Thiết kế, xây dựng chương trình
môn học giáo dục thể chất
Chương trình môn học GDTC của
HUBT được thiết kế, xây dựng trên cở
sở hướng dẫn tại Thông tư số 25/2015/
TT-BGDĐT ngày 14/1/2015, Thông tư
số 07/2015/TT-BGDĐT ngày 16/4/2015
của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Hướng
dẫn của Phòng Quản lý đào tạo của
HUBT theo hướng tiên tiến, chuyển đổi
từ phương thức đào tạo theo niên chế học
phần sang đào tạo tín chỉ; thuận lợi cho
việc dạy và học, phù hợp với đối tượng
đào tạo, nguyện vọng của người học và
điều kiện thực tiễn của trường.
Cấu trúc của Chương trình gồm có
các phần: Mục tiêu chung; Mục tiêu cụ
thể; Khối lượng kiến thức tối thiểu và thời
gian đào tạo theo thiết kế; Cấu trúc kiến
thức của Chương trình, kiến thức giáo dục
chuyên ngành (bắt buộc và tự chọn); Mô
tả các học phần; Nội dung chương trình
chi tiết của các học phần.
Thời lượng được Hiệu trưởng trường
HUBT cho phép đào tạo là 4 tín chỉ (90
tiết), chia thành hai phần; kiến thức giáo
dục chuyên ngành bắt buộc: 2 tín chỉ (45
tiết) và kiến thức giáo dục chuyên ngành
tự chọn: 2 tín chỉ (45 tiết). Theo Quy chế
43 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Quy
chế 1055 của HUBT, thì khối lượng thời
gian hoàn thành thực hiện Chương trình
GDTC tương đương 120 tiết./.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 443 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng chương trình môn giáo dục thể chất theo hệ thống tín chỉ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
72Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
* Phó Chủ nhiệm Khoa Giáo dục Thể chất,
Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
1. Đặt vấn đề
Nghị quyết của Chính phủ về đổi mới
cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt
Nam giai đoạn 2006-2020 ghi rõ: “Xây
dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang
phương thức đào tạo theo hệ thống tín
chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để người học
tích lũy kiến thức chuyển đổi ngành nghề,
liên thông, chuyển tiếp tới các cấp học
tiếp theo ở trong nước và ở nước ngoài”.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Nguồn gốc của học chế tín chỉ
Nguồn gốc của học chế tín chỉ (credit)
được khởi xướng ở Hoa Kỳ, đầu tiên là ở
hệ thống các trường trung học phổ thông,
sau đó triển khai ở Viện Đại học Harvard
vào năm 1872. Ở nước ta ngay từ những
năm đầu thập kỷ 90, Trường Đại học Bách
khoa TP Hồ Chí Minh đã tổ chức đào tạo
thí điểm theo hệ thống tín chỉ và có thể xem
đây là cơ sở giáo dục đại học đầu tiên ở Việt
Nam tổ chức đào tạo theo hệ thống này.
2.2. Bản chất của học chế tín chỉ
Học chế tín chỉ là phương thức đào tạo
theo triết lý “Giáo dục hướng về người học,
xem người học là trung tâm của quá trình
đào tạo” và “Giáo dục đại học đại chúng”.
2.3. Khái niệm về tín chỉ
Tín chỉ là một đơn vị đo lường toàn
bộ khối lượng học tập của người học, bao
gồm: thời gian lên lớp, thời gian tự học
(trong phòng thí nghiệm, thực tập, đọc
sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết
hoặc chuẩn bị bài.); giá trị của nó còn
tùy thuộc vào quan niệm của những người
tổ chức xây dựng chương trình.
XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ
TS. Nguyễn Trọng Hải *
Tóm tắt: Chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ, không ít các các cơ sở giáo
dục đại học, các khoa chuyên ngành, trong đó có giáo dục thể chất, ở nước ta còn gặp
nhiều lúng túng, đặc biệt đối với xây dựng chương trình môn học. Bài viết đề cập đến
những nét cơ bản, đặc trưng của hệ thống tín chỉ, so sánh sự khác biệt của nó với hệ
thống niên chế; giới thiệu về việc thiết kế, xây dựng chương trình môn học giáo dục
thể chất theo hệ thống tín chỉ ở HUBT.
Từ khóa: Tín chỉ, hệ thống tín chỉ, chương trình đào tạo, giáo dục thể chất.
Abstract: Witching to training under the credit system, many institutions of higher
education, specialized faculties, including Physical Education, in our country still
face a lot of confusion, especially for designing training course program.
The paper addresses the basic features of the credit system, comparing its
differences with the annual training system; introducing about designing and
developing Curriculum of Physical Education under credit system at HUBT.
Keywords: Credit, credit system, training program, physical education.
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
73Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
2.4. Học phần, chương trình đào tạo
và hệ thống tín chỉ
a) Học phần
Học phần được cấu trúc từ một đến
vài tín chỉ. Phần lớn học phần có khối
lượng từ 2 đến 4 tín chỉ, nội dung được
bố trí giảng dạy trọn vẹn và phân phối đều
trong một học kỳ.
Có hai loại học phần:
- Học phần bắt buộc: chứa đựng nội
dung kiến thức bắt buộc sinh viên phải
tích lũy;
- Học phần tự chọn: theo hướng
dẫn của cơ sở giáo dục đại học theo một
hướng chuyên môn xác định; hoặc được
chọn tùy ý để tích lũy đủ khối lượng quy
định cho mỗi chương trình.
b) Chương trình đào tạo và theo hệ
thống tín chỉ
Chương trình đào tạo là hệ thống gồm
nhiều học phần. Mỗi học phần lại được cấu
trúc từ một số các tín chỉ. Chính vì vậy,
chương trình đào tạo thực chất là một hệ
thống tín chỉ. Do vậy, để chỉ việc đào tạo
theo học chế tín chỉ, người ta thường nói là
tổ chức đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Hệ thống tín chỉ là đặc trưng cơ bản
của chương trình đào tạo theo học chế tín
chỉ. Chương trình đào tạo theo học chế tín
chỉ là một hệ thống các học phần, các tín
chỉ. Chương trình đào tạo theo hệ thống
tín chỉ khác với chương trình đào tạo theo
niên chế ở ba đặc điểm sau:
2.5. So sánh hệ thống tín chỉ với học
chế niên chế và học phần
Trước năm 1991, giáo dục đại học ở
nước ta tổ chức thực hiện theo học chế
niên chế. Từ năm 1991, chúng ta chuyển
sang học chế học phần (học chế niên chế
mềm dẻo). Để hiểu rõ hơn học chế tín chỉ
cũng như nhận thức rõ hơn sự vận động
và phát triển của giáo dục đại học Việt
Nam trong việc chuyển đổi phương thức
đào tạo, chúng ta sẽ có một số so sánh về
học chế tín chỉ với học chế niên chế và
học chế học phần.
a) Về chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo theo niên chế
được cấu tạo từ các môn học, với đơn vị đo
là “tiết”; chương trình là một hệ thống nhiều
môn, mỗi môn có một số tiết xác định.
Chương trình theo học chế học phần
và theo học chế tín chỉ: được cấu tạo từ
các học phần/môn học (là các mô đun kiến
thức); ở học chế học phần đơn vị đo là đơn
vị học trình, học chế tín chỉ đơn vị đo là tín
chỉ, đào tạo cử nhân trình độ đại học 4 năm
cần tối thiểu 210 đvht hoặc 120 tc. Tín chỉ
cũng tương tự như đơn vị học trình, đều
là đơn vị đo khối lượng học tập của người
học, nhưng khác ở chỗ người học phải mất
15 giờ chuẩn bị cá nhân để tiếp thu 1 đvht,
trong khi phải mất 30 giờ mới tiếp thu
được 1 tc. Nghĩa là học chế tín chỉ đòi hỏi
thời gian tự học nhiều hơn.
b) Về quy trình đào tạo
Học chế niên chế và học phần: đơn vị
học vụ là năm học, một năm học có hai kỳ,
có các đại lượng đo năm học, xét ngừng
học, theo học theo năm học, việc quản lý
đào tạo theo mô hình “lớp”, vai trò giáo viên
chủ nhiệm là quan trọng. Sinh viên không
phải đăng ký khối lượng học tập, thụ động
đối với tiến trình học tập của mình, không
khuyến khích học vượt, không khuyến
khích học văn bằng 2. Việc đánh giá kết
quả học tập các môn học chỉ dựa vào kết
quả thi hết môn; đánh giá kết quả toàn khóa
dựa vào điểm thi tốt nghiệp; không quan
tâm đến quá trình học tập của người học và
thường tổ chức thi tốt nghiệp.
Học chế tín chỉ: đơn vị học vụ là
học kỳ, mỗi chu kỳ 12 tháng thường tổ
chức thành 3 học kỳ (trong đó học kỳ phụ
thường dùng cho việc trả nợ các môn học
chưa đạt hoặc học vượt), các đại lượng
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
74Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
đo theo học kỳ. Việc quản lý đào tạo theo
mô hình “sinh viên”, vai trò cố vấn học
tập là quan trọng. Sinh viên phải đăng
ký khối lượng học tập vào đầu mỗi học
kỳ, khuyến khích học vượt, rút ngắn thời
gian đào tạo, khuyến khích học văn bằng
2; không tổ chức thi tốt nghiệp.
Học chế học phần và học chế tín chỉ:
việc đánh giá kết quả các học phần/môn
học dựa vào điểm quá trình và điểm thi
hết học phần/môn học; đánh giá một giai
đoạn học tập dựa vào điểm trung bình
chung tích lũy với trọng số là số tín chỉ
của các học phần/môn học.
Như đã so sánh và phân tích trên đây,
học chế học phần thực chất là học chế
trung gian giữa học chế niên chế và học
chế tín chỉ. Trong học chế học phần đã có
một số yếu tố của học chế tín chỉ, nhưng
chưa đủ để tạo nên một quy trình đào tạo
linh hoạt, cơ động, mềm dẻo. Vì vậy, việc
chuyển đổi từ học chế học phần sang học
chế tín chỉ là sự cải tiến học chế học phần,
tăng tính linh hoạt, mềm dẻo cho quy trình
đào tạo, đồng thời với việc cải tiến mục
tiêu, chương trình đào tạo, đổi mới phương
pháp dạy, học, phương pháp đánh giá kết
quả học tập của người học để chuyển sang
học chế tín chỉ. Quả trình chuyển đổi không
phải là xóa bỏ học chế học phần mà là sự
kế thừa, cải tiến thêm các biện pháp, yếu
tố, là sự vận động và phát triển của học chế
học phần thành học chế tín chỉ.
3. Chương trình Giáo dục thể chất
HUBT theo hệ thống tín chỉ
3.1. Cơ sở khoa học xây dựng
Chương trình
a) Cơ sở pháp lý
Chương trình Giáo dục thể chất
(GDTC) của HUBT thuộc chương trình
đào tạo trình độ đại học (phần kiến thức
giáo dục đại cương), được thiết kế và
xây dựng theo Quy định về Chương trình
GDTC trình độ đại học của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, ban hành kèm theo Thông tư số
25/2015/TT- BGDĐT ngày 14/10/2015,
cũng như căn cứ vào Thông tư số 07/2015/
TT-BGDĐT ngày 16/4/2015, ban hành
quy định về khối lượng kiến thức tối
thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học
đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi
trình độ đào tạo của giáo dục đại học;
Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày
15/8/2007 về việc ban hành Quy chế đào
tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo
hệ thống tín chỉ của Bộ Giáo dục và Đào
tạo; Quyết định số 1055/QĐ-BGH ngày
25/01/2019 của Hiệu trưởng Trường Đại
học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội về
việc ban hành Quy chế đào tạo theo hệ
thống tín chỉ đối với hệ đại học, cao đẳng
chính quy và các văn bản hướng dẫn xây
dựng chương trình đào tạo của trường.
b) Đặc thù của giáo dục thể chất
Mỗi chương trình đào tạo của ngành,
chuyên ngành hoặc môn học thuộc
chương trình đào tạo trình độ đại học đều
có sự khác biệt, không chỉ về mục tiêu
đào tạo mà còn khác biệt cả về đặc thù
ngành, chuyên ngành, môn học và những
điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện
chương trình đào tạo, vì thế, dẫn đến sự
khác biệt về tổ chức đào tạo. Đối với môn
học GDTC thuộc các chương trình đào
tạo trình độ đại học, có những đặc thù:
Một là, ngoài các môn lý luận chung
về giáo dục thể chất, việc tổ chức giảng
dạy giờ học giáo dục thể chất nội khóa
cho sinh viên được kết hợp hài hòa giữa
hai yếu tố: phân tích nguyên lý kỹ thuật,
các giai đoạn kỹ thuật, chiến thuật, luật,...
(gọi chung là lý thuyết chuyên môn) và
làm mẫu, tổ chức tập luyện trang bị kỹ
năng chuyên môn (gọi chung là thực hành
kỹ thuật). Đặc thù này cũng khác với thí
nghiệm, thực hành của các ngành, chuyên
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
75Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
ngành thuộc khối ngành sức khỏe, hoặc
các khối ngành kỹ thuật, đào tạo nghề,...
Do tính chất đặc thù của môn học, giờ học
giáo dục thể chất bắt buộc thực hiện toàn
phần trên lớp, không có quy định thời gian
tự học như các ngành, chuyên ngành khác.
Các hoạt động thể dục - thể thao ngoại khóa
không được quy định trong thời lượng của
chương trình môn học GDTC. Đặc thù
này có liên qua đến việc thiết kế, xây dựng
chương trình môn học GDTC theo tín chỉ
và có ý nghĩa trong việc quy đổi tiết học
trên lớp ra giờ chuẩn cho giảng viên.
Hai là, môn học GDTC có những yêu
cầu về điều kiện đảm bảo cũng mang tính
đặc thù: giờ học nội khóa được thực hiện
trên sân bãi (ngoài trời) hoặc trong phòng;
dụng cụ thiết bị rất đa dạng và phong phú,
đặc thù với từng chuyên ngành, môn học,
như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, điền
kinh, thể dục, bơi lội, v.v. Hơn nữa, không
chỉ kinh phí đầu tư cho sân bãi, dụng cụ
rất lớn, mà quỹ đất cho quy hoạch sân bãi,
nhà tập, bể bơi,..., cũng không nhỏ. Đây
là bài toán khó cho các cơ sở giáo dục đại
học khi đầu tư cho đào tạo giáo dục thể
chất theo hệ thống tín chỉ, vì điều kiện
thực tế không cho phép giảng dạy được
nhiều môn chuyên ngành.
Ba là, giờ học GDTC nội khóa được
Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định một lớp
không quá 40 sinh viên/giảng viên đối với
các cơ sở giáo dục đại học không chuyên
thể dục - thể thao. Thực tế, quy định trên
đây không tồn tại nhiều năm: tỷ lệ này ở
nhiều cơ sở giáo dục đại học còn cao hơn,
thậm chí có khi tới 80-120 sinh viên. Có
nhiều nguyên nhân: không có đủ sân bãi,
nhà tập, thiếu giảng viên chuyên môn, tiền
chi trả thù lao cho giảng viên, v.v. Đây
cũng là một hạn chế khi chuyển đổi môn
học GDTC sang tổ chức đào tạo theo hệ
thống tín chỉ. Nên chăng, môn học GDTC
chỉ có thể đào tạo theo hệ thống tín chỉ
kết hợp với niên chế học phần, như quy
định tại Khoản 1, Điều 37 của Luật số
34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 và Luật
Giáo dục đại học 2018.
c) Thực trạng những điều kiện đảm
bảo thực hiện Chương trình
Điều kiện đảm bảo thực hiện chương
trình là cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng
chương trình ngành, môn học. Có hai yếu
tố cơ bản:
Thứ nhất, đội ngũ giảng viên. Hiện
nay số lượng giảng viên của Khoa GDTC
ở HUBT gồm 16 người: 12 nam, 4 nữ.
100% giảng viên là cử nhân thể dục, thể
thao được đào tạo tại các trường đại học
chuyên thể dục - thể thao trong và ngoài
nước, trong đó trình độ sau đại học chiếm
93,75% (1 tiến sỹ, 14 thạc sỹ). Lực lượng
trẻ chiếm tỷ lệ cao: trên 80% từ 27 đến 40
tuổi. Đa số giảng viên có thâm niên giảng
dạy từ 10 đến hơn 20 năm. Đối chiếu với
các quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo
về tiêu chuẩn, tiêu chí, trình độ, năng lực,
phẩm chất,..., giảng viên Khoa GDTC của
HUBT hoàn toàn đảm nhận được nhiệm
vụ giảng dạy theo phương thức đào tạo
mới: hệ thống tín chỉ.
Thứ hai, cơ sở vật chất, trang thiết
bị tập luyện. Như đã đề cập ở trên, điều
kiện đảm bảo về sân bãi, nhà tập, dụng
cụ tập luyện,..., có tầm quan trọng đặc
biệt đối với việc xây dựng Chương trình
GDTC theo hệ thống tín chỉ. HUBT hiện
có một Nhà tập đa năng (dạy được 2-3
môn học) với sức chứa trên 120 sinh viên
học song song hai môn; một sân tập bóng
đá tiêu chuẩn, có đường chạy bao quanh
để dạy môn điền kinh; một sân bóng rổ và
2 sân bóng chuyền ngoài trời. Hiện nay,
tuy chưa đầu tư mở rộng thêm cơ sở vật
chất sân bãi, nhưng trường có chủ trương
đầu tư mua sắm thêm trang thiết bị, dụng
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
76Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
cụ tập luyện phục vụ dạy và học GDTC.
Với thực trạng này, ngoài giảng dạy lý
luận chung, Khoa GDTC chỉ đưa vào
chương trình đào tạo 2 môn thể thao bắt
buộc (điền kinh, khiêu vũ thể thao) và 5
môn thể thao tự chọn (bóng chuyền, bóng
đá, bóng rổ, bóng bàn và cầu lông).
3.2. Thiết kế, xây dựng chương trình
môn học giáo dục thể chất
Chương trình môn học GDTC của
HUBT được thiết kế, xây dựng trên cở
sở hướng dẫn tại Thông tư số 25/2015/
TT-BGDĐT ngày 14/1/2015, Thông tư
số 07/2015/TT-BGDĐT ngày 16/4/2015
của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Hướng
dẫn của Phòng Quản lý đào tạo của
HUBT theo hướng tiên tiến, chuyển đổi
từ phương thức đào tạo theo niên chế học
phần sang đào tạo tín chỉ; thuận lợi cho
việc dạy và học, phù hợp với đối tượng
đào tạo, nguyện vọng của người học và
điều kiện thực tiễn của trường.
Cấu trúc của Chương trình gồm có
các phần: Mục tiêu chung; Mục tiêu cụ
thể; Khối lượng kiến thức tối thiểu và thời
gian đào tạo theo thiết kế; Cấu trúc kiến
thức của Chương trình, kiến thức giáo dục
chuyên ngành (bắt buộc và tự chọn); Mô
tả các học phần; Nội dung chương trình
chi tiết của các học phần.
Thời lượng được Hiệu trưởng trường
HUBT cho phép đào tạo là 4 tín chỉ (90
tiết), chia thành hai phần; kiến thức giáo
dục chuyên ngành bắt buộc: 2 tín chỉ (45
tiết) và kiến thức giáo dục chuyên ngành
tự chọn: 2 tín chỉ (45 tiết). Theo Quy chế
43 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Quy
chế 1055 của HUBT, thì khối lượng thời
gian hoàn thành thực hiện Chương trình
GDTC tương đương 120 tiết./.
Tài liệu tham khảo
1. BCH TƯ Đảng CSVN (2013). Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 Khóa XI.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010). Đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sỹ
cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007). Quy chế đào tạo đại học, cao đẳng hệ chính
quy theo hệ thống tín chỉ (ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT
ngày 15/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012). Sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế đào
tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ. Thông tư số 57/2012/TT-
BGDĐT ngày 27/12/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5. Lâm Quang Thiệp (2010). Về phương pháp dạy, học và đánh giá kết quả học
tập trong hệ thống tín chỉ. Hội thảo khoa học toàn quốc về đổi mới phương pháp giảng
dạy đại học theo hệ thống tín chỉ. Đại học Sài Gòn.
6. Luật Giáo dục đại học 2012.
7. Luật Giáo dục đại học 2018 (sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục
đại học 2012/2013/2014/2015).
8. Trường Đại học Thể dục Thể thao TP. Hồ Chí Minh (2010). Chương trình đào
tạo ngành giáo dục thể chất; ngành huấn luyện thể thao theo hệ thống tín chỉ.
Ngày nhận bài: 08/04/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xay_dung_chuong_trinh_mon_giao_duc_the_chat_theo_he_thong_ti.pdf