng mô hình
trong nghiên cứu của mình. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi phân vân môi thành 12 khu vực
như trên đã mô tả, 8 dạng vân mơi sẽ được ghi
nhận trên 12 khu vực này. Vì vân môi rất đa
dạng và phong phú, nên tuy cùng một dạng
rãnh nhưng chúng có thể khác nhau về chiều
dài, độ rộng, độ nông sâu, nên để chi tiết thêm
các dạng rãnh, 4/8 dạng lớn này được phân
thành các dạng nhỏ hơn, và ký kiệu dấu “'”
hay “a” hoặc “b” để phân biệt vài đặc điểm
khác nhau trong dạng đó. Với cách phân chia
này chúng tôi có 16 dạng nhỏvà được mã hóa
từ số 1 đến 16 khi nhập vào bảng tính Excel.
Khi xây dựng mô hình vân môi, chúng tôi ghi
nhận 1 đến 2 dạng rãnh trên một khu vực. Khi
tạo bảng tính Excel thì với một khu vực vân
môi chúng tôi có hai cột ghi nhận hai dạng
rãnh này, nên với 12 khu vực môi, chúng tôi có
24 cột dạng rãnh vân môi. Mỗi cấu trúc củ môi,
xoắn môi, nốt vàng cũng được xây dựng thành
cột. Tổng cộng chúng tôi có 25 cột và1618 dòng
trong bảng tính Excel. Với việc sử dụng hàm
tìm kiếm theo dòng, chúng tôi có kết quả
không dòng nào giống dòng nào tức là không
có mô hình vân môi nào giống mô hình vân
môi nào. Điều này chứng minh trong 1618
người Việt Nam vùng Đồng bằng sông Cửu
Long không có vân môi của người nào giống
người nào.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 171 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vân môi của người Việt Nam vùng đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
169
VÂN MÔI CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Võ Huỳnh Trang*, Lê Văn Cường**
TÓM TẮT
Ngày nay “vân môi” đãtrở thành dữ liệu sinh trắc học quan trọng để xác định đó chỉ duy nhất là bạn mà
thôi. Tuy nhiên việc sử dụng nó chỉ có ở một số quốc gia mà chưa được phổ biến rộng rãi. Do đó vân môi cần
được nghiên cứu rộng và sâu hơn nữa nhất là ở Việt Nam.
Mục tiêu: (1) Phân loại và tính tỉ lệ các dạng vân môi của người Việt Nam ở vùng Đồng bằng sông Cửu
Long. (2) So sánh vân môi ở nam giới và nữ giới. (3) Xác định vân môi mang tính đặc trưng duy nhất của cá thể.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu vân môi của 1618 người dân gồm ba dân tộc Kinh,
Khmer, Chăm; từ 5 – 82 tuổi; sinh sống ở 8/13 tỉnh thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long bằng máy chụp hình
kỹ thuật số.
Kết quả: Chúng tôi phân được 8 dạng vân môi. Trong đó, dạng I rãnh thẳng chiếm tỉ lệ cao nhất. Vân môi ở
nam và nữ nhìn chung không khác nhau. Và chúng tôi không tìm được mẫu vân môi nào giống mẫu vân môi nào.
Kết luận: Vân môi khác nhau ở các cá thể khác nhau nên có thể ứng dụng để nhận dạng cá thể hay xác định
tội phạm.
Từ khóa: Vân môi
ABSTRACT
LIP PRINTS OF THE VIETNAMESE RESIDENTS IN THE MEKONG DELTA
Vo Huynh Trang, Le Van Cuong 169 - 175
Lip prints has become a important data in biometry to identify the unique of an individual. However, use of
this biometric data has been rare – not common, only made in a few countries. Therefore, there should be more
comprehensive research in lip prints, especially in Viet Nam.
Objectives: (1) Classify and calculate the proportion of types of the lip prints of the Vietnamese residents in
the Mekong delta. (2) Compare types of lip prints between male group and female group. (3) Confirm that a lip
print is unique of an individual.
Research methods and subjects: 1618 people of 3 races: Kinh, Khmer and Cham aged from 5 to 82 in 8/13
cities and provinces in the Mekong delta were taken photograph by a digital camera.
Results: 8 types of lip prints were classified. The highest proportion among them is the type I with straight
furrows. Lip prints are generally not different between women and men groups. No identical lip prints were
identified.
Conclusion: Lip prints are different in different individuals. Therefore, they are used for personal
recognition or crime investigation.
Keyword: lip print
* BM Giải phẫu - Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
** Bộ môn Giải phẫu - Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh
Địa chỉ liên hệ: ThS. Võ Huỳnh Trang Điện thoại: 0989576785 Email: vhtrang@ctump.edu.vn
170
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong khoa học hình sự, để xác định cá thể,
người ta dựa vào các chỉ số và đặc điểm do nhân
trắc học cung cấp như: vân tay, nhóm máu, mô
hình răng... Tuy nhiên trong một số trường hợp
không còn đầy đủ các bộ phận như nạn nhân bị
cắt mất tay, bỏng vân tay hay không có hồ sơ về
răng.... thì việc xác định cá thể gặp nhiều khó
khăn (2), (3). Chính vì thế mà gần 20 năm qua
các nhà khoa học đã không ngừng nghiên cứu
để tìm ra nhiều phương pháp khác nhau giúp
phân biệt người này với người khác, “ngũ vân’’
ra đời từ đây. Một trong ngũ vân là: vân môi.
Năm 1902, Fischer đã mô tả vân môi. Năm
1930, ngành nhân chủng học đề cập đến sự tồn
tại của các nếp nhăn này, nhưng không đề ra
ứng dụng nào cho thực tiễn (4). Mãi đến năm
1950 lần đầu tiên vân môi được Snyder (3) sử
dụng để xác định cá thể người. Santos (2) 1967
đề nghị phân các nếp nhăn ở môi người làm hai
loại: đơn và kép.
Trong một nghiên cứu về mối quan hệ nha -
pháp y giữa son môi và môi nữ giới ở 107 phụ
nữ Nhật năm 1967, K. Suzuki (5) bất ngờ phát
hiện rãnh chứ không phải là nếp nhăn ở vùng
môi đỏ như từ trước tới giờ vẫn nghĩ. Cấu trúc
rãnh môi chưa có trong thuật ngữ giải phẫu, nên
ông đặt tên cho nó là “rãnh hay khe môi” (“sulci
labiorum rubrorum”), và thuật ngữ “vân môi”
(“figura linearum labiorum rubrorum”) là mô
hình các rãnh này trên môi người.
Công trình lớn nhất là của Suzuki và
Tsuchihashi vào những năm 1970 - 1974, các ông
sử dụng máy in vân tay để lấy dấu vân môi của
1364 người Nhật, kết luận của các ông là vân môi
mang tính đặt trưng riêng biệt của từng cá thể và
có thể sử dụng vân môi để nhận dạng trong
pháp y(5,6). Các ông cũng là những người đầu tiên
đưa ra cách phân loại vân môi mà được các nhà
vân môi học sau nay sử dụng nhiều nhất, có 5
loại vân môi:
Loại 1: Rãnh thằng hết bề
dày môi
Loại 1’: Rãnh thẳng không hết
bề dày môi
Loại 2: Rãnh phân nhánh
Loại 3: Rãnh giao nhau
Loại 4: rãnh lưới
Loại 5: Các dạng khác
Những năm sau này vân môi được nghiên
cứu ở nhiều nước khác nhau như: Đức, Nga, Ba
Lan, Tây Ban Nha, Sivapathasundharam(4) 2001 ở
Ấn Độ, Úc, Hàn Quốc, Nhật.
Các kết quả nghiên cứu đều xác nhận: giống
như vân tay, vân môi ở mỗi người mang tính đặt
trưng riêng biệt. Nó củng cố cho việc sử dụng
vân môi để xác định tội phạm, nhưng lại chưa
được công nhận như một bằng chứng khoa học
trên tòa án. Cần có nhiều nghiên cứu về vân môi
hơn nữa nhằm tập hợp, giải thích, và chứng
minh tính duy nhất của vân môi.
Ở Việt Nam có một số nghiên cứu về môi,
nhưng chủ yếu là kích thước môi. Chỉ có một vài
nghiên cứu của Lê Văn Cường, Võ Huỳnh
Trang(1) để phân loại vân môi, nhưng chỉ tập
trung trên đối tượng sinh viên.
Với mong muốn bổ sung về đặc điểm vân
môi của người Việt Nam, chúng tôi tiến hành đề
tài nghiên cứu “Vân môi người Việt Nam vùng
Đồng bằng sông Cửu Long”.
Mục tiêu nghiên cứu
- Phân loại và tính tỉ lệ các dạng vân môi.
- So sánh vân môi ở nam giới và nữ giới.
- Xác định vân môi mang tính đặc trưng
duy nhất của cá thể.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Công trình nghiên cứu trên 1618 người dân
được chọn ngẫu nhiên ở 8/13 tỉnh thành vùng
Đồng bằng sông Cửu Long từ 5 - 82 tuổi.
Phương pháp nghiên cứu:
- Chụp hình vân môi bằng máy chụp hình
171
kỹ thuật số Olympus C 60 6.1MP.
- Sau đó quan sát vân môi chụp được
phóng đại trên màn hình máy vi tính.
- Ghi nhận hình dạng các rãnh vân môi ở
vùng 1/3 giữa môi dưới, phân loại các dạng rãnh
ghi nhận được và tính tỉ lệ của chúng
- So sánh vân môi ở nam và nữ.
- Phân 12 khu vực vân môi đểxây dựng
mô hình vân môi
- Mã hóa các dạng vân môi để nhập dữ
liệu vào chương trình Excel 2007, sử dụng hàm
tìm kiếm theo dòng (Hlookup horizontal
lookup) đểxác định mẫu vân môi giống nhau.
- Các số liệu thu thập được xử lý bằng
phần mềm SPSS 18.0.
Phân vùng và khu vực môi ñỏ Mô hình vân môi
KẾT QUẢ
Qua khảo sát vân môi của 1618 người dân ở
vùng Đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi có
kết quả như sau:
Số liệu chung
Bảng 1: Giới tính trong mẫu nghiên cứu
Giới Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
Nam 734 45,4
Nữ 884 54,6
Tổng cộng 1618 100
Bảng 2: Dân tộc trong mẫu nghiên cứu
Dân tộc Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
Kinh 1013 62,6
Khmer 305 18,9
Chăm 300 18,5
Tổng cộng 1618 100
Phân loại và tỉ lệ vân môi
Qua khảo sát 1618 mẫu vân môi của ba dân
tộc Kinh, Khmer, Chăm ở các tỉnh thuộc vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi phân
được thành 8 dạng rãnh vân môi, các dạng
rãnh này được ký hiệu bằng các số la mã từ I
đến VIII. Vùng 1/3 giữa của môi dưới là vùng
chính được chúng tôi chọn để tính tỉ lệ các
dạng vân môi.
Bảng 2: Các dạng và tỉ lệ vân môi
Vân môi Kết quả
N 1342 Dạng I: Rãnh
thẳng
(Đi hết bề
dầy môi hoặc
không)
Tỉ lệ
(%) 82.9
N 84
Dạng II:
Rãnh phân
nhánh (Đi
hết bề dầy
môi hoặc
không)
Tỉ lệ
(%) 5,2
N 8
Dạng III:
Giao rãnh Tỉ lệ (%) 0,5
N 16
Dạng IV:
Lưới rãnh Tỉ lệ (%) 1,0
N 9
Dạng V:
Rãnh hình
sao
Tỉ lệ
(%) 0,58
N 1
Dạng VI: Có
rãnh ngang Tỉ lệ (%) 0,06
N 1
Dạng VII:
Không qui
tắc
Tỉ lệ
(%) 0,06
N 157
Dạng VIII:
Không có
rãnh (hoặc
chỉ có 1 rãnh
thẳng ở giữa)
Tỉ lệ
(%) 9,7
Bảng 3: Tỉ lệ các cấu trúc khác đi kèm với vân môi
Kết quả Cấu trúc ñi kèm
N Tỉ lệ (%)
172
Củ môi
(Chỉ có ở
môi trên)
354 21,9
Xoắn môi 66 4,1
Nốt vàng 81 5,1
Vân môi và giới tính
Bảng 4: Tỉ vân môi theo giới tính
Khu vực 1/3 giữa môi dưới Dạng vân môi
Nam Nữ
P
N 620 722 Dạng I
Tỉ lệ (%) 84,5 81,7
N 33 51 Dạng II
Tỉ lệ (%) 4,5 5,8
N 5 3 Dạng III
Tỉ lệ (%) 0,7 0,3
N 7 9 Dạng IV
Tỉ lệ (%) 0,9 1,0
N 7 2 Dạng V
Tỉ lệ (%) 0,9 0,2
N 00 1 Dạng VI
Tỉ lệ (%) 0,0 0,1
N 1 00 Dạng VII
Tỉ lệ (%) 0,2 0,0
N 61 96 Dạng VIII
Tỉ lệ (%) 8,3 10,9
> 0,05
Xác định vân môi mang tính đặc trưng duy
nhất của cá thể
Hàm tìm kiếm theo dòng trong bảng tinh
Excel 2007 cho kết quả không có mô hình vân
môi nào giống mô hình vân môi nào.
BÀN LUẬN
Số liệu chung
Do mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên
trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nên tỉ lệ
giữa nam là 45,4% (734 người) và nữ là 54,6%
(884 người); chệnh lệch nhau hơn 9%.
Dân tộc Kinh chiếm nhiều nhất 62,6%. Dân
tộc Khmer 18,9%, dân tộc Chăm 18,5%.
Phân loại và tỉ lệ vân môi
Khu vực giữa môi dưới được xem là nơi có
thể nhìn thấy trong bất cứ tình huống nào, đồng
thời cũng là nơi dễ dàng để lại dấu vân môi
nhiều nhất, nên vùng này được các nhà nghiên
cứu vân môi trên thế giới chọn làm vùng quyết
định ghi nhận dấu vân môi. Theo y văn, chúng
tôi cũng chọn khu vực 1/3 giữa môi dưới là khu
vực quyết định để đọc rãnh khi tính tỉ lệ rãnh, và
mẫu rãnh tùy thuộc vào tính vượt trội có thể
đếm được của các dạng rãnh tại khu vực này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 8 dạng vân
môi. Trong đó dạng I rãnh thẳng chiếm cao
nhất và vượt trội 82,9%; các dạng khác có tỉ lệ
giảm dần theo thứ tự: dạng VIII không rãnh
9,7%; dạng II rãnh phân nhánh 5,2%; dạng IV
lưới rãnh 1%; dạng V rãnh sao 0,58%; dạng III
lưới rãnh 0,5%; dạng VI rãnh ngang và dạng
VII rãnh không qui tắc là thấp nhất với 0,06%.
Cách phân dạng này giống với Suzuki và
Tsuchihasshi bốn dạng đầu: rãnh thẳng, rãnh
phân nhánh, giao rãnh và lưới rãnh. Dạng V
của các tác giả này bao gồm những dạng rãnh
còn lại khác với bốn dạng trước. Nhưng ở đây
chúng tôi đã phân thành bốn dạng khác là
rãnh sao, rãnh ngang, rãnh không qui tắc và
không rãnh, vì các dạng rãnh này khác nhau
và có thể phân biệt dễ dàng, đồng thời một số
dạng rãnh lại mang tính đặc trưng của dân tộc
hay lứa tuổi.
Bảng 5: So sánh dạng vân môi với các tác giả khác
Dạng vân
môi
Chúng
tôi (%)
Lê V.
Cường
(%)
Tsuchihasshi
(%)
Sivapatha
sundharam
(%)
Rãnh thẳng 82,9 58,1 26,75 27,04
Phân nhánh 5,2 13,2 21,0 12,76
Giao rãnh 0,5 9,0 32,55 41,33
Lưới rãnh 1,0 3,6 12,75 10,71
Rãnh sao 0,58
Rãnh ngang 0,06
Rãnh không
qui tắc
0,06
Không rãnh 9,7
10,4 16,6 6,95 8,16
Tác giả Lê Văn Cường(1) nghiên cứu trên 220
173
sinh viên Đại học Y Dược TP HCM ghi nhận
dạng rãnh thẳng chiếm cao nhất giống với
chúng tôi. Còn Tsuchihasshi nghiên cứu trên 64
người Nhật và Sivapathasundharam nghiên cứu
trên 200 người Aán Độ thì dạng giao rãnh là phổ
biến nhất, sau đó mới tới rãnh thẳng, trong khi
kết quả của chúng tôi thì giao rãnh xuất hiện rất
thấp. Hai tác giả này có dạng V là dạng các rãnh
khác, chiếm 8,16%. Nhưng chúng tôi và tác giả
Lê Văn Cường đã chia thêm 4 dạng nữa.
Dạng II của tác giả Lê Văn Cường là rãnh
thẳng và có củ môi trên, nhưng qua khảo sát
chúng tôi ghi nhận củ môi trên có thể xuất hiện
cùng với các dạng rãnh khác như giao rãnh, rãnh
phân nhánh, nên chúng tôi không xếp vào phân
loại dạng rãnh mà chúng tôi tách chúng vào
nhóm các cấu trúc đi kèm với vân môi. Tỉ lệ xuất
hiện củ môi trong nghiên cứu của chúng tôi là
21,9% cao hơn ghi nhận tỉ lệ củ môi của tác giả là
15,9%
Tác giả Ludwig Hirth(4) nghiên cứu trên 500
người Đức, ông ghi nhận 31,2% vân môi có hình
xoắn ốc, và có 3 dạng: 1 xoắn ốc ở giữa môi trên,
2 xoắn ốc ở môi dưới, 3 xoắn ốc: 1 ở môi trên, 2 ở
môi dưới. Kết qua ûcủa chúng tôi, chỉ có 4,1%
vân môi có xoắn ốc, và 4 dạng: 2 xoắn ở môi
dưới, 2 xoắn ở môi trên, 1 xoắn nằm một bên ở
môi dưới, 1 xoắn ở môi trên.
Một cấu trúc mới mà chúng tôi ghi nhận
được là môi có nốt vàng, các nốt có thể chiếm
gần hết diện tích phần môi đỏ, hoặc rải rác vài
nốt; có thể xếp thành chuỗi hoặc hợp lại thành
đám nằm hai bên môi đỏ; có thể thấy ở môi trên
hoặc môi dưới hoặc cả hai môi. Tỉ lệ xuất hiện
nốt vàng chiếm 5,1% trong mẫu.
Vân môi và giới tính
Theo bảng 3.4, tỉ lệ vân môi ở nam và nữ gần
tương đương nhau, có sự chênh lệch nhưng
không nhiều. Ở nam thứ tự xuất hiện các dạng
giống như thứ tự xuất hiện chung các dạng vân
môi, dạng I chiếm cao nhất, đến dạng VIII, rồi
dạng II, dạng IV, dạng V, dạng III, dạng VII,
dạng VI. Nhưng ở nữ thì thứ tự này có thay đổi,
bốn dạng đầu giống mẫu chung, nhưng tiếp
theo là dạng III rồi mới dạng V, dạng VI và VII
không ghi nhận xuất hiện ở nữ. Tuy nhiên sự
khác nhau về tỉ lệ và thứ tự xuất hiện các dạng
rãnh không có ý nghĩa thống kê với P > 0,05.
Khi so sánh riêng dạng vân môi của nam và
nữ với các tác giả, theo bảng 4.2 thì kết quả của
chúng tôi là dạng rãnh thẳng phổ biến nhất ở cả
hai giới, điều này giống với kết quả nghiên cứu
của tác giả Lê Văn Cường trên người Việt Nam.
Còn trên người Nhật, theo Tsuchihashi thì giao
rãnh là dạng phổ biến nhất, dạng rãnh thẳng chỉ
xếp thứ 2. Nghiên cứu của chúng tôi thì ghi
nhận dạng giao rãnh và dạng lưới rãnh xuất
hiện với tỉ lệ rất thấp, chưa tới 1% ở cả hai giới.
Bảng 6: So sánh dạng vân môi với các tác giả khác ở
nam và nữ
Chúng tôi Lê Văn Cường Tsuchihashi Dạng vân
môi Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
Rãnh thẳng 84,5 81,7 58,6% 57,7% 27,3% 26,2%
Phân nhánh 4,5 5,8 13,4% 12,9% 18,2% 23,8%
Giao rãnh 0,7 0,3 9,6% 8,6% 31,3% 33,3%
Lưới rãnh 0,9 1,0 4,8% 2,5% 13,6% 11,9%
Rãnh sao 0,9 0,2
Rãnh ngang 0,0 0,1 10,5% 13,6%
Không qui tắc 0,2 0,0
Không rãnh 8,3 10,9
9,1% 4,8%
Củ môi 19,8 23,6 14,4% 17,2%
Xác định vân môi mang tính đặc trưng duy
nhất của cá thể
Để có thể kết luận không có vân môi của
người nào giống người nào trong 1364 người
Nhật mà mình nghiên cứu, Tsuchihasshi đã
xây dựng sơ đồ cho các rãnh vân môi dựa theo
qui ước ghi sơ đồ răng với bốn vùng: 1/4 trên
(P); 1/4 trên (T); 1/4 dưới (P); 1/4 dưới (T); các
rãnh vân môi sẽ được bà ghi nhận theo 6 dạng
phân loại của bà lên 4 vùng trên. Tsuchihashi
gọi đây là mô hình vân môi. Từ đó bà đã kết
luận: không có vân môi nào có cùng mô hình
trong nghiên cứu của mình. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi phân vân môi thành 12 khu vực
như trên đã mô tả, 8 dạng vân mơi sẽ được ghi
nhận trên 12 khu vực này. Vì vân môi rất đa
dạng và phong phú, nên tuy cùng một dạng
rãnh nhưng chúng có thể khác nhau về chiều
174
dài, độ rộng, độ nông sâu, nên để chi tiết thêm
các dạng rãnh, 4/8 dạng lớn này được phân
thành các dạng nhỏ hơn, và ký kiệu dấu “'”
hay “a” hoặc “b” để phân biệt vài đặc điểm
khác nhau trong dạng đó. Với cách phân chia
này chúng tôi có 16 dạng nhỏvà được mã hóa
từ số 1 đến 16 khi nhập vào bảng tính Excel.
Khi xây dựng mô hình vân môi, chúng tôi ghi
nhận 1 đến 2 dạng rãnh trên một khu vực. Khi
tạo bảng tính Excel thì với một khu vực vân
môi chúng tôi có hai cột ghi nhận hai dạng
rãnh này, nên với 12 khu vực môi, chúng tôi có
24 cột dạng rãnh vân môi. Mỗi cấu trúc củ môi,
xoắn môi, nốt vàng cũng được xây dựng thành
cột. Tổng cộng chúng tôi có 25 cột và1618 dòng
trong bảng tính Excel. Với việc sử dụng hàm
tìm kiếm theo dòng, chúng tôi có kết quả
không dòng nào giống dòng nào tức là không
có mô hình vân môi nào giống mô hình vân
môi nào. Điều này chứng minh trong 1618
người Việt Nam vùng Đồng bằng sông Cửu
Long không có vân môi của người nào giống
người nào.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu vân môi của 1618 người
Việt Nam ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long,
chúng tôi ghi nhận:
Có 8 dạng vân môi
- Dạng I rãnh thẳng phổ biến nhất chiếm
82,9%%.
- Củ môi có thể kết hợp với các dạng khác,
và xuất hiện với tỉ lệ21,9%.
- Xoắn môi xuất hiện 4,1% và gặp bốn dạng:
1 xoắn ở môi trên, 1 xoắn ở một bên môi dưới, 2
xoắn ở môi trên, 2 xoắn ở môi dưới.
Không có sự khác nhau về vân môi giữa
nam và nữ: dạng I phổ biến nhất ở cả hai giới.
Vân môi khác nhau giữa các cá thể khác
nhau hay nói cách khác là vân môi mang tính
đặc trưng duy nhất của cá thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Cường.(2005). Hình thái vân môi của 220 sinh viên Đại Học
Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Y Học TP. Hồ Chí Minh, Hội nghị
Khoa học Kỹ thuật lần thứ 22, chuyên đề Y học cơ sở. Nhà xuất
bản Y học TP Hồ Chí Minh. Phụ bản số 1, tập 9, tr: 1 - 5.
2. Santos M.(1967). A supplementary stomatological means of
identification, Int. Microform. J. Leg. Med, 2.
3. Snyder L.(1950).Homicide Investigation. Thomas Springfield, III,
pp: 65.
4. Sivapathasundharam B. and Prakash P.A.(2001).Lip prints
(Cheiloscopy). Indian Journal of Dental Research, 12 (4), pp: 234 -
237.
5. Suzuki K., Suzuki H., and Tsuchihashi Y.(1970). New attempt of
personal identification by means of lip print. Journal of the Indian
Dental Association, 42 (1), 1970, pp: 8 - 9.
6. Tsuchihashi Y.(1974).Studies on personal identification by means
of lip prints. Forensic Science, 3 (3), pp: 233 - 248.
175
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_moi_cua_nguoi_viet_nam_vung_dong_bang_song_cuu_long.pdf