Thứ hai, cần xây dựng chiến lược phát
triển quốc gia trên cơ sở nhận thức rõ bản
chất của quốc gia kiến tạo phát triển. Chiến
lược phát triển quốc gia cần phải dựa trên
nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm
quyền làm chủ của Nhân dân9. Điều đó có
nghĩa, cần phải có sự nhận thức đúng đắn
về quyền làm chủ của Nhân dân nói riêng và
bản chất của dân chủ nói chung. Lâu nay, bản
chất của hiện tượng dân chủ chưa được các
nhà khoa học xã hội ở Việt Nam phân tích
thấu đáo, làm sáng tỏ. Dân chủ cần phải được
nhận thức đúng đắn theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Theo đó, cần phải xác định rõ vị trí,
vai trò của Nhân dân - lực lượng tương tự như
các “người chủ” (mục tiêu) và có quyền“làm
chủ” (phương pháp) theo nguyên tắc “pháp
quyền” trong quốc gia dân chủ cộng hòa thật
sự10. Dân chủ có thể được nhìn nhận tương
tự như một “con đường dân chủ” dài vô tận
với các mục tiêu hướng tới độc lập mang tính
“nhân quả” (đầu - cuối), có phương pháp thực
hiện mang tính đối lập “song hành” (phải -
trái) và nguyên tắc thực hiện mang tính đối
lập, độc lập “trung gian” (ở giữa), tức “thực
hành dân chủ”11. Thực hành dân chủ là hiện
tượng gắn với hoạt động mang tính tự do của
con người; trong mối quan hệ với tự do, thì
hiện tượng dân chủ tương tự như mục tiêu,
phương pháp, còn hiện tượng tự do tương
tự như nguyên tắc. Nói cách khác, dân chủ
được nhìn nhận vừa là mục tiêu, vừa là động
lực trong quá trình phát triển khách quan của
xã hội loài người. Nếu trong quốc gia, xã hội
loài người mà thiếu tự do, dân chủ sẽ không
có phát triển.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng chính sách quốc gia kiến tạo phát triển bền vững ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Hữu Đổng*
* PGS. TS. Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Tóm tắt:
Quốc gia giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh phụ thuộc
vào chính sách hay chiến lược quốc gia phải tạo được sự phát
triển. Chính sách quốc gia tạo sự phát triển chỉ có thể có được
trong các thể chế dân chủ theo nguyên tắc pháp quyền. Việt
Nam chỉ có thể phát triển bền vững khi xây dựng được “quốc
gia khởi nghiệp” trên cơ sở thể chế dân chủ cộng hòa, tức xây
dựng được quốc gia kiến tạo phát triển bền vững.
Abstract:
A nation of wealth, democracy, fairness and civilized
society that depends on its national policies or strategies
has to create the developments. The national development
policy is only available in the democratic institutions under
the rule of law. Vietnam can only develop sustainably
when a "start-up country" is established on the basis of
the democratic republic, that is to establish a tectonic
government for sustainable developments.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: chính sách, quốc gia, kiến tạo, phát
triển
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 17/11/2017
Biên tập: 16/12/2017
Duyệt bài: 23/12/2017
Article Infomation:
Keywords: policy, nation, tectonic,
development
Article History:
Received: 17 Nov. 2017
Edited: 16 Dec. 2017
Approved: 23 Dec. 2017
XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH QUỐC GIA
KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
1. Bản chất của chính sách quốc gia và
phát triển
1.1 Bản chất của chính sách quốc gia
Chính sách quốc gia là bao hàm các
khái niệm “chính sách” và “quốc gia”. Khái
niệm chính sách bao hàm các thuật ngữ
“chính” và “sách”. Chính trong khái niệm
chính sách là muốn nói tới phương pháp của
các cá nhân, nhóm trong cộng đồng quốc
gia (chủ thể) thực hiện các mục tiêu, như
khoa học, văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội
(khách thể); còn sách là muốn nói tới mục
tiêu hướng tới của các chủ thể. Giữa phương
pháp (chính) và mục tiêu (sách) là tồn tại
thực thể (bản chất) hay nguyên tắc thực hiện
mục tiêu. Theo đó, chính sách biểu hiện
CHÑNH SAÁCH
49Số 3+4 (355+356) T02/2018
ở mô hình có cấu trúc cơ bản là: xác định
mục tiêu và phương pháp, nguyên tắc thực
hiện. Chính sách nhìn từ việc xác định mục
tiêu, phương pháp là muốn nói đến chính
sách gì, thực hiện ở đâu trong hoạch định?
Chẳng hạn, chính sách biểu hiện trong khoa
học, như chính sách khoa học công nghệ,
xã hội; biểu hiện trong văn hóa, như chính
sách giáo dục, y tế; biểu hiện trong kinh tế,
như chính sách trong sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ; biểu hiện trong chính trị, như chính
sách của quốc gia (chính sách của Nhà nước
- “chính sách công” và chính sách của các
nhóm- “chính sách tư”). Chính sách nhìn từ
việc xác định nguyên tắc là muốn nói đến
chính sách biểu hiện theo xu hướng nào,
cân bằng ra sao trong đánh giá? Chẳng hạn,
chính sách biểu hiện về mặt chất lượng, như
chính sách có hiệu quả, không hoặc ít hiệu
quả; biểu hiện về mặt số lượng, như chính
sách ngắn hạn, trung hạn, hoặc dài hạn; biểu
hiện về mặt xu hướng, như chính sách “mở
cửa” (tiến bộ), “đóng cửa” (thoái bộ), hay
cân đối giữa đóng và mở; biểu hiện về mặt
độ lớn, như chính sách vĩ mô, ngành, hoặc vi
mô; biểu hiện về khả năng, như chính sách
cân đối, hợp lý, hoặc bất cân đối, chính sách
công bằng, bình quân, hoặc bất công bằng,
chính sách bền vững (lâu bền, vững chắc),
ổn định, hoặc thiếu bền vững. Từ các phân
tích cho thấy, chính sách có thể được nhìn
nhận là hoạt động biểu hiện mối tương quan
hướng tới cân bằng về xác định các mục tiêu
và đề ra các phương pháp, nguyên tắc thực
hiện của các chủ thể, nhằm đạt được phúc
lợi chung cho cộng đồng xã hội.
Khái niệm quốc gia gồm các thuật ngữ
“quốc” và “gia”. Quốc là muốn nói tới mục
tiêu (hình thức) của chủ thể, như cộng đồng
(nhiều nhóm), cá nhân (nhóm) trong quốc
gia; còn gia là muốn nói tới phương pháp
(nội dung), như “hay” hoặc “dở” của các
chủ thể trong quốc gia. Giữa quốc và gia là
tồn tại nguyên tắc (tính chất) cân bằng giữa
chúng. Nhìn về khía cạnh mục tiêu, quốc
gia biểu hiện ở dạng vật thể, như hình thức
lớn hay nhỏ của quốc gia; biểu hiện ở dạng
phi vật thể, như hình thức mạnh hay yếu của
quốc gia; biểu hiện ở dạng thực thể, như
nguyên tắc cân bằng hay bất cân bằng giữa
các chủ thể trong quốc gia. Nhìn về khía
cạnh phương pháp, quốc gia biểu hiện hoạt
động ở các lĩnh vực, như trong kinh tế có
hoạt động lao động, sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ; trong chính trị có hoạt động của các
tổ chức đảng phái; trong khoa học có các
viện nghiên cứu khoa học về kinh tế, xã hội;
trong văn hóa có các tổ chức, hoạt động của
xã hội dân sự. Nhìn về khía cạnh nguyên tắc,
quốc gia có mục tiêu “tiến bộ”, không, hoặc
“phản tiến bộ”; quốc gia có phương pháp
thực hiện mục tiêu bởi một nhóm (thiểu
số - độc đoán) hay nhiều nhóm (đa số - dân
chủ); quốc gia có bản chất khép kín (thiếu
minh bạch) hay mở rộng (minh bạch); quốc
gia có xu hướng phát triển, ít, hoặc không
phát triển. Nói một cách chung nhất, quốc
gia trong xã hội loài người có thể được nhìn
nhận là hiện tượng biểu hiện mối tương
quan hướng tới cân bằng hoặc bất cân bằng
các mối quan hệ theo quy luật khách quan
về giá trị (độc lập, tự do), quyền lợi (quyền
lực, lợi ích), tinh thần (hạnh phúc, niềm tin)
giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng.
Chính sách quốc gia bao hàm chính
sách của một “nhóm” đại diện là nhà nước,
và chính sách của “nhiều nhóm” trong cộng
đồng xã hội. Chính sách của nhóm đại diện
được xây dựng, thực thi bởi các công dân
trong bộ máy nhà nước; còn chính sách
CHÑNH SAÁCH
50 Số 3+4 (355+356) T02/2018
của nhiều nhóm trong cộng đồng được xây
dựng, thực thi bởi các công dân trong cộng
đồng xã hội. Nếu nhìn nhận, so sánh chính
sách quốc gia như một dãy chữ số nguyên
trong toán học, có thể thấy rằng, trong quốc
gia là bao hàm chính sách của nhà nước
(chính sách “công”) - tương tự chữ số 1 (số
ít - nhóm), và các chính sách của cộng đồng
xã hội (chính sách “tư”) - tương tự chữ số
từ 2 đến 9 (số nhiều - nhiều nhóm). Điều đó
cho thấy rằng, chính sách “đầu tư công” cần
phải được nhìn nhận trong mối tương quan
với chính sách “đầu tư quốc gia”; tức khu
vực kinh tế tư nhân (cộng đồng) cần phải giữ
vai trò chủ đạo trong đầu tư vào sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ của quốc gia. Từ các
phân tích cho thấy rằng, chính sách quốc
gia có thể được nhìn nhận là hoạt động biểu
hiện mối tương quan hướng tới cân bằng về
xác định các mục tiêu và đề ra các phương
pháp, nguyên tắc thực hiện của các chủ thể,
nhằm đạt được phúc lợi chung cho cộng
đồng trong quốc gia.
2.2 Bản chất của phát triển
Khái niệm phát triển bao gồm các thuật
ngữ “phát” và “triển”. Phát trong khái niệm
phát triển là muốn nói tới phương pháp của
các cá nhân, cộng đồng, quốc gia (chủ thể)
thực hiện các mục tiêu, như về khoa học,
văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội (khách
thể); còn triển là muốn nói tới mục tiêu có
triển vọng đạt được bởi phương pháp. Giữa
phát và triển là tồn tại thực thể (tính chất)
hay nguyên tắc, quy luật phát triển. Theo
đó, phát triển biểu hiện ở các mặt cơ bản là:
hình thức, nội dung và tính chất. Phát triển,
xét về nội dung, hình thức là muốn nói đến
phát triển cái gì, ở đâu? Chẳng hạn, phát
triển biểu hiện trong khoa học, như phát
triển khoa học công nghệ, tự nhiên, xã hội;
biểu hiện trong văn hóa, như phát triển giáo
dục, y tế, thể thao, du lịch; biểu hiện trong
kinh tế, như phát triển sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ; biểu hiện trong chính trị, như phát
triển các tổ chức chính trị, cơ quan nhà nước
trong quốc gia. Phát triển, xét về tính chất
là muốn nói đến phát triển theo xu hướng
nào, cân bằng ra sao? Chẳng hạn, phát triển
biểu hiện về mặt chất lượng, như phát triển
theo chiều sâu hoặc chiều rộng; biểu hiện
về mặt số lượng, như phát triển ngắn hạn
hoặc dài hạn; biểu hiện về mặt xu hướng,
như phát triển theo xu hướng mở (tiến bộ),
đóng (thoái bộ - phản phát triển), hay cân
đối giữa mở và đóng; biểu hiện về mặt tốc
độ, như phát triển nhanh, trung bình, hoặc
chậm; biểu hiện về khả năng, như phát triển
cân bằng, ít, hoặc bất cân bằng, phát triển
công bằng, ít, hoặc bất công bằng, phát triển
bền vững, không, hoặc thiếu bền vững. Phát
triển có thể được nhìn nhận là hiện tượng
biểu hiện mối tương quan hướng tới sự cân
đối, cân bằng, công bằng, bình đẳng giữa
các mặt của sự vật, hiện tượng trong thế giới
tự nhiên và xã hội loài người. Đối lập với
phát triển là phản phát triển, tức là không có
sự cân đối, cân bằng trong tự nhiên, sự công
bằng, bình đẳng trong xã hội.
2.3 Mối quan hệ giữa chính sách
quốc gia và phát triển
Chính sách quốc gia và phát triển là
các hiện tượng khách quan, có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau trong việc bảo đảm công
bằng, bình đẳng về giá trị, quyền lợi, tinh
thần giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng,
quốc gia. Nói đến chính sách quốc gia và
phát triển là nói đến lực lượng cầm quyền đã
tạo ra các điều kiện thuận lợi về môi trường,
như thể chế dân chủ, pháp quyền để kiến
tạo phát triển quốc gia. Chính sách quốc
CHÑNH SAÁCH
51Số 3+4 (355+356) T02/2018
gia không tạo điều kiện cho phát triển tức
là các nhà cầm quyền còn những hạn chế
trong việc xác định các mục tiêu và đề ra
các phương pháp, nguyên tắc dân chủ, pháp
quyền để thực hiện.
Quốc gia kiến tạo phát triển được biểu
hiện ở bên ngoài là vai trò của Nhà nước đối
với sự phát triển quốc gia nói chung, phát
triển các lĩnh vực của đời sống xã hội nói
riêng, tức biểu hiện bản chất của “nhà nước
kiến tạo phát triển”. Điều đó có nghĩa, quốc
gia kiến tạo phát triển bao gồm các chủ thể là
Nhà nước và các cá nhân, cộng đồng xã hội.
Phát triển là chủ yếu muốn nói đến phát triển
kinh tế, khoa học, văn hóa, xã hội, hay chính
sách phát triển quốc gia nói chung. Phát
triển quốc gia phải gắn chặt với sự phát triển
của các lĩnh vực khác nhau của xã hội. Quốc
gia không thể phát triển nếu không phát triển
đồng bộ các lĩnh vực, trong đó, chính sách
hay chiến lược phát triển quốc gia có vị trí
quan trọng; bởi không thể có quốc gia được
nhìn nhận là phát triển cao, trong khi chính
sách kinh tế kém phát triển, hoặc thiếu phát
triển văn hóa, xã hội, không bảo đảm dân
chủ, không bảo đảm công bằng, bình đẳng
xã hội, như diễn ra sự bất công bởi tình trạng
tham nhũng, lãng phí, thiếu đạo đức, lương
tâm của con người trong xã hội.
Trong chính sách phát triển quốc gia,
thể chế được hiểu là “những nguyên tắc xác
định mối quan hệ giữa xã hội và các thành
viên trong xã hội”1. Điều đó có nghĩa, phát
triển quốc gia là tồn tại thể chế trong lĩnh
vực chính sách, tức tồn tại pháp luật (nguyên
tắc) về phát triển quốc gia nhằm bảo đảm tự
1 Báo cáo phát triển Việt Nam 2010: Các thể chế hiện đại. Báo cáo chung của các nhà tài trợ hội nghị tư vấn các nhà tài
trợ cho Việt Nam, Hà Nội, tháng 12/2009.
do tranh luận, thực hiện sự công bằng, bình
đẳng về giá trị, quyền lợi, tinh thần giữa
các chủ thể, khách thể trong lĩnh vực hoạch
định chính sách quốc gia. Do vậy, phát triển
quốc gia là gắn với các mục tiêu, phương
pháp, chủ thể, khách thể, thể chế nhằm để
cân bằng giữa chính sách quốc gia và phát
triển. Nói cách khác, chính sách phát triển
quốc gia có thể được nhìn nhận là hoạt động
của các chủ thể theo thể chế pháp luật về
xác định các mục tiêu và đề ra các phương
pháp, nguyên tắc thực hiện, nhằm đạt được
phúc lợi chung, bảo đảm sự cân đối, cân
bằng về môi trường sống trong tự nhiên,
sự công bằng, bình đẳng về giá trị, quyền
lợi, tinh thần cho mỗi cá nhân, nhóm, cộng
đồng trong quốc gia. Theo đó, chính sách
hay chiến lược phát triển quốc gia bền vững
có thể được nhìn nhận là hoạt động của các
chủ thể theo pháp luật về xác định các mục
tiêu và đề ra các phương pháp, nguyên tắc
thực hiện, nhằm đạt được phúc lợi chung,
bảo đảm sự cân đối, cân bằng lâu bền, vững
chắc về môi trường sống trong tự nhiên, sự
công bằng, bình đẳng lâu bền, vững chắc về
giá trị, quyền lợi, tinh thần cho mỗi cá nhân,
nhóm, cộng đồng trong quốc gia.
Chính sách hay chiến lược phát triển
quốc gia có mối quan hệ chặt chẽ với thể
chế quốc gia cộng hòa dân chủ. Quốc gia
cộng hòa là muốn nói đến các cộng đồng
dân cư cùng nhau chung sống hài hòa (hòa
bình), kể cả việc hoạch định chính sách phát
triển quốc gia; quốc gia dân chủ là muốn nói
đến nhân dân, tức tất cả các “giai cấp công,
nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những
CHÑNH SAÁCH
52 Số 3+4 (355+356) T02/2018
phần tử khác yêu nước”2 trong quốc gia đều
được coi là những “ông chủ”3 (là chủ) và
“làm chủ”4, được tự do, dân chủ trong các
hoạt động kiến tạo sự phát triển quốc gia.
Quốc gia không xây dựng thể chế cộng hòa
dân chủ thì không thể có chính sách quốc gia
kiến tạo sự phát triển; ngược lại, quốc gia
không thể phát triển nếu không có thể chế
cộng hòa dân chủ. Nếu các nhà lý luận, thực
tiễn chính trị ở các quốc gia biết xác định
rõ các mục tiêu phát triển quốc gia, đề ra
các phương pháp, nguyên tắc thực thi đúng
đắn, hiệu quả, tức xây dựng thể chế quốc gia
cộng hòa dân chủ thật sự, sẽ bảo đảm kiến
tạo quốc gia phát triển.
Việc xác định và thực hiện các mục
tiêu, thể chế quốc gia đúng đắn là phụ thuộc
vào cách tổ chức thực hiện có hiệu quả trong
thực tế sự phát triển cân đối, đồng bộ ở các
lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội trong
quốc gia. Điều đó muốn nói rằng, việc xác
định mục tiêu, đề ra phương pháp, nguyên
tắc thực hiện thể chế cộng hòa dân chủ và
phát triển cân bằng, công bằng các lĩnh vực,
như kinh tế, văn hóa, xã hội trong quốc gia
là có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong
quốc gia mà không xác định rõ mục tiêu,
thực hành thể chế cộng hòa dân chủ thì phát
triển sẽ chậm hoặc trì trệ, tức không bảo
đảm được cân bằng về môi trường sống giữa
tự nhiên và con người, không bảo đảm được
công bằng, bình đẳng xã hội trong thực tế.
Xây dựng mục tiêu, thể chế cộng hòa dân
chủ và xác định mục tiêu, các chiến lược
phát triển có thể được coi là các hoạt động
tương đồng; bởi vì không thể có mục tiêu,
2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 1995, t. 7, tr. 219.
3 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 218-219.
4 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 452.
5 https://tuoitre.vn/vn-sap-bay-thu-nhap-trung-binh-602801.htm
thể chế cộng hòa dân chủ bảo đảm cho quốc
gia phát triển mà lại thiếu sự xác định mục
tiêu, các chiến lược phát triển trong quốc
gia. Nói cách khác, quốc gia phát triển tức là
đã xác định rõ mục tiêu và thực hành thể chế
cộng hòa dân chủ; ngược lại, quốc gia xác
định rõ mục tiêu, thực hành thể chế cộng hòa
dân chủ tức là sẽ có thể phát triển. Xây dựng
các chính sách hay chiến lược phát triển có
mục tiêu cụ thể, đúng đắn, thực hành thể chế
dân chủ cộng hòa, tức các chính sách quốc
gia tạo điều kiện cho phát triển, hay quốc
gia kiến tạo phát triển, có vai trò to lớn trong
việc thực hiện từng bước các mục tiêu phúc
lợi chung của đất nước.
3. Quốc gia kiến tạo phát triển ở Việt Nam
- thực trạng và kiến nghị
3.1 Thực trạng
Thực tế cho thấy, đã qua ba mươi năm
đổi mới, kinh tế Việt Nam mặc dù có nhiều
năm đạt được mức độ tăng trưởng khá cao,
nhưng về tổng thể, vẫn là một nước phát
triển thấp so với nhiều quốc gia khác trên thế
giới. Hiện nay, Việt Nam được coi là nước
phát triển trung bình và đang có nguy cơ bị
“sập bẫy”5 thu nhập trung bình; hơn nữa,
theo đánh giá của nhiều chuyên gia, Việt
Nam được liệt vào nhóm nước “chưa giàu
đã già”, tức thời cơ vàng làm giàu cho nước
ta đang biểu hiện không mấy sáng sủa. Hiện
nay, các chính sách phát triển kinh tế, văn
hóa, giáo dục đều đang có nhiều biểu hiện
tụt hậu, thiếu tầm nhìn phát triển. Chỉ nhìn
nhận về lĩnh vực kinh tế đã cho thấy, mặc
dù vốn đầu tư vào phát triển được nhận định
CHÑNH SAÁCH
53Số 3+4 (355+356) T02/2018
là không hề nhỏ, trong 20 năm qua, riêng
lượng ODA đổ vào Việt Nam lên tới gần 90
tỷ USD, kinh tế có tăng trưởng, nhưng chưa
tương xứng với số vốn đầu tư; tình trạng nợ
công cao, nhiều doanh nghiệp kinh doanh
thiếu hiệu quả. Chính phủ cũng đã đánh giá
thẳng thắn là có nhiều bất cập trong chính
sách kinh tế, văn hóa, xã hội. Chẳng hạn,
như kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc,
nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn; năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế không cao, hiệu quả đầu tư
công thấp; phát triển văn hóa và thực hiện
tiến bộ công bằng xã hội nhiều mặt hạn chế,
khắc phục còn chậm; giải quyết việc làm,
đời sống của một bộ phận nhân dân còn
nhiều khó khăn, khoảng cách giàu nghèo
lớn; chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân
còn hạn chế; việc bảo đảm vệ sinh an toàn
thực phẩm có nhiều yếu kém; tệ nạn xã hội
một số nơi diễn biến phức tạp, nhiều biểu
hiện xấu về đạo đức, lối sống; tình trạng ô
nhiễm môi trường khắc phục chậm; cơ cấu
tổ chức, bộ máy nhà nước cồng kềnh; chức
năng, nhiệm vụ chồng chéo; năng lực, phẩm
chất, đạo đức, tinh thần trách nhiệm của một
bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có
nhiều hạn chế; bảo vệ chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ trên Biển Đông còn nhiều
khó khăn, thách thức; công tác đối ngoại và
hội nhập kinh tế quốc tế có mặt chưa thật
chủ động, hiệu quả chưa cao6. Thực trạng
này cho thấy, cần phải có tư duy nhận thức
mới về xây dựng, thực hiện chính sách quốc
gia hay chiến lược phát triển đất nước, đáp
ứng với yêu cầu “hội nhập quốc tế trong
điều kiện mới”7 mà Đảng đã xác định.
6
7 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Nxb. Chính trị Quốc gia, H., tr. 219.
8 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 217.
3.2 Một số kiến nghị
Kiến tạo “phát triển đất nước nhanh,
bền vững”8 đã được Đảng coi là nhiệm vụ
trọng tâm cần thực hiện trong nhiệm kỳ Đại
hội XII. Để góp phần thực hiện nhiệm vụ
mà Đảng đề ra, theo chúng tôi, đất nước cần
phải thật sự đổi mới tư duy, đáp ứng được
một số yêu cầu về nhận thức, thực hành
mang tính giải pháp chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, quốc gia kiến tạo phát triển
ở Việt Nam cần được thực hiện theo mô hình
cấu trúc, bao gồm: chủ thể (nhà nước), khách
thể (xã hội) và thể chế (pháp luật) kiến tạo
phát triển. Trong mô hình này, xã hội (Nhân
dân hưởng độc lập, tự do, hạnh phúc) được
coi là mục tiêu; Nhà nước (của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân) được coi là phương
pháp, còn thể chế (dân chủ, pháp quyền)
được coi là nguyên tắc thực hiện kiến tạo
phát triển. Như vậy, ở Việt Nam, quốc gia
kiến tạo phát triển bao hàm các yếu tố cơ
bản là Nhà nước, xã hội và thể chế kiến
tạo phát triển. Nói cách khác, ở Việt Nam,
quốc gia kiến tạo phát triển phụ thuộc vào
việc xác định các mục tiêu, phương pháp
và nguyên tắc thực hiện theo đúng quy luật
phát triển khách quan của xã hội loài người.
Theo đó, cần xác định rõ các hình thức, nội
dung, bản chất của các chính sách trong
quốc gia. Chẳng hạn, cần xác định rõ các
hình thức sở hữu trong chính sách về đất đai,
như sở hữu quốc gia (cộng đồng), tư nhân
(cá nhân, nhóm), chứ không phải là sở hữu
“toàn dân” như hiện nay; xác định rõ các
hình thức trong chính sách về đầu tư, như
chính sách đầu tư của quốc gia, hay đầu tư
CHÑNH SAÁCH
54 Số 3+4 (355+356) T02/2018
của tư nhân vào sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ, chứ không phải là đầu tư công (nhóm)
bởi Nhà nước - cơ quan đại diện trong quốc
gia như hiện nay; hay xác định rõ các hình
thức phát triển trong chính sách về ngân
hàng, như phát triển ngân hàng tư nhân, cổ
phần, tức phát triển ngân hàng của quốc gia
(ngân hàng quốc gia), chứ không phải là
ngân hàng nhà nước như hiện nay.
Thứ hai, cần xây dựng chiến lược phát
triển quốc gia trên cơ sở nhận thức rõ bản
chất của quốc gia kiến tạo phát triển. Chiến
lược phát triển quốc gia cần phải dựa trên
nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm
quyền làm chủ của Nhân dân9. Điều đó có
nghĩa, cần phải có sự nhận thức đúng đắn
về quyền làm chủ của Nhân dân nói riêng và
bản chất của dân chủ nói chung. Lâu nay, bản
chất của hiện tượng dân chủ chưa được các
nhà khoa học xã hội ở Việt Nam phân tích
thấu đáo, làm sáng tỏ. Dân chủ cần phải được
nhận thức đúng đắn theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Theo đó, cần phải xác định rõ vị trí,
vai trò của Nhân dân - lực lượng tương tự như
các “người chủ” (mục tiêu) và có quyền“làm
chủ” (phương pháp) theo nguyên tắc “pháp
quyền” trong quốc gia dân chủ cộng hòa thật
sự10. Dân chủ có thể được nhìn nhận tương
tự như một “con đường dân chủ” dài vô tận
với các mục tiêu hướng tới độc lập mang tính
“nhân quả” (đầu - cuối), có phương pháp thực
hiện mang tính đối lập “song hành” (phải -
trái) và nguyên tắc thực hiện mang tính đối
lập, độc lập “trung gian” (ở giữa), tức “thực
hành dân chủ”11. Thực hành dân chủ là hiện
9 Xem: Nguyễn Hữu Đổng, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân làm chủ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 9, tháng 5/2017.
10 D-nen-
mong-xay-dung-%E2%80%9Cnha-nuoc-phap-quyen-cua-dan-do-dan-vi-dan%E2%80%9D-o-viet-nam.html
11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, H.,1989, tr, 48.
tượng gắn với hoạt động mang tính tự do của
con người; trong mối quan hệ với tự do, thì
hiện tượng dân chủ tương tự như mục tiêu,
phương pháp, còn hiện tượng tự do tương
tự như nguyên tắc. Nói cách khác, dân chủ
được nhìn nhận vừa là mục tiêu, vừa là động
lực trong quá trình phát triển khách quan của
xã hội loài người. Nếu trong quốc gia, xã hội
loài người mà thiếu tự do, dân chủ sẽ không
có phát triển.
Thứ ba, cần xác định rõ các mục tiêu
chung, ngắn hạn, dài hạn, ở các ngành, địa
phương, cơ sở, trên cơ sở đó, biết đề ra các
phương pháp, nguyên tắc thực hiện tùy theo
từng loại hình mục tiêu cụ thể. Thực hiện
mục tiêu phúc lợi chung của quốc gia cần
phải dựa trên cơ sở thể chế dân chủ cộng
hòa theo nguyên tắc pháp quyền, nhằm bảo
đảm sự cân bằng về môi trường sống trong
tự nhiên, sự công bằng, bình đẳng về giá trị,
quyền lợi, tinh thần giữa các cá nhân, nhóm,
cộng đồng. Quốc gia Việt Nam chỉ có thể
giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
khi xây dựng được chiến lược phát triển bền
vững. Tức là biết phát huy vai trò của xã hội
kiến tạo, trong đó các doanh nghiệp giữ địa
vị chủ đạo - cơ sở để “quốc gia khởi nghiệp”
thực hiện được mục tiêu “dân giàu”; biết
nâng cao tiềm lực của nhà nước kiến tạo,
trong đó Chính phủ giữ vai trò nòng cốt -
cơ sở để quốc gia thực hiện được mục tiêu
“nước mạnh”; biết xây dựng thể chế kiến
tạo, trong đó pháp quyền giữ vị trí tối thượng
- cơ sở để quốc gia thực hiện được mục tiêu
“dân chủ, công bằng, văn minh”■
CHÑNH SAÁCH
55Số 3+4 (355+356) T02/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xay_dung_chinh_sach_quoc_gia_kien_tao_phat_trien_ben_vung_o.pdf