Kinh nghiệm cho thấy, việc đăng ký
có thể được thực hiện một cách có hiệu quả
để phục vụ cho việc quản lý, theo dõi các
bất động sản. Đối với các động sản, việc
đăng ký có thể được thực hiện trong một
số trường hợp mà tài sản ổn định về hình
dáng và chất lượng trong những điều kiện
sử dụng bình thường. Ví dụ, đăng ký tàu
biển, máy bay, đăng ký quyền sở hữu công
nghiệp, Các tài sản đặc biệt như tài khoản
ngân hàng, tài khoản chứng khoán có thể
được đăng ký ngay tại ngân hàng hoặc công
ty chứng khoán nơi mở tài khoản: luật có thể
quy định trách nhiệm của tổ chức quản lý tài
khoản trong việc cung cấp thông tin về tình
trạng pháp lý của tài khoản theo yêu cầu của
người có quan tâm theo cùng một mô thức
như trách nhiệm công bố thông tin về tài sản
của cơ quan đăng ký tài sản.
Trong không ít trường hợp, chỉ riêng
việc đăng ký không đủ để giúp chủ nợ có
bảo đảm có được hình ảnh vật lý và pháp lý
của tài sản. Chẳng hạn, đăng ký đối với việc
thế chấp hàng hoá luân chuyển là việc làm
không hiệu quả về phương diện kiểm soát sự
luân chuyển của hàng hoá như là giá trị của
tài sản bảo đảm15. Thậm chí, như đã đề cập
ở trên, cả việc thừa nhận tính chất vật quyền
cho quyền của chủ nợ nhận thế chấp đối
với hàng hoá luân chuyển cũng không giúp
được gì cho chủ nợ trong việc kiểm soát sự
biến động về hình thức biểu hiện cũng như
cập nhật về tình trạng pháp lý của tài sản.
Đối với các loại tài sản này, cách tốt nhất
là tạo điều kiện để người nhận thế chấp có
thể trực tiếp theo dõi, giám sát quá trình chu
chuyển hàng hoá, từ hàng trở thành tiền, rồi
lại từ tiền trở thành hàng hóa. Trong điều
kiện việc lập sổ sách kế toán theo dõi sự ra
vào của hàng hoá tại các doanh nghiệp trong
xã hội ngày nay được tin học hoá một cách
phổ biến, thì việc kiểm soát hàng hoá luân
chuyển dựa vào công nghệ thông tin là hoàn
hoàn khả thi.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định tài sản thế chấp theo tinh thần bộ luật dân sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
XÁC ĐỊNH TÀI SẢN THẾ CHẤP THEO TINH THẦN
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
Tóm tắt:
Xác định tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là vấn đề
được đặt ra trong tất cả các giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, ý nghĩa
của vấn đề chỉ đặc biệt nổi rõ trong trường hợp bảo đảm bằng biện
pháp thế chấp tài sản. Giải quyết vấn đề xác định tài sản thế chấp
có tác dụng tạo thuận lợi cho chủ nợ có bảo đảm trong việc theo
dõi tình hình tài sản trong thời gian thế chấp, cũng như trong việc
xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ trong trường hợp cần thiết và
được luật cho phép.
Nguyễn Ngọc Điện*
* Viện sĩ. PGS.TS. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Abstract
Determination of things used as collateral is an issue to be raised
in all secured transactions. However, its significance is specially
remarkable in case of mortgage. A good solution of the problem of
determination of things as collateral will be helpful to the creditor
as for the the acknowledgement of the material situation of the
collateral as well as for the the eventual payment of the secured
debt by way of performance of the secured transaction.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tài sản bảo đảm, giao dịch
bảo đảm, thế chấp, nghĩa vụ được
bảo đảm
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 10/12/2018
Biên tập : 18/12/2018
Duyệt bài : 25/12/2018
Article Infomation:
Keywords: collateral, secured
transactions, mortgage, secured debt
Article History:
Received : 10 Dec. 2018
Edited : 18 Dec. 2018
Approved : 25 Dec. 2018
1. Tổng quan
Các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ trong
luật Việt Nam hiện hành, được quy định tại
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015. Điều 292
bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản,
đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở
hữu, bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản.
Xác định tài sản dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ là vấn đề được đặt ra trong
1 Trong trường hợp thế chấp tài sản, luật quy định rằng các bên có thể thoả thuận giao tài sản thế chấp cho người thứ ba
giữ (khoản 2, Điều 317, BLDS).
tất cả các trường hợp xác lập giao dịch bảo
đảm. Tuy nhiên, ý nghĩa của vấn đề chỉ đặc
biệt nổi rõ trong trường hợp bảo đảm bằng
biện pháp thế chấp tài sản và bảo lãnh. Lý do
chính là với các biện pháp bảo đảm loại này,
thì tài sản bảo đảm, trên nguyên tắc, vẫn do
người bảo đảm nắm giữ và sử dụng, khai thác
trong những điều kiện bình thường1. Chủ nợ
nhận bảo đảm đứng trước nguy cơ tài sản
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
34 Số 2+3(378+379) T1/2019
bảo đảm bị giảm sút giá trị, thậm chí không
còn, khiến việc thực hiện biện pháp bảo đảm
để thu hồi nợ có thể gặp khó khăn. Bởi vậy,
cần xây dựng và hoàn thiện một cơ chế pháp
lý cho phép chủ nợ nhận bảo đảm có điều
kiện nhận dạng, theo dõi và giám sát việc
sử dụng tài sản trong thời gian có hiệu lực
của biện pháp bảo đảm. Với cơ chế đó, chủ
nợ nhận bảo đảm có thể kịp thời phát hiện
những biến động liên quan đến tài sản bảo
đảm và có điều kiện chuẩn bị các phương án
ứng phó thích hợp một khi có diễn biến bất
lợi đối với sự bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
bằng cách xử lý tài sản bảo đảm.
Trường hợp bảo lãnh thông thường,
thì vấn đề xác định tài sản bảo đảm và vấn
đề xác định năng lực thanh toán của người
bảo lãnh, suy cho cùng, là một, bởi người
bảo lãnh bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được
bảo đảm bằng toàn bộ tài sản của mình và
theo cùng một cách như đối với bất kỳ chủ
nợ thường nào của riêng mình. Bảo lãnh đối
nhân chỉ có tác dụng giúp người nhận bảo
lãnh có thêm một người cam kết trả nợ, bên
cạnh người mắc nợ chính, chứ không tạo bất
kỳ một quyền ưu tiên nào cho chủ nợ trên tài
sản của người mắc nợ.
Trái lại, trong trường hợp bảo lãnh đối
vật, vấn đề xác định rõ tài sản bảo đảm là rất
quan trọng, bởi nó cần thiết để chủ nợ có bảo
đảm thực hiện quyền ưu tiên của mình một
cách chính xác. Trong khung cảnh luật thực
định và thực tiễn giao dịch, bảo lãnh đối vật
có một trong hai hình thức - bảo lãnh bằng
cầm cố tài sản hoặc bảo lãnh bằng thế chấp
tài sản.
Như vậy, cả về phương diện lý luận và
thực tiễn, vấn đề xác định tài sản bảo đảm
được đặt ra một cách có ý nghĩa chủ yếu
trong trường hợp tài sản được bảo đảm bằng
biện pháp thế chấp.
2 Ví dụ, trong luật của Pháp, theo BLDS Điều 2393, “L'hypothèque est un droit réel sur les immeubles affectés à l'acquit-
tement d'une obligation” - Thế chấp là vật quyền đối với bất động sản nhằm bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ. Thật ra
quy định này không được học thuyết đánh giá cao và tính hiệu quả cũng không cao: một số trường hợp gọi là cầm cố
động sản, nhưng bên nhận cầm cố động sản không nắm giữ tài sản, thì cũng không khác gì thế chấp. Ví dụ điển hình là
cầm cố hàng hoá luân chuyển: xem Ph. Simler và Ph. Delebecque, Droit civil - Les suretés, la publicité foncière, Dalloz,
2009, tr. 325.
2. Nguyên tắc xác định tài sản thế chấp
2.1 Nguyên tắc chung
Nguyên tắc xác định tài sản bảo đảm
nói chung và nói riêng, xác định tài sản thế
chấp, được thiết lập theo Điều 295 BLDS.
Điều 295. Tài sản bảo đảm
1. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền
sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm
giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.
2. Tài sản bảo đảm có thể được mô tả
chung, nhưng phải xác định được.
3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện
có hoặc tài sản hình thành trong tương lai.
4. Giá trị của tài sản bảo đảm có thể
lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ
được bảo đảm.
Bất động sản hoặc động sản. Tài sản
bảo đảm theo luật hiện hành có thể là bất
động sản hoặc động sản. Trong trường hợp
bảo lãnh đối nhân, nghĩa là bảo lãnh bằng
toàn bộ tài sản của người bảo lãnh, thì tất cả
động sản và bất động sản hiện tại và tương
lai của người bảo lãnh là tài sản bảo đảm.
Trong trường hợp bảo lãnh đối vật, nghĩa là
bảo lãnh bằng cách cầm cố hoặc thế chấp tài
sản, thì tài sản bảo đảm có thể là một hoặc
nhiều động sản, bất động sản đặc định.
Cần nhấn mạnh rằng, khi định nghĩa
biện pháp thế chấp, nhà làm luật Việt Nam
không giới hạn phạm vi đối tượng áp dụng
biện pháp này là bất động sản như trong luật
của một số nước2. Điều đó cho phép thừa
nhận rằng tài sản thế chấp theo luật Việt
Nam hiện hành có thể là bất động sản hoặc
động sản, thậm chí là tài sản vô hình, như
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp.
Tiêu chí chủ yếu để nhận dạng, phân biệt
thế chấp và các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ
khác là bên nhận thế chấp không nắm giữ tài
sản trong thời gian thế chấp.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
35Số 2+3(378+379) T1/2019
Tài sản thế chấp phải thuộc quyền sở
hữu của bên thế chấp. Cũng như luật các
nước, luật Việt Nam đòi hỏi bên thế chấp
phải có quyền sở hữu đối với tài sản thế
chấp. Điều này hợp lý bởi trong trường hợp
nghĩa vụ được bảo đảm không được thực
hiện, thì chủ nợ có bảo đảm có quyền xử lý
tài sản thế chấp, đặc biệt là bằng cách bán tài
sản này để nhận tiền thanh toán.
Các tiêu chí nhận dạng quyền sở hữu
tài sản trong luật Việt Nam, cũng giống như
trong luật của các nước, không đồng nhất
đối với tất cả các loại tài sản. Có trường hợp
luật quy định quyền sở hữu chỉ được xác lập
một khi tài sản được đăng ký hợp lệ tại cơ
quan thẩm quyền; ví dụ điển hình là quyền
sở hữu đối với một số đối tượng sở hữu công
nghiệp3. Trong một số trường hợp, việc đăng
ký chỉ có tác dụng suy đoán quyền sở hữu,
như trường hợp đăng ký quyền sử dụng đất
(QSDĐ), đăng ký quyền tác giả: người có
tên được đăng ký được thừa nhận là chủ sở
hữu cho đến khi có người khác chứng minh
được điều ngược lại trong khuôn khổ một
vụ tranh chấp trước toà án. Có trường hợp
đăng ký tài sản chỉ để phục vụ công tác quản
lý hành chính về trật tự xã hội, đặc biệt là để
xác định chủ thể của trách nhiệm một khi tài
sản gây thiệt hại cho người khác, ví dụ điển
hình là đăng ký xe máy, ô tô4.
Nói chung, trong trường hợp không
có tranh chấp, thì người chiếm hữu tài sản
được coi là chủ sở hữu và có thể xác lập giao
dịch thế chấp với tư cách đó5. Sự chiếm hữu
3 Theo Luật Sở hữu trí tuệ Điều 6 khoản 3 “Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế
bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc
tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử
dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký;”
4 Nhiều ý kiến cho rằng, đăng ký xe máy, ô tô là đăng ký quyền sở hữu. Thật ra, xe máy, ô tô thuộc quyền sở hữu của
một người là do các căn cứ theo luật chung, bao gồm mua, được tặng cho, trao đổi, thừa kế, Không đăng ký, thì tài
sản vẫn thuộc quyền sở hữu của người mua, được tặng cho, trao đổi, thừa kế,, nhưng không được phép tham gia giao
thông. Không có quy định nào trong luật hiện hành buộc chủ phương tiện phải đăng ký phương tiện mới xác lập được
quyền sở hữu.
5 BLDS Điều 184 khoản 2 quy định: “Trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được suy
đoán là người có quyền đó. Người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh về việc người chiếm hữu không
có quyền”.
có thể được ghi nhận một khi tài sản đang
được đặt dưới sự nắm giữ, chi phối vật chất
của người thể hiện quyền lực của mình đối
với tài sản hoặc tài sản được đăng ký dưới
tên một người. Bởi vậy, người có tên được
ghi trên giấy chứng nhận QSDĐ, giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà được coi là người có
QSDĐ, quyền sở hữu nhà; chủ doanh nghiệp
được coi là chủ kho hàng thuộc khối tài sản
của doanh nghiệp;
2.2 Tài sản hiện có và tài sản hình thành
trong tương lai
Khái niệm tài sản hiện có và tài sản
hình thành trong tương lai được quy định
chính thức trong Điều 108 BLDS.
Tài sản hiện có. Theo điểm a khoản 1
Điều 108, tài sản hiện có là tài sản đã hình
thành và chủ thể đã xác lập quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại
thời điểm xác lập giao dịch. Ví dụ, nhà ở đã
xây dựng hoàn chỉnh và sẵn sàng để được sử
dụng hoặc thậm chí đã được sử dụng, đang
thuộc quyền sở hữu của một người; ví dụ
về tài sản hiện có thuộc loại động sản hữu
hình là một chiếc điện thoại đã xuất xưởng
và đang được bày bán ở cửa hàng.
Nói chung, tài sản hiện có là tài sản
hội đủ hai tiêu chí: thứ nhất, tiêu chí vật lý:
tài sản hữu hình đã hoàn chỉnh về cấu trúc
vật chất, tài sản vô hình đã hoàn chỉnh về
hình thức thể hiện cho phép nhận dạng, phân
biệt; thứ hai, tiêu chí pháp lý: tài sản đang
thuộc quyền sở hữu của chủ thể giao dịch
(người bán, trao đổi, tặng cho,).
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
36 Số 2+3(378+379) T1/2019
Tài sản hình thành trong tương lai.
Theo quy định của khoản 2 Điều 108 BLDS,
tài sản hình thành trong tương lai thuộc một
trong 2 dạng:
- Tài sản chưa hình thành;
- Tài sản đã hình thành nhưng chủ thể
xác lập quyền sở hữu sau thời điểm xác lập
giao dịch.
Các cụm từ “chưa hình thành” hoặc
“đã hình thành” được hiểu là chưa hoặc đã
định hình hoàn chỉnh về mặt vật lý, nghĩa là
chưa hoặc đã sẵn sàng để được khai thác, sử
dụng theo đúng tính năng, công dụng.
Vả lại, một cách hợp lý, tài sản “chưa
hình thành” trong trường hợp bình thường
phải là tài sản đang hình thành theo một lộ
trình rõ ràng, đáng tin cậy và hoàn toàn phụ
thuộc vào ý chí của chủ thể giao dịch, chứ
không phụ thuộc, dù chỉ một phần, vào ý chí
của chủ thể khác.
Có trường hợp việc hình thành tài sản
lệ thuộc vào ý chí (cụ thể là sự hợp tác) của
chủ thể khác, thì để có thể xác lập giao dịch
đối với tài sản đang hình thành, luật thường
đòi hỏi người tự xưng là chủ sở hữu phải
có được sự bảo đảm khách quan về sự hình
thành tài sản hoặc ít nhất có sự bảo đảm về
việc đền bù thiệt hại thoả đáng cho bên giao
dịch trong trường hợp vì lý do gì đó mà tài
sản không hình thành theo cam kết. Ví dụ,
nhà ở đang được xây dựng trong khuôn khổ
dự án nhà ở thương mại là tài sản hình thành
trong tương lai theo quy định của điểm a
khoản 1 Điều 108 BLDS. Chủ đầu tư có thể
bán nhà ở loại này. Tuy nhiên, việc nhà có
hình thành hay không lại lệ thuộc vào ý chí
của chủ đầu tư. Bởi vậy, để tạo sự yên tâm
cho người mua, luật quy định rằng “Chủ đầu
tư dự án bất động sản trước khi bán, cho
thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai
phải được ngân hàng thương mại có đủ năng
lực thực hiện bảo lãnh nghĩa vụ tài chính của
chủ đầu tư đối với khách hàng khi chủ đầu
6 Nghị định số 11 đã dẫn sửa đổi, bổ sung Nghị định 163 đã dẫn trong bối cảnh có nhiều thắc mắc liên quan đến khái
niệm tài sản hình thành trong tương lai được xây dựng trong Nghị định 163. Khoản 2 Điều 4 Nghị định 163: “Tài sản
tư không bàn giao nhà ở theo đúng tiến độ
đã cam kết với khách hàng” (khoản 1 Điều
56 Luật Kinh doanh bất động sản).
Tài sản đã hình thành nhưng chủ thể
xác lập quyền sở hữu sau thời điểm xác lập
giao dịch được hình dung là tài sản mà ở thời
điểm xác lập giao dịch đang thuộc quyền sở
hữu của người khác. Sau khi xác lập giao
dịch thì chủ thể mới xác lập được quyền sở
hữu đối với tài sản. Ví dụ, A giao kết với
B một hợp đồng, theo đó, A bán cho B 100
cổ phần của công ty X; ở thời điểm xác lập
giao dịch, A chưa có quyền sở hữu đối với
số cổ phần ấy; sau khi xác lập giao dịch, A
mới tìm mua số cổ phần ấy rồi bán lại cho
B. Trong trường hợp A không mua mà chỉ
tìm cách kết nối người đang nắm giữ số cổ
phiếu ấy với B để thực hiện việc mua bán
trực tiếp giữa người này và B, thì A được gọi
là người môi giới. Nói chung, tài sản hình
thành trong tương lai theo nghĩa của điểm b
khoản 2 Điều 108 BLDS là tài sản đã hình
thành về mặt vật lý, nhưng chưa hình thành
về mặt pháp lý.
Một số ý kiến cho rằng, tài sản hình
thành trong tương lai được mô tả tại điểm b
khoản 2 Điều 108 BLDS là tài sản đã hình
thành và thuộc diện phải đăng ký quyền sở
hữu nhưng chưa được đăng ký. Nhận định
này là chưa chính xác. Dường như nhận định
này có nguồn gốc từ một quy định tại Nghị
định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012
sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của
Chính phủ. Theo quy định của khoản 2 Điều
1 Nghị định số 11 đã dẫn, thì trong các loại
tài sản hình thành trong tương lai, có “ c)
Tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng
phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng sau thời
điểm giao kết giao dịch bảo đảm thì tài sản
đó mới được đăng ký theo quy định của
pháp luật”6.
Với các quy định hiện hành, tài sản
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
37Số 2+3(378+379) T1/2019
đã hình thành, đang được sử dụng và thuộc
loại phải đăng ký nhưng chưa được đăng
ký, thì không thể được mua bán, trao đổi,
thế chấp, chứ không phải là có thể được
thế chấp như tài sản hình thành trong tương
lai. Lý do là một khi được đưa vào sử dụng,
tài sản có thể bị ràng buộc vào nhiều quan
hệ phức tạp, chẳng hạn, có thể bị kê biên,
chịu địa dịch (đối với bất động sản), Nói
chung, nếu thuộc diện đăng ký mà không
được đăng ký, tài sản được giao dịch có thể
mang đến nhiều rủi ro không lường trước
được đối với người thứ ba.
Dẫu sao, việc bảo đảm nghĩa vụ bằng
tài sản hình thành trong tương lai chỉ thực sự
có ý nghĩa trong trường hợp tài sản chưa hình
thành theo nghĩa của điểm a khoản 2 Điều
108 BLDS, đặc biệt là tài sản mà quá trình
hình thành được xác định rõ bằng những
thông tin cụ thể. Ví dụ điển hình là thế chấp
căn hộ trong khuôn khổ dự án nhà ở chung
cư đang triển khai. Trong trường hợp tài sản
đã hình thành nhưng chủ thể giao dịch (bên
thế chấp) chưa có quyền sở hữu (nghĩa là tài
sản đang thuộc sở hữu của người khác), thì
bên giao dịch (bên nhận thế chấp) không có
lợi ích gì để xác lập giao dịch, do không thể
biết chắc rốt cuộc bên thế chấp xác lập được
quyền sở hữu đối với tài sản hay không.
2.3 Các trường hợp đặc biệt
2.3.1 Thế chấp QSDĐ
QSDĐ hợp lệ. Theo quy định của
hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch
bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết
giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm”. Có căn cứ
để tin rằng, khi đề cập đến loại tài sản hình thành trong tương lai mà ở thời điểm giao dịch chưa thuộc sở hữu của bên
bảo đảm, người soạn thảo Nghị định liên tưởng đến tài sản thuộc diện đăng ký nhưng chưa được đăng ký, chứ không
phải tài sản đang thuộc sở hữu của người khác. Lý do là ở thời điểm xây dựng và ban hành Nghị định, hoạt động môi
giới chưa thực sự phổ biến và cũng chưa được nhà chức trách, xã hội nhìn nhận với thái độ tích cực. Nghị định 11 chỉ
khẳng định điều này.
Vấn đề bị bỏ quên là nếu nói rằng tài sản đã hình thành nhưng chưa đăng ký là tài sản chưa thuộc quyền sở hữu của chủ
thể, thì cho đến ngày đăng ký, tài sản đó là của ai?
7 Luật Đất đai năm 2003 quy định rằng trong một số trường hợp người đang sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận dù
không được giao đất hoặc cho thuê đất theo trình tự, thủ tục được luật định (Điều 50). Trong các trường hợp này, có
những trường hợp việc sử dụng đất có căn cứ pháp lý đầy đủ theo luật của chế độ cũ. Trong thực tiễn, người có các giấy
tờ chứng minh quyền sở hữu đất theo luật của chế độ cũ được phép sử dụng các giấy tờ này để xác lập, thực hiện giao
dịch liên quan đến đất trong thời gian chờ được cấp giấy chứng nhận QSDĐ hợp lệ.
khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai năm 2013,
người sử dụng đất được quyền chuyển
nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, thế
chấp QSDĐ khi có giấy chứng nhận. Điều
này có nghĩa là chỉ có QSDĐ được đăng
ký hợp lệ theo quy định của pháp luật đất
đai hiện hành mới được dùng làm tài sản
bảo đảm. Trên thực tế, có những người sử
dụng đất nhưng không có giấy chứng nhận.
Có một thời những người thuộc trường hợp
này vẫn có thể được đồng hoá với người có
QSDĐ hợp lệ và có quyền xác lập, thực hiện
giao dịch liên quan đến đất như người có
QSDĐ hợp lệ7. Tuy nhiên, theo thời gian,
khi việc đăng ký QSDĐ đã được thực hiện
trên hầu khắp lãnh thổ quốc gia, thì thực tiễn
chấp nhận mang tính ngoại lệ này dần dần
bị đẩy lùi.
QSDĐ và tài sản gắn liền với đất.
Theo quy định của khoản 3 Điều 318 BLDS,
trường hợp thế chấp QSDĐ mà tài sản gắn
liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế
chấp, thì tài sản gắn liền với đất cũng thuộc
tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thoả
thuận khác. Các bên có thể thoả thuận về
việc không đưa một hoặc nhiều tài sản gắn
liền với đất vào diện thế chấp.
Đáng chú ý là khi nhắc đến tài sản gắn
liền với đất, người làm luật không phân biệt
tài sản hiện có hay tài sản hình thành trong
tương lai. Bởi vậy, về mặt lý thuyết, các tài
sản hình thành trong tương lai gắn liền với
đất cũng chịu sự chi phối của quy định tại
khoản 3 Điều 318. Vấn đề không có gì đặc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
38 Số 2+3(378+379) T1/2019
biệt trong trường hợp tài sản hình thành trong
tương lai đang trong quá trình hình thành
ở thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm (ví
dụ, nhà ở đang được xây dựng). Chuyện có
thể rắc rối trong trường hợp tài sản bắt đầu
hình thành sau thời điểm xác lập giao dịch
bảo đảm Dẫu sao, nếu tài sản được tạo
lập thuộc quyền sở hữu của người sử dụng
đất, thì người này hẳn phải hiểu rằng mình
tạo lập tài sản trên đất đang là đối tượng của
giao dịch bảo đảm. Thông thường việc tạo
lập tài sản được thực hiện bằng chính khoản
nợ vay có bảo đảm. Bởi vậy, một cách hợp
lý, các tài sản tạo lập trên đất sau khi QSDĐ
được thế chấp và trong thời gian thế chấp
mà thuộc quyền sở hữu của người sử dụng
đất cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường
hợp các bên có thoả thuận khác.
Trong trường hợp đặc thù, tài sản xuất
hiện trên đất sau khi QSDĐ được thế chấp
lại là tài sản thuộc sở hữu của người khác.
Trong điều kiện không có quy định rõ ràng
của luật, án lệ Việt Nam thừa nhận rằng tài
sản gắn liền với đất mà thuộc sở hữu của
người khác và được tạo lập trên đất sau khi
QSDĐ được thế chấp không thuộc tài sản
thế chấp8.
QSDĐ hình thành trong tương lai.
Nếu “chưa hình thành” được hiểu theo nghĩa
như trên, thì không thể có khái niệm QSDĐ
chưa hình thành. QSDĐ có đối tượng là một
phần đất (parcel of land), một phần lãnh thổ
(part of territory) và phần này phải hiện hữu
chứ không thể nằm trong trí tưởng tượng.
Mặt khác, việc tạo ra quyền sử dụng đối
với một phần đất là việc đòi hỏi sự gặp gỡ
về ý chí của chủ sở hữu đất (là Nhà nước)
và người muốn có đất để sử dụng. Chủ thể
8 Án lệ số 11/2017/AL được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28/12/2017 của Chánh án Toà án nhân dân
tối cao.
9 Theo Nghị định số 11/NĐ-CP ngày 22/02/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/NĐ-CP ngày
29/12/2006 thì tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm QSDĐ. Tuy nhiên, quy định này được xây dựng trong
bối cảnh tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản thuộc một trong ba nhóm, hay đúng hơn là thuộc một
trong hai nhóm (khoản 2 Điều 2): tài sản chưa hình thành hoặc tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký
quyền sở hữu, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp
luật. Quy định theo đó, tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm QSDĐ thật ra chỉ nhằm mục đích ngăn chặn
việc thừa nhận khả năng giao dịch đối với với phần đất mà chủ thể đang sử dụng trên thực tế nhưng chưa hoàn thành
thủ tục hợp thức hoá để được cấp giấy chứng nhận QSDĐ.
tư không thể nói chắc rằng mình sẽ được
giao, được cho thuê hoặc được hợp thức hoá
quyền sử dụng đối với một phần đất và vấn
đề chỉ là thời gian, từ đó giao kết hợp đồng
chuyển nhượng, thế chấp đối với quyền đó9.
QSDĐ đã hình thành là quyền sử dụng
đối với một thửa đất cụ thể, xác định đã được
xác lập cho một chủ thể tư. Trong giả thiết
của Điều 108 BLDS thì QSDĐ đã hình thành
nhưng chưa được xác lập cho chủ thể giao
dịch, nghĩa là đang thuộc về người khác, trở
thành QSDĐ hình thành trong tương lai đối
với các bên giao dịch. Ví dụ về giao dịch có
đối tượng là QSDĐ hình thành trong tương
lai loại này là hợp đồng chuyển nhượng theo
đó người chuyển nhượng cam kết chuyển
nhượng quyền sử dụng đối với một phần
đất trong khi quyền này đang thuộc về một
người khác. Trong chừng mực nào đó, người
chuyển nhượng trong giả thiết mang dáng
dấp của người môi giới. Việc bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ bằng QSDĐ hình thành trong
tương lai loại này, về mặt lý thuyết, vẫn có thể
được thực hiện. Ví dụ: một người vay tiền để
mua quyền sử dụng đối với một phần đất với
cam kết, theo đó, một khi mua được QSDĐ
thì quyền này sẽ được dùng làm tài sản thế
chấp bảo đảm việc trả nợ vay. Ở thời điểm
xác lập cam kết thế chấp, người này có thể
chỉ mới xác lập một hợp đồng hứa mua - hứa
bán, nghĩa là chưa có nhưng nhiều triển vọng
sẽ có quyền sử dụng đối với phần đất ấy.
2.3.2 Thế chấp nhà ở
Nhà ở hiện có và nhà ở hình thành
trong tương lai. Luật Nhà ở có định nghĩa
chính thức về nhà ở hiện có (được gọi tên
trong văn bản luật là nhà ở có sẵn) và nhà ở
hình thành trong tương lai.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
39Số 2+3(378+379) T1/2019
Điều 3. Giải thích từ ngữ
..
18. Nhà ở có sẵn là nhà ở đã hoàn
thành việc đầu tư xây dựng và đưa vào sử
dụng.
19. Nhà ở hình thành trong tương lai
là nhà ở đang trong quá trình đầu tư xây
dựng và chưa được nghiệm thu đưa vào sử
dụng.
Thật ra, nhà ở có sẵn theo nghĩa được
ghi nhận tại khoản 18 Điều 3 Luật Nhà ở
chưa có thể được dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ chừng nào chưa được đăng ký
hợp lệ. Trong khi đó, nhà ở hình thành trong
tương lai thì được thế chấp mà không cần
có giấy chứng nhận. Kết hợp các quy định
có liên quan, thì có thể thừa nhận rằng, nhà
ở đã hoàn thành và đã sử dụng nhưng chưa
được đăng ký không thể được đem thế chấp
dưới danh nghĩa nhà ở có sẵn, cũng không
thể được thế chấp như là nhà ở hình thành
trong tương lai. Bởi vậy, để có thể được thế
chấp trong điều kiện nhà ở đã hình thành mà
chưa được đăng ký trong khung cảnh luật
hiện hành, điều cần thiết là không đưa nhà ở
đó vào sử dụng.
Thế chấp dự án đầu tư xây dựng
nhà ở thương mại và thế chấp nhà ở trong
dự án. Dự án đầu tư xây dựng nhà ở được
hiểu là “tổng hợp các đề xuất có liên quan
đến việc sử dụng vốn để xây dựng mới nhà
ở, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội phục vụ nhu cầu ở hoặc để cải tạo,
sửa chữa nhà ở trên một địa điểm nhất định”
(khoản 8 Điều 3 Luật Nhà ở). Theo luật hiện
hành, dự án đầu tư xây dựng nhà ở được coi
là một loại tài sản hình thành trong tương lai
và có thể được dùng để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ, cụ thể là được thế chấp để vay tiền
đầu tư cho việc xây dựng dự án.
Luật Nhà ở thừa nhận cho chủ đầu tư
dự án có quyền lựa chọn giữa thế chấp toàn
bộ dự án và thế chấp nhà ở cụ thể trong dự
án (khoản 1 Điều 147). Luật cũng quy định
rằng trong “trường hợp chủ đầu tư đã thế
chấp nhà ở mà có nhu cầu huy động vốn
góp để phân chia nhà ở theo quy định của
pháp luật về nhà ở hoặc có nhu cầu bán, cho
thuê mua nhà ở đó thì phải giải chấp nhà
ở này trước khi ký hợp đồng huy động vốn
góp, hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở với
khách hàng, trừ trường hợp được bên góp
vốn, bên mua, thuê mua nhà ở và bên nhận
thế chấp đồng ý”. Quy định này có tác dụng
tạo điều kiện thuận lợi cho người mua thế
chấp tài sản mua dưới tên mình để vay tiền
mua nhà và ngăn ngừa trường hợp hai người
lấy hai tư cách khác nhau - chủ đầu tư và
người mua -để thế chấp cùng một tài sản.
Luật không đòi hỏi chủ đầu tư mà đã
thế chấp toàn bộ dự án xây dựng nhà ở để
vay tiền phải giải chấp đối với dự án trước
khi bán nhà ở thuộc dự án. Điều đó cho phép
thừa nhận rằng nhà ở thuộc dự án có thể bán
trong điều kiện toàn bộ dự án đang thế chấp
và người mua nhà ở có quyền thế chấp nhà
ở thuộc dự án (dưới dạng tài sản chưa hình
thành) để vay tiền mua nhà. Trong trường
hợp cần xử lý tài sản khi chủ đầu tư thế chấp
dự án không trả được nợ vay, thì dự án được
chuyển nhượng cho người khác, và người
nhận chuyển nhượng thay thế chủ đầu tư ban
đầu để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
người này trong quan hệ với người mua nhà
ở thuộc dự án.
Thật ra, một khi chưa bán căn nhà
ở thuộc dự án, dưới dạng bán tài sản hình
thành trong tương lai, thì căn nhà ấy là một
phần của dự án. Bởi vậy, luật chỉ cho phép
nhà đầu tư thế chấp toàn bộ dự án hoặc thế
chấp căn nhà ở thuộc dự án chứ không thể
thế chấp cả hai cùng một lúc (khoản 2 Điều
147 Luật Nhà ở). Điều đó có nghĩa là, một
khi đã thế chấp toàn bộ dự án thì nhà đầu tư
không thể thế chấp căn nhà ở thuộc dự án;
ngược lại, một khi đã thế chấp (chỉ một) căn
nhà thuộc dự án, thì nhà đầu tư không thể
thế chấp toàn bộ dự án được nữa.
Cũng có trường hợp nhà đầu tư thế
chấp toàn bộ dự án trước, sau đó đem bán
căn nhà ở thuộc dự án cho người mua và
người này lại đem thế chấp căn nhà của
mình để vay tiền trả cho chủ đầu tư. Trong
trường hợp này, chủ nợ của chủ đầu tư phải
hiểu rằng giá trị tài sản thế chấp của chủ đầu
tư (nghĩa là giá trị dự án) đã giảm sút do căn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
40 Số 2+3(378+379) T1/2019
nhà ở (một phần của dự án) đã được chuyển
giao cho người khác. Từ nhận thức đó, chủ
nợ của nhà đầu tư phải có biện pháp thích
hợp để bảo vệ quyền lợi của mình và hạn
chế rủi ro. Cụ thể, chủ nợ phải thoả thuận
trước với nhà đầu tư, theo đó, một khi căn
nhà thuộc dự án được đem bán thì số tiền
bán nhà trở thành tài sản bảo đảm thay thế
cho phần giảm sút giá trị của dự án, hoặc
số tiền bán nhà phải được dùng để trả một
phần nợ.
Điều chắc chắn là một khi được bán
cho người mua, thì căn nhà không còn là
một phần của dự án và do đó không thuộc
tài sản thế chấp cho chủ nợ của chủ đầu tư,
cũng không còn thuộc quyền sở hữu của chủ
đầu tư do quyền này đã dược chuyển cho
người mua. Bởi vậy, trong trường hợp chủ
đầu tư không trả được nợ thì chủ nợ có bảo
đảm bằng dự án không có quyền xử lý căn
nhà ở đã bán để thu hồi nợ của mình.
2.3.3 Thế chấp động sản đặc biệt
Thế chấp hàng hoá luân chuyển.
BLDS có thừa nhận việc thế chấp hàng hoá
luân chuyển khi quy định về nội dung quyền
của bên thế chấp (khoản 4 Điều 321), nhưng
lại không có định nghĩa chính thức. Khoản
2 Điều 3 Luật Thương mại có định nghĩa
chính thức về hàng hoá10, nhưng đó lại chỉ
là định nghĩa về hàng hoá tiềm năng, nghĩa
là những tài sản có thể trở thành hàng hoá.
Khoản 8 Điều 3 Nghị định số 163/2006/NĐ-
CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm
có định nghĩa “Hàng hóa luân chuyển trong
quá trình sản xuất, kinh doanh là động sản
dùng để trao đổi, mua bán, cho thuê trong
phạm vi hoạt động sản xuất, kinh doanh của
bên bảo đảm”.
Trong ngữ cảnh của khoản 4 Điều 321
BLDS, bên thế chấp, theo giả thiết, là một
thương nhân và tài sản thế chấp là hàng hoá
10 Điều 3. Giải thích từ ngữ
“.
2. Hàng hóa bao gồm:
a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
b) Những vật gắn liền với đất đai”.
mà người này mua và bán trong khuôn khổ
hoạt động kinh doanh.
Hàng hoá phải được bán trong quá
trình chu chuyển đồng vốn. Bởi vậy, theo
quy định của BLDS, bên thế chấp hàng hoá
luân chuyển được quyền bán, thay thế, trao
đổi hàng hoá luân chuyển trong quá trình
sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp
hàng hoá được luân chuyển, thì quyền nhận
thế chấp được chuyển đối tượng từ tài sản
bị thay thế sang tài sản thay thế (cùng điều
luật): nếu hàng hoá được đem bán, thì số tiền
bán thu được là tài sản thế chấp thay thế; nếu
tài sản được trao đổi, thì tài sản được trao
đổi là tài sản thế chấp thay thế;
BLDS không quy định việc đăng ký
thế chấp đối với hàng hoá luân chuyển. Bên
nhận thế chấp, nếu muốn, có thể đăng ký
việc thế chấp tại cơ quan đăng ký giao dịch
bảo đảm, để có quyền ưu tiên xử lý tài sản
trong trường hợp cần thiết.
Thế chấp kho hàng. Thông thường,
kho hàng được hiểu là nơi chứa hàng chờ
được phân phối (bán hoặc chuyển giao).
Một cách hợp lý, thế chấp kho hàng không
chỉ có đối tượng là nhà kho mà còn cả hàng
hoá để trong kho. Điều đó có nghĩa là kho
hàng đem thế chấp là kho hàng của doanh
nghiệp thế chấp và là một phần tài sản có
của doanh nghiệp.
Về mặt lý thuyết, hàng hoá luân
chuyển là khái niệm rộng hơn kho hàng.
Rõ hơn, hàng hoá luân chuyển là toàn bộ
hàng hoá thuộc sở hữu của doanh nghiệp,
bao gồm hàng để trong kho và hàng bày
bán. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thế chấp
thường chỉ được thực hiện đối với hàng hoá
để trong kho. Bởi vậy, khái niệm hàng hoá
luân chuyển và khái niệm kho hàng, ở góc
độ giao dịch bảo đảm, thường được coi là
hai khái niệm đồng nhất.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
41Số 2+3(378+379) T1/2019
2.3.4 Trường hợp tài sản được bảo hiểm
Thay thế chấp bằng ký quỹ. Theo
quy định của khoản 4 Điều 318 BLDS,
trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm,
thì bên nhận thế chấp phải thông báo cho
tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản đang
được dùng để thế chấp. Tổ chức bảo hiểm
chi trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho bên nhận
thế chấp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Quy định nêu trên có thể hiểu rằng,
một khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, thì số tiền
bảo hiểm do tổ chức bảo hiểm chi trả sẽ
trở thành tài sản bảo đảm thay thế. Giả sử
sự kiện bảo hiểm xảy ra trong khi nợ được
bảo đảm chưa đến hạn đòi và tổ chức bảo
hiểm chi trả tiền bảo hiểm cho bên nhận thế
chấp. Khi đó, có thể nhận thấy mối quan hệ
được chuyển hoá từ thế chấp sang ký quỹ
theo Điều 330 BLDS: bên nhận thế chấp
giữ số tiền bảo hiểm; nếu nợ được bảo đảm
không được trả đủ, thì bên nhận thế chấp có
quyền trừ nợ vào số tiền bảo hiểm. Vả lại,
luật không đòi hỏi bên nhận thế chấp phải
thông báo trước khi xảy ra sự kiện bảo hiểm:
có trường hợp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm,
bên nhận thế chấp mới biết tài sản thế chấp
được bảo hiểm; nếu tổ chức bảo hiểm chưa
trả tiền bảo hiểm cho bên thế chấp, thì bên
nhận thế chấp có quyền yêu cầu giao số tiền
đó cho mình.
Trường hợp bên nhận thế chấp không
thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc
tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế
chấp, thì tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo
hiểm theo hợp đồng bảo hiểm (nghĩa là cho
bên thế chấp) và bên thế chấp có nghĩa vụ
thanh toán cho bên nhận thế chấp (khoản
4 Điều 321). Với quy định này có thể thừa
nhận rằng, trong trường hợp bên nhận thế
chấp không thông báo cho tổ chức bảo hiểm
về việc tài sản thế chấp được bảo hiểm, thì
khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, bên nhận thế
chấp trở thành chủ nợ không có bảo đảm.
2.3.5 Trường hợp tài sản được chuyển
nhượng
Luật không rõ ràng. Khoản 5 Điều
321 BLDS quy định, tài sản thế chấp chỉ có
thể được chuyển nhượng với sự đồng ý của
bên nhận thế chấp, trừ trường hợp tài sản
thế chấp là hàng hoá luân chuyển hoặc luật
có quy định khác. Tuy nhiên, trong trường
hợp bên thế chấp tự ý chuyển nhượng tài
sản thế chấp mà không hỏi ý kiến của bên
thế chấp, thì luật lại không chỉ rõ hậu quả
của giao dịch. Khó có thể thừa nhận rằng
bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu tuyên
bố giao dịch vô hiệu do vi phạm điều cấm
của luật, bởi luật không cấm bên thế chấp
chuyển nhượng tài sản thế chấp: luật chỉ đòi
hỏi bên thế chấp phải hỏi bên nhận thế chấp
và được sự đồng ý của bên nhận thế chấp
về việc chuyển nhượng, nhưng bên thế chấp
trong trường hợp này không tuân thủ điều
kiện ấy.
Điều 301 BLDS quy định, người đang
giữ tài sản bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản
bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý khi
thuộc một trong các trường hợp quy định
tại Điều 299 BLDS. Điều 299 ghi nhận các
trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm không
được thực hiện đúng dẫn đến sự cần thiết
xử lý tài sản bảo đảm. Cần nhấn mạnh rằng,
trong ngữ cảnh của Điều 301, người đang
giữ tài sản bảo đảm có thể là bất kỳ người
nào, kể cả chủ sở hữu tài sản. Áp dụng quy
định này trong trường hợp bên thế chấp bán
tài sản thế chấp mà không có sự đồng ý của
bên nhận thế chấp, thì bên nhận thế chấp vẫn
có quyền yêu cầu bên mua tài sản giao tài
sản thế chấp cho mình để xử lý. Điều này
đặc biệt hợp lý trong trường hợp tài sản
thuộc loại phải đăng ký, bởi việc thế chấp
tài sản được đăng ký và người nhận chuyển
nhượng cũng phải đăng ký việc chuyển
nhượng, do đó, buộc phải biết tài sản đang
được thế chấp: một khi chấp nhận mua tài
sản trong tình trạng được thế chấp, người
mua phải chấp nhận tất cả các rủi ro gắn liền
với tình trạng này.
2.3.6 Thế chấp tài sản trí tuệ, giấy tờ có
giá, tài khoản tiền gửi, tài khoản ngân hàng
Thế chấp tài sản trí tuệ. Tài sản trí
tuệ là tài sản vô hình, nghĩa là không thể
được chiếm hữu. Bởi vậy, tài sản trí tuệ chỉ
có thể được dùng để bảo đảm nghĩa vụ bằng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
42 Số 2+3(378+379) T1/2019
cách thế chấp. Việc thế chấp tài sản trí tuệ
không được điều chỉnh bằng các quy định
riêng như các trường hợp thế chấp nhà ở hay
QSDĐ; vấn đề hoàn thiện chế độ pháp lý
về thế chấp tài sản trí tuệ đã được đặt ra từ
nhiều năm nay, nhưng vẫn chưa được giải
quyết rốt ráo. Trong khung cảnh luật hiện
hành, việc thế chấp tài sản trí tuệ được xác
lập, thực hiện theo luật chung, đặc biệt là
theo hợp đồng. Việc đăng ký giao dịch bảo
đảm đối với trường hợp thế chấp tài sản trí
tuệ là không bắt buộc. Trong điều kiện việc
nhận bảo đảm bằng tài sản trí tuệ còn chịu
nhiều rủi ro, thực tiễn hầu như không ghi
nhận giao dịch bảo đảm loại này11.
Thế chấp tài khoản tiền gửi, tài
khoản chứng khoán, giấy tờ có giá. Tài
khoản tiền gửi và tài khoản chứng khoán
cũng có thể được thế chấp và trên thực tế
đã có nhu cầu và đang được thế chấp trong
trường hợp bên cho vay đồng thời cũng là tổ
chức tín dụng quản lý tài khoản. Tuy nhiên,
cho đến nay, khung pháp lý chi phối giao
dịch đặc thù này vẫn còn rất lỏng lẻo. Bản
thân ngân hàng hoặc công ty chứng khoán
nơi mở cũng không biết phải làm gì cho
đúng luật, đặc biệt là trong trường hợp nợ
được bảo đảm không được trả và cần xử lý
tài khoản tiết kiệm, tài khoản chứng khoán
trong khuôn khổ bắt buộc thực hiện nghĩa vụ
được bảo đảm.
Việc thế chấp giấy tờ có giá được luật
cho phép12 nhưng trên thực tế, chủ nợ nhận
bảo đảm thường yêu cầu giấy tờ có giá phải
11
muoi/.htm (truy cập ngày 25/9/2018);
0T7.2016.pdf (truy cập ngày 25/9/2018).
so-huu-tri-tue-trong-vay-von-ngan-hang-22749.html;
san-tri-tue-33859.html
12 Theo Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 Điều 1 khoản 1, Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối
phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị
giá được thành tiền và được phép giao dịch.
13 https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/ttsk/ttsk_chitiet?leftWidth=20%25&showFooter=false&-
showHeader=false&dDocName=CNTHWEBAP01162394690&rightWidth=0%25¢erWidth=80%25&_afr-
Loop=2050162317485406#%40%3F_afrLoop%3D2050162317485406%26centerWidth%3D80%2525%26dDocNa
me%3DCNTHWEBAP01162394690%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Df-
alse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dlfvf3o7c2_9 (truy cập ngày 01/10/2018). Cơ sở pháp lý của việc
cho vay của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá là Thông tư số
11/2011/TT-NH ngày 18/8/2011 của Ngân hàng Nhà nước.
được cầm cố. Việc cầm cố giấy tờ có giá
cũng được Ngân hàng Nhà nước coi là biện
pháp bảo đảm tiền vay mà Ngân hàng Nhà
nước cấp cho các ngân hàng thương mại13.
Ngân hàng Nhà nước không chấp nhận bảo
đảm các khoản vay này bằng biện pháp thế
chấp giấy tờ có giá. Bởi vậy, sự e ngại được
ghi nhận trong thực tiễn đối với loại bảo
đảm nghĩa vụ này không phải là điều đáng
ngạc nhiên.
3. Thay lời kết
Vấn đề định dạng tài sản bảo đảm đặc
biệt quan trọng trong trường hợp tài sản
được thế chấp. Lý do chính là trong thời
gian thế chấp, tài sản thường vẫn được để
lại cho người thế chấp sử dụng. Vấn đề càng
trở nên phức tạp trong trường hợp tài sản thế
chấp là tài sản vô hình, bởi việc định dạng
và thẩm định giá trị của các tài sản loại này
đòi hỏi sử dụng những công cụ đặc thù.
Trên nguyên tắc, tất cả các tài sản
được tự do lưu thông phải có thể được dùng
làm vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Mặt
khác, phải làm thế nào để chủ nợ có bảo đảm
có điều kiện tốt nhất kiểm soát sự hiện hữu
và biến động giá trị của tài sản bảo đảm để
có được sự an tâm, cũng như có điều kiện
chuẩn bị các phương án phòng ngừa và ứng
phó rủi ro trong các trường hợp cần thiết.
Yêu cầu này đặc biệt bức bách trong trường
hợp tài sản được thế chấp, do bên chủ nợ
nhận bảo đảm không nắm giữ tài sản trong
thời gian thế chấp.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
43Số 2+3(378+379) T1/2019
Theo kinh nghiệm của các nước14, để
thoả mãn yêu cầu của chủ nợ nhận bảo đảm,
có thể chọn một trong hai cách: xây dựng và
hoàn thiện hệ thống đăng ký giao dịch bảo
đảm hoặc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
bảo hiểm giao dịch. Yêu cầu đặt ra khi xây
dựng hệ thống đăng ký là phải làm thế nào
để sổ đăng ký có thể được hình dung như
một bức tranh hoàn chỉnh mô tả tình trạng
pháp lý của tài sản, đặc biệt là tình hình chịu
sự tác động của các vật quyền có thể ảnh
hưởng đến giá trị kinh tế của tài sản. Nói rõ
hơn, phải thừa nhận việc đăng ký có hiệu lực
pháp lý nhất định đối với người thứ ba - hiệu
lực đối kháng hoặc mạnh hơn nữa, hiệu lực
xác lập quyền.
Kinh nghiệm cho thấy, việc đăng ký
có thể được thực hiện một cách có hiệu quả
để phục vụ cho việc quản lý, theo dõi các
bất động sản. Đối với các động sản, việc
đăng ký có thể được thực hiện trong một
số trường hợp mà tài sản ổn định về hình
dáng và chất lượng trong những điều kiện
sử dụng bình thường. Ví dụ, đăng ký tàu
biển, máy bay, đăng ký quyền sở hữu công
nghiệp, Các tài sản đặc biệt như tài khoản
ngân hàng, tài khoản chứng khoán có thể
được đăng ký ngay tại ngân hàng hoặc công
ty chứng khoán nơi mở tài khoản: luật có thể
quy định trách nhiệm của tổ chức quản lý tài
khoản trong việc cung cấp thông tin về tình
trạng pháp lý của tài khoản theo yêu cầu của
người có quan tâm theo cùng một mô thức
như trách nhiệm công bố thông tin về tài sản
của cơ quan đăng ký tài sản.
Trong không ít trường hợp, chỉ riêng
việc đăng ký không đủ để giúp chủ nợ có
bảo đảm có được hình ảnh vật lý và pháp lý
của tài sản. Chẳng hạn, đăng ký đối với việc
14 Tham khảo luật của Pháp: Ph. Malaurie và L. Aynès, Droit civil – Les biens. La publicitéfoncière, Cujas, Paris, 1998, tr.
382 và kế tiếp; luật của Mỹ: D.A. Thomas, Title and Marketable Title, in Thompson on Real Property, Second Thomas
Edition, LexisNexis, New York, 2002.
15 Trong luật của Pháp, đăng ký thế chấp hàng hoá luân chuyển được thực hiện tại Phòng lục sự Toà án Thương mại nơi
đặt trụ sở kinh doanh: xem, Ph. Simler và Ph. Delebecque, Droit civil - Le suretés, la publicité foncière, Dalloz, 2009,
tr. 326. Tuy nhiên, việc đăng ký này chỉ có tác dụng thừa nhận quyền ưu tiên của chủ nợ trong trường hợp tài sản được
xử lý, chứ không giúp gì được cho chủ nợ trong việc theo dõi tình hình biến động của tài sản.
16 Tham khảo D.A. Thomas, Title and Marketable Title, in Thompson on Real Property, Second Thomas Edition,
LexisNexis, New York, 2002.
thế chấp hàng hoá luân chuyển là việc làm
không hiệu quả về phương diện kiểm soát sự
luân chuyển của hàng hoá như là giá trị của
tài sản bảo đảm15. Thậm chí, như đã đề cập
ở trên, cả việc thừa nhận tính chất vật quyền
cho quyền của chủ nợ nhận thế chấp đối
với hàng hoá luân chuyển cũng không giúp
được gì cho chủ nợ trong việc kiểm soát sự
biến động về hình thức biểu hiện cũng như
cập nhật về tình trạng pháp lý của tài sản.
Đối với các loại tài sản này, cách tốt nhất
là tạo điều kiện để người nhận thế chấp có
thể trực tiếp theo dõi, giám sát quá trình chu
chuyển hàng hoá, từ hàng trở thành tiền, rồi
lại từ tiền trở thành hàng hóa. Trong điều
kiện việc lập sổ sách kế toán theo dõi sự ra
vào của hàng hoá tại các doanh nghiệp trong
xã hội ngày nay được tin học hoá một cách
phổ biến, thì việc kiểm soát hàng hoá luân
chuyển dựa vào công nghệ thông tin là hoàn
hoàn khả thi.
Triển khai hệ thống bảo hiểm giao
dịch16: Có những nơi, vì nhiều lý do, hệ
thống đăng ký không được tổ chức tốt và
không thể được sử dụng một cách có hiệu
quả như là phương tiện công bố và công
khai tình trạng pháp lý của tài sản. Ở góc
nhìn Việt Nam, mô hình bảo hiểm giao dịch
có thể được khai thác như là công cụ hỗ trợ
cho giao dịch bảo đảm trong các trường hợp
không thể kiểm soát, quản lý tài sản thế chấp
bằng biện pháp đăng ký và cũng không thể
có cách nào khác để theo dõi sự di chuyển
của tài sản■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
44 Số 2+3(378+379) T1/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xac_dinh_tai_san_the_chap_theo_tinh_than_bo_luat_dan_su_nam.pdf