Như vậy với mục tiêu ban đầu trong
thiết kế bài tập thể dục giữa giờ cho các
nữ NVVP là tăng cường sức mạnh và sức
bền cơ, thì chương trình tập luyện này đã
tạo được những hiệu quả tích cực. Sức
mạnh và sức bền cơ của người tập thể
dục giữa giờ được cải thiện đáng kể nhờ
duy trì việc tập luyện hợp lí.
Tiếp tục so sánh dữ liệu về độ dẻo
(Bảng 14), chúng tôi nhận thấy nhóm
thực nghiệm sau 12 tuần tập luyện thể
dục giữa giờ có độ dẻo tốt hơn so với
nhóm đối chứng. Nhóm thực nghiệm
thực hiện bài kiểm tra ngồi thẳng chân
gập dẻo thân (SRT) tốt hơn nhóm đối
chứng xấp xỉ 5,07 (cm), và bài kiểm tra
giãn nếp da đốt sống thắt lưng (SDT) cao
hơn nhóm đối chứng khoảng 1,6 (cm).
Tất cả sự khác biệt đó đều có ý nghĩa
thống kê với p được xác định lần lượt là
0,020 và 0,002 < 0,05. Như vậy, có thể
nói, chương trình tập thể dục giữa giờ đã
giúp tăng cường độ dẻo cho người tập
một cách hiệu quả.
12 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 713 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng chương trình tập luyện thể dục giữa giờ cho nữ nhân viên một số phòng, ban trường đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016
_____________________________________________________________________________________________________________
140
XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TẬP LUYỆN THỂ DỤC GIỮA GIỜ
CHO NỮ NHÂN VIÊN MỘT SỐ PHÒNG, BAN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
SẦM VĨNH LỘC*, PHAN THÀNH LỄ*, LÂM THANH MINH**
TÓM TẮT
Bài viết đề cập thực trạng sức khỏe, thể lực và các yếu tố tác động gây ra hội chứng
bệnh văn phòng của các nữ nhân viên. Nghiên cứu này bước đầu xây dựng cũng như kiểm
chứng hiệu quả của chương trình tập luyện thể dục giữa giờ cho nữ nhân viên một số
phòng, ban ở Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSP TPHCM).
Từ khóa: thể dục giữa giờ, bệnh văn phòng.
ABSTRACT
Constructing break-time exercise program for female officers
at Ho Chi Minh City University of Education
The study discusses the reality of health, physical and impactful factors causing the
office-disease of female officers. This research initially constructs as well as verifies the
efficiency of break-time exercise program for female officers at Ho Chi Minh City
University of Education.
Keywords: break-time exercises, occupational disease.
* ThS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM, Email: lept@hcmup.edu.vn
** HVCH, Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao TPHCM
1. Đặt vấn đề
Ngày nay, công nghệ thông tin đã
mang lại rất nhiều tiện ích và tăng hiệu
suất làm việc cho viên chức văn phòng.
Tuy nhiên, việc phải ngồi lâu trong một
tư thế với thời gian dài, cơ thể ít được
vận động đó là một trong những nguyên
nhân chính gây nên một số bệnh thường
gặp mà người ta quen gọi là bệnh văn
phòng (occupational disease) [9]. Bệnh
văn phòng được coi là bệnh của thời đại,
ít vận động làm cho quá trình lưu thông
máu trong cơ thể kém hơn, dịch nhầy tiết
ra để bảo vệ các khớp cũng ít hơn dẫn
đến các hiện tượng như khớp xương khô,
sợi cơ không săn chắc, giảm sức mạnh
của cơ và độ dẻo của cơ thể [7], [9]. Đặc
biệt, các khớp ở đốt sống lưng và đốt
sống cổ bị thoái hóa sẽ gây ra hội chứng
đau lưng, đau cổ mà ngày nay người làm
văn phòng thường gặp phải. [8]
Rào cản lớn để nhân viên văn
phòng (NVVP) đến với tập luyện vận
động là không có thời gian [6]. Để khắc
phục tình trạng này, giải pháp cơ bản là
người làm văn phòng có thể tranh thủ giờ
nghỉ giữa thời gian làm việc để tập luyện.
Các bài tập cho người làm văn phòng
cũng cần có yếu tố đặc thù như đơn giản,
ít đòi hỏi không gian, thiết bị mà vẫn hiệu
quả [3]. Trên cơ sở yêu cầu đó, nhóm
nghiên cứu đã lựa chọn và xây dựng
chương trình tập luyện thể dục giữa giờ
và thiết kế nghiên cứu để đánh giá hiệu
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Sầm Vĩnh Lộc và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
141
quả của chương trình này với bệnh nghề
nghiệp và thể trạng – thể lực của các nữ
NVVP.
2. Cơ sở lí luận
2.1. Thể dục lao động
Thể dục trong lao động (TDLĐ)
giúp củng cố và tăng cường sức khỏe cho
người lao động, góp phần nâng cao năng
suất lao động, ngăn ngừa và hạn chế sự
phát sinh bệnh nghề nghiệp trong lao
động [1]. Nhiều nghiên cứu cho thấy
TDLĐ giúp rèn luyện, bồi dưỡng các tố
chất chủ yếu cần thiết trong phạm vi nhất
định, để củng cố tăng cường sức khỏe hỗ
trợ cho tư thế và thao tác kĩ thuật lao
động, để cơ thể thích nghi với môi trường
lao động.
Bên cạnh đó, TDLĐ giúp con người
duy trì và tăng cường sức khỏe, phát triển
thể lực của người lao động một cách cân
đối và toàn diện, nhanh chóng bước vào
làm việc với năng suất cao. Quan trọng
hơn là TDLĐ giúp uốn nắn sự sai lệch về
tư thế do lao động, đề phòng và hạn chế
sự phát triển của một số bệnh nghề
nghiệp. Có 3 phân loại về TDLĐ: thể dục
trước giờ lao động, thể dục giữa giờ lao
động và thể dục sau giờ lao động. [1], [4]
2.2. Khái quát về các bài tập thể dục
giữa giờ dành cho NVVP
Các bài tập thể dục văn phòng là
một hệ thống các bài tập thể dục được
chọn lọc, sáng tạo và thực hiện với
phương pháp khoa học. Các bài tập được
thực hiện tay không hoặc kết hợp với dây
chun (elastic band) trong một chế độ nhất
định nhằm phát triển nâng cao sức chịu
đựng của cơ thể.
Những bài tập thể dục giữa giờ
dành cho nữ NVVP yêu cầu phải phù hợp
về không gian làm việc, được kết hợp với
các cử động nhẹ nhàng, dễ tập. Nếu có sự
hỗ trợ âm nhạc sẽ giúp người tập thêm
hứng thú. Khi biên soạn, cần lưu ý 3
nguyên tắc chính: (i) Bài tập phải phù
hợp với nơi làm việc, đối tượng; (ii) Bài
tập biên soạn phải có tác dụng tốt đối với
từng nhóm cơ, đặc biệt là các nhóm cơ
cổ, vai, lưng, và chi; và (iii) Thời gian
của bài tập phải phù hợp với đối tượng
tập luyện. [4]
Qua tham khảo các tài liệu, khi biên
soạn bài tập thể dục giữa giờ dành cho nữ
NVVP cần phải xác định mục đích chính,
cần thiết của đối tượng luyện tập là: làm
giảm mệt mỏi; làm giảm đau ở các cơ
vùng cổ, vai, lưng, và chi; sửa chữa tư thế
cơ bản; tăng cường thể lực – thể trạng.
3. Thực trạng sức khỏe, thể lực và
các yếu tố tác động gây ra các hội
chứng bệnh văn phòng của nữ NVVP
Trường ĐHSP TPHCM
Qua quan sát sư phạm các buổi làm
việc của 38 nữ NVVP một số phòng ban
Trường ĐHSP TPHCM, chúng tôi nhận
thấy đặc điểm làm việc của nữ NVVP tại
Trường ĐHSP TPHCM đều mang các
đặc tính riêng của công việc văn phòng,
gồm: tư thế ngồi không đổi trong thời
gian dài, tư thế cổ tay, bàn tay dùng
phím, chuột không đổi và lặp đi lặp lại
đơn điệu. Người làm văn phòng sử dụng
nhiều nhất vẫn là hai tay, còn phần cổ,
vai, lưng và hai chân hầu như không có
nhiều vận động. Ngoài ra việc bố trí bàn,
ghế, máy tính, và các dụng cụ làm việc
khác chưa đảm bảo tính khoa học. Các
tiêu chuẩn về tỉ lệ chiều cao bàn, ghế, góc
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016
_____________________________________________________________________________________________________________
142
nhìn màn hình máy vi tính, góc bàn phím
so với cánh tay, góc lưng tựa ghế ngồi,
ánh sáng trong phòng làm việc đều chưa
thật sự hợp lí. Nhân viên có chiều cao và
hình thể rất khác nhau, nhưng tất cả các
bố trí trên gần như là cùng một hệ quy
chuẩn. Chi tiết kết quả quan sát và phỏng
vấn được trình bày ở Bảng 1 sau đây:
Bảng 1. Thực trạng về đặc điểm công việc của nữ NVVP Trường ĐHSP TPHCM
TT Nội dung quan sát Kết quả quan sát
1
Điều kiện nơi làm
việc
Phòng làm việc có đủ diện tích đầy đủ cho bố trí bàn ghế, máy
tính, chỉ một số phòng được trang bị máy lạnh
2 Tổ chức và thời gian làm việc hàng ngày
Thời gian làm việc theo giờ hành chính, mỗi ngày 8 giờ. Bắt
đầu lúc 7 giờ sáng và kết thúc lúc 5 giờ chiều. Nghỉ trưa từ 11
giờ đến 1 giờ. Có các quãng nghỉ ngắn tại chỗ tùy theo khối
lượng công việc
3 Tư thế làm việc
Đa số và thường xuyên làm việc trên máy tính, ít di chuyển
khỏi vị trí làm việc, giữ nguyên tư thế trong thời gian dài. Khi
có thời gian nghỉ ngắn thì tiếp tục các hoạt động khác trên
máy tính hoặc thiết bị điện tử khác. Một số không chú ý đến tư
thế ngồi xấu khi làm việc: thân người đổ về trước, ngực hóp,
cột sống cong chữ C gây áp lực lên cột sống và xương chậu,
hai chân co
4 Thao tác lao động
Mắt luôn quan sát màn hình, cổ duy trì tư thế đổ về trước, hai tay
luân phiên sử dụng chuột, gõ bàn phím. Phần cổ, vai, hai chân ít
hoạt động. Di chuyển khỏi chỗ ngồi, thay đổi tư thế là rất ít
Sau khi quan sát, chúng tôi tiếp tục thực hiện phỏng vấn để tìm hiểu các triệu
chứng đau khác nhau và thời gian xuất hiện của chúng sau khi bắt đầu làm việc buổi
sáng và buổi chiều bằng bộ phiếu hỏi triệu chứng đau. Kết quả thể hiện ở Bảng 2 và
Bảng 3 sau đây:
Bảng 2. Các triệu chứng, vị trí, và mức độ đau
STT Các triệu chứng, vị trí đau
Hoàn toàn
không đau
(Tỉ lệ %)
Hơi đau
(Tỉ lệ %)
Đau
khó chịu
(Tỉ lệ %)
Rất đau
(Tỉ lệ %)
1 Đau đầu 26 39 21 14
2 Mỏi mắt 13 68 16 3
3 Đau đốt sống cổ 2 26 61 11
4 Đau bả vai 8 32 52 8
5 Mỏi cánh tay 5 45 47 3
6 Mỏi bàn tay và các ngón tay 3 37 42 18
7 Đau nhức xương sống lưng 7 68 13 12
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Sầm Vĩnh Lộc và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
143
8 Đau thắt lưng 3 26 47 24
9 Đau khớp gối 11 63 21 5
10 Đau do chuột rút 42 37 18 3
So sánh số liệu cho thấy tỉ lệ người được phỏng vấn trả lời rất đau ở thắt lưng là
cao nhất (24%) so với rất đau ở các vị trí khác. Bên cạnh đó, số người trả lời thấy đau
khó chịu ở thắt lưng cũng đồng thời chiếm tỉ lệ khá lớn (47%). Điều này chứng tỏ tư
thế ngồi làm việc không đổi của NVVP ảnh hưởng rất lớn đến chứng đau thắt lưng của
họ. Ngoài ra, có 61% người được hỏi cho biết họ thấy đau đến khó chịu vùng đốt sống
cổ, kế đến là các vùng chi trên như vai, cánh tay, bàn tay. Như vậy, mức độ đau nghiêm
trọng có ảnh hưởng đến công việc và chất lượng cuộc sống xảy ra thường xuyên ở các
vùng cổ, thắt lưng và chi trên.
Bảng 3. Thời gian xuất hiện mệt mỏi sau giờ làm việc
Thời gian xuất hiện mệt mỏi Số người chọn Tỉ lệ %
Buổi sáng sau 1g30 làm việc 30 79
Buổi sáng sau 2g00 làm việc 8 21
Buổi chiều sau 1g00 làm việc 27 71
Buổi chiều sau 1g30 làm việc 11 29
Chúng tôi nhận thấy thời gian xuất
hiện mệt mỏi sau khi bắt đầu làm việc
của buổi sáng là chậm hơn so với buổi
chiều. Nguyên nhân của việc này có thể
là áp lực làm việc cùng khối lượng công
việc buổi chiều là khá lớn. Bên cạnh đó
việc duy trì tư thế, hoạt động đơn điệu
kéo dài đến chiều khiến các NVVP nhanh
mệt mỏi hơn ở buổi sáng.
Chúng tôi nhận được sự tình
nguyện tham gia nghiên cứu như là đối
tượng thực nghiệm từ 38 nữ NVVP
Trường ĐHSP TPHCM. Sau khi kiểm
tra, đánh giá các chỉ số hình thái, thể lực
và thang điểm đau, chúng tôi chia ngẫu
nhiên họ thành 2 nhóm nhằm tiến hành
thực nghiệm kiểm chứng hiệu quả của
việc có tập và không tập chương trình tập
luyện thể dục giữa giờ mà nhóm chúng
tôi đã phát triển trước đó. Kết quả có 2
nhóm với các chỉ tiêu ban đầu khá tương
đồng nhau, mỗi nhóm gồm 19 thành viên.
Chúng tôi gọi nhóm A là nhóm thực
nghiệm, họ được tập theo chương trình
thể dục giữa giờ trong 12 tuần, và nhóm
B là nhóm đối chứng, họ được yêu cầu
không tham gia bất kì loại hình tập luyện
nào khác. Phân tích dữ liệu thu được từ
quá trình kiểm tra, khám lâm sàng các
nhóm, chúng tôi thu được kết quả như ở
Bảng 4 và 5 sau đây:
Bảng 4. Các chỉ số hình thái học nhóm thực nghiệm (n = 19)
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016
_____________________________________________________________________________________________________________
144
Chỉ số X ± S Min – Max
Tuổi 39,7 ± 8,1 27 – 53
Chiều cao (cm) 157 ± 4,6 150 – 165
Cân nặng (kg) 53,9 ± 5,6 45 – 69
Chỉ số khối cơ thể (kg/m2) 21,84 ± 2,2 18,7 – 27,6
Bảng 5. Các chỉ số hình thái học nhóm đối chứng (n = 19)
Chỉ số X ± S Min – Max
Tuổi 39,2 ± 9,9 23 – 53
Chiều cao (cm) 158 ± 4,9 152 – 167
Cân nặng (kg) 52,7 ± 5,9 42 – 68
Chỉ số khối cơ thể (kg/m2) 20,01 ± 2,1 17,7 – 25,6
So sánh các giá trị chỉ số hình thái
của hai nhóm qua 2 bảng trên, chúng tôi
nhận thấy khá tương đồng nhau và không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p >
0,05). Chỉ số khối cơ thể là một chỉ tiêu
quan trọng để xác định tính chất hình thái
của các khách thể nghiên cứu. Theo tiêu
chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
cho khu vực châu Á, thì chỉ số khối cơ
thể trong khoảng từ 18,5 đến 22,4 được
xác định là thể trạng bình thường, tức
chiều cao và cân nặng có mối tương quan
tốt. Nếu chỉ số khối cơ thể vượt trên
ngưỡng giá trị 22,4 thì có nguy cơ béo
phì và mắc các bệnh mãn tính, cấp tính
liên quan như tiểu đường, tim mạch [2],
[3]. Như vậy, tuy nhóm thực nghiệm có
chỉ số khối cơ thể khá gần với ngưỡng
trên chỉ tiêu bình thường [21,84 ±
2,2(kg/m2)] nhưng nhìn chung tương
quan chiều cao, cân nặng của cả nhóm
thực nghiệm và đối chứng vẫn nằm trong
ngưỡng tốt.
Thực hiện kiểm tra các giá trị hình
thái khác, chúng tôi tiến hành đo chu vi
các phần cơ thể và nếp mỡ dưới da. Với
chu vi các phần cơ thể, chúng tôi sử dụng
giá trị vòng bụng, vòng mông, và tỉ lệ
vòng bụng/vòng mông làm giá trị tham
chiếu nhằm đánh giá một lần nữa tương
quan chiều cao cân nặng và các nguy cơ
đối với các bệnh nguy hiểm do thừa cân,
béo phì [2], [10]. Với nếp mỡ dưới da,
chúng tôi đo 3 vị trí, bao gồm: cơ tam
đầu cánh tay, cơ chéo bụng và đùi. Giá trị
tổng số của 3 nếp mỡ (SoS) được dùng
để làm tham số tính toán giá trị các thành
phần cơ thể trong phần sau [10]. Bảng 6
và 7 sau đây thể hiện giá trị các chỉ số
hình thái trên của 2 nhóm.
Bảng 6. Các chỉ số vòng bụng, vòng mông, tỉ lệ vòng bụng trên vòng mông
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Sầm Vĩnh Lộc và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
145
và tổng giá trị nếp mỡ dưới da (SoS) nhóm thực nghiệm (n = 19)
Chỉ số X ± S Min - Max
Vòng bụng (cm) 79 ± 4,5 69 – 87
Vòng mông (cm) 94 ± 5,2 83 – 106
Tỉ lệ vòng bụng trên vòng mông 0,84 ± 0,3 0,77 – 0,89
Tổng giá trị nếp mỡ dưới da (mm) 64 ± 13,4 37,8 – 89,6
Bảng 7. Các chỉ số vòng bụng, vòng mông, tỉ lệ vòng bụng trên vòng mông
và tổng giá trị nếp mỡ dưới da (SoS) nhóm đối chứng (n = 19)
Chỉ số X ± S Min - Max
Vòng bụng (cm) 76,2 ± 4,9 67 – 84
Vòng mông (cm) 92,8 ± 5,7 83 – 105
Tỉ lệ vòng bụng trên vòng mông 0,82 ± 0,4 0,73 – 0,89
Tổng giá trị nếp mỡ dưới da (mm) 51,2 ± 9,9 32 – 67,6
Có thể thấy giá trị vòng bụng và
mông trung bình giữa hai nhóm không có
nhiều khác biệt. Tuy nhiên, khi so sánh
chỉ số vòng bụng trên vòng mông, chúng
tôi nhận thấy có sự khác biệt khá lớn. Chỉ
số vòng bụng trên vòng mông được
nghiên cứu trên cơ sở xác định sự tập
trung của mô mỡ ở phần trên và phần
dưới cơ thể. Từ đó, xác định tình trạng
béo phì và các nguy cơ bệnh mãn tính,
cấp tính có liên quan. Theo nghiên cứu
của Bray and Gray (1988), xác định
ngưỡng giá trị an toàn cho chỉ số vòng
bụng trên vòng mông đối với nam giới là
0,94 và nữ giới là 0,82. Điều này có ý
nghĩa là nếu giá trị của chỉ số vòng bụng
trên vòng mông tính được ở cá nhân nào
>0,94 với nam giới và >0,82 với nữ giới
thì cá thể đó có nguy cơ cao đối với các
bệnh liên quan tới béo phì như tim mạch,
tiểu đường. [10]
Từ những dữ liệu trên, chúng tôi
nhận thấy nhóm đối chứng đã ở ngưỡng
thừa cân với giá trị chỉ số vòng bụng
trên vòng mông trung bình là 0,82 ±
0,4. Tuy nhiên, nhóm thực nghiệm tình
trạng béo phì và nguy cơ mắc bệnh
nguy hiểm còn rõ ràng hơn với chỉ số
vòng bụng trên vòng mông trung bình
là 0,84 ± 0,3. Điều này cũng giải thích
lí do vì sao nếp mỡ dưới da đo được của
các nữ NVVP nhóm thực nghiệm [64 ±
13,4(mm)] cao hơn so với của nhóm đối
chứng [51,2 ± 9,9(mm)]. Như vậy, nếu
bài tập thể dục giữa giờ được thiết kế có
thể kéo giảm chỉ số này ở nhóm thực
nghiệm thì một mục tiêu nghiên cứu sẽ
thành công.
Để xác định các thành phần cơ thể
ở mức chi tiết, như: phần trăm lượng mỡ
(%BF), lượng mỡ cơ thể (BF) và lượng
nạc (cơ, xương và các thành phần khác)
có nhiều phương pháp khác nhau.
Jackson và cộng sự (2009) đã xác định
phương pháp đo nếp mỡ dưới da có độ
tương quan rất cao với phương pháp đo
DXA (r=0,91). Vì vậy, sử dụng phương
pháp đo nếp mỡ trong điều kiện thiết bị
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016
_____________________________________________________________________________________________________________
146
hạn chế là hoàn toàn hợp lí.
Đối với nghiên cứu này, chúng tôi
tiến hành đo 3 nếp mỡ ở các vị trí sau: cơ
tam đầu cánh tay, cơ chéo bụng và đùi.
Sau đó chúng tôi dùng tổng giá trị 3 nếp
mỡ [SoS(mm)] đo được để tính chỉ số
mật độ cơ thể [Body Density – Db(g/cc)]
theo công thức đã được nhóm nghiên cứu
của Jackson phát triển vào năm 1980 như
sau [10]:
Db = 1.0994921-0.0009929 x SoS
+ 0.0000023 x SoS - 0.0001392 x Ag
Db: Mật độ cơ thể (g/cc); SoS: Tổng
giá trị 3 nếp mỡ (mm); Ag: Tuổi (năm)
Sau đó, chúng tôi dùng phương
pháp quy đổi (được phát triển bởi
Heyward và Wagner) từ mật độ cơ thể
sang phần trăm lượng mỡ (%BF) [10]
dành cho người châu Á như sau:
%BF = (5.01/U36) – 4.57
Căn cứ trên %BF, tiếp tục tính giá
trị lượng mỡ cơ thể và các thành phần
còn lại. Từ đây, chúng tôi theo dõi tác
động của bài tập thể dục giữa giờ lên
chúng để xác định hiệu quả của bài tập.
Kết quả phân tích các giá trị như trên
trước thực nghiệm được thể hiện ở Bảng
8 và 9 sau đây:
Bảng 8. Thành phần cơ thể nhóm thực nghiệm (n = 19)
Chỉ số X ± S Min – Max
Phần trăm lượng mỡ (%) 29,2 ± 6,2 17 – 41
Lượng mỡ cơ thể (kg) 15,9 ± 4,2 7,56 – 23,04
Lượng nạc (kg) 37,9 ± 3,6 32,96 – 47,67
Bảng 9. Thành phần cơ thể nhóm đối chứng (n = 19)
Chỉ số X ± S Min – Max
Phần trăm lượng mỡ (%) 26,1 ± 3,9 20 – 32
Lượng mỡ cơ thể (kg) 13,8 ± 3,1 9,67 – 18,67
Lượng nạc (kg) 38,8 ± 3,7 32,06 – 49,33
Bảng 8 và 9 cho thấy nhóm thực
nghiệm ngay từ đầu đã có lượng mỡ cơ
thể [15,9 ± 4,2(kg)] khá cao so với nhóm
đối chứng [13,8 ± 3,1(kg)]. Điều này
hoàn toàn phù hợp với phân tích chỉ số
Wa/H mà chúng tôi đã trình bày và dự
báo ở trên. Vì vậy, chúng tôi sẽ dùng chỉ
tiêu này để so sánh giữa 2 nhóm sau khi
kết thúc thực nghiệm để xem xét tác động
của bài tập tới thành phần cơ thể và đánh
giá xem chúng có thể giúp người tập
giảm nguy cơ mắc bệnh nguy hiểm hay
không.
4. Thiết kế chương trình, bài tập thể
dục giữa giờ cho nữ NVVP
Một chương trình tập thể dục giữa
giờ gồm 4 nhóm bài tập dành cho nữ
NVVP Trường ĐHSP TPHCM được thiết
kế sau khi tham khảo ý kiến chuyên gia có
kết cấu như sau:
- Nhóm bài tập thể dục văn phòng 1:
Khởi động (8 động tác);
- Nhóm bài tập thể dục văn phòng 2:
Các động tác tay không (10 động tác);
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Sầm Vĩnh Lộc và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
147
- Nhóm bài tập thể dục văn phòng 3:
Các động tác với dây chun (10 động tác tập
với 2 loại dây chun nhẹ và dây chun nặng);
- Nhóm bài tập thể dục văn phòng 4:
Các động tác căng cơ thả lỏng (10 động
tác).
Các bài tập thể dục trên đã được
chúng tôi in thành tranh ảnh, video ghi
hình tập huấn cho các tình nguyện viên.
Sau đó, trong 4 tuần đầu, nhóm thực
nghiệm tập dưới sự hướng dẫn của các
chuyên gia và các tình nguyện viên, 8
tuần còn lại họ tự tập với các tranh ảnh,
video ghi hình hướng dẫn.
4.1. Tác động với hình thái (xem Bảng
10, 11, 12)
Bảng 10. So sánh về hình thái học giữa nhóm thực nghiệm (nhóm A)
và nhóm đối chứng (nhóm B) (n = 38)
Chỉ tiêu
Nhóm A
(n=19)
Nhóm B
(n=19) X A - X B T P
X A ± S X B ± S
Chỉ số khối cơ thể
(kg/m2)
21,57 ± 2,14 21,7 ± 2,27 -0,13 -0,18 0,861
Tỉ lệ vòng bụng/vòng
mông
0,83 ± 0,3 0,83 ± 0,4 0,005 0,37 0,714
Lượng mỡ cơ thể (kg) 15,2 ± 3,7 17,6 ± 4,5 0,76 -1,83 0,076
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05.
Chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh 3 chỉ
tiêu trên giữa hai nhóm qua 12 tuần thực nghiệm (p > 0,05). Tuy nhiên khi so sánh các
chỉ tiêu hình thái giữa mỗi nhóm trước và sau thực nghiệm, xuất hiện một xu thế chung
đó là có sự giảm chỉ số khối cơ thể, tỉ lệ vòng bụng/vòng mông và lượng mỡ cơ thể với
nhóm thực nghiệm (Bảng 11). Nhóm đối chứng, không tập gì, thì ngược lại với nhóm
thực nghiệm, họ gia tăng đều ở các chỉ số trên (Bảng 12). Số liệu được so sánh lần nữa
giữa thời điểm trước và sau thực nghiệm của mỗi nhóm để đánh giá sự khác biệt trên.
Bảng 11. So sánh về hình thái học trước thực nghiệm và sau thực nghiệm
của nhóm thực nghiệm (n = 19)
Chỉ tiêu
Trước TN Sau TN
X 1 – X 2 T P X 1 ± S X 2 ± S
Chỉ số khối cơ thể (kg/m2) 21,84 ± 2,2 21,57 ± 2,14 0,27 2,6 0,018
Tỉ lệ vòng bụng/vòng
mông 0,84 ± 0,3 0,83 ± 0,4 0,008 3,8 0,001
Lượng mỡ cơ thể (kg) 15,9 ± 4,2 15,2 ± 3,7 0,74 3,4 0,003
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05.
So sánh các chỉ số hình thái của nhóm thực nghiệm trước và sau 12 tuần tập luyện
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016
_____________________________________________________________________________________________________________
148
thể dục giữa giờ, chúng tôi nhận thấy chỉ số khối cơ thể, tỉ lệ vòng bụng/vòng mông và
lượng mỡ cơ thể đều khác biệt có ý nghĩa thống kê với p lần lượt là 0,018; 0,001; và
0,003. Chỉ số khối cơ thể giảm khoảng 0,27 (kg/m2); tỉ lệ vòng bụng/ vòng mông giảm
0,008; và lượng mỡ cơ thể giảm 0,74 (kg). Như vậy, có thể nói, chương trình tập luyện
thể dục giữa giờ đã có tác động tích cực đối với việc điều chỉnh tương quan chiều cao,
cân nặng, giảm nguy cơ béo phì của người tham gia tập.
Bảng 12. So sánh về hình thái học trước thực nghiệm và sau thực nghiệm
của nhóm đối chứng (n = 19)
Chỉ tiêu
Trước TN Sau TN
X 1 – X 2 t P X 1 ± S X 2 ± S
Chỉ số khối cơ thể
(kg/m2)
21,07 ± 2,1 21,7 ± 2,3 -0,63 -6,4 0,00
Tỉ lệ vòng bụng/vòng
mông
0,82 .± 0,04 0,83 ± 0,04 -0,006 -1,6 0,131
Lượng mỡ cơ thể (kg) 13,8 ± 3,1 17,6 ± 4,5 -3,8 -5,9 0,00
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05.
Theo dõi ở nhóm đối chứng sau 12
tuần thực nghiệm không tham gia tập
luyện, chỉ số khối cơ thể tăng 0,63
(kg/m2), gấp gần 2 lần so với mức giảm
chỉ số này đo được ở nhóm thực nghiệm,
điều này cho thấy các nữ NVVP thuộc
nhóm đối chứng có sự gia tăng cân nặng
khá cao. Điều này cũng phù hợp khi
lượng mỡ cơ thể của họ cũng đồng thời
tăng trung bình là 3,8 (kg). Tất cả những
sự khác biệt này sau 12 tuần thực nghiệm
đều có ý nghĩa thống kê (p = 0,00 <
0,05). Sự gia tăng cân nặng này có thể do
tác động của việc ít vận động do phải làm
việc văn phòng, và một yếu tố ảnh hưởng
khác là tác động của quá trình lão hóa khi
mà tuổi trung bình của các đối tượng
nghiên cứu vào khoảng 39 tuổi, là
ngưỡng mà quá trình lão hóa ở phụ nữ
diễn ra với tốc độ khá nhanh.
4.2. Tác động với thể lực
So sánh các chỉ tiêu sức mạnh và
sức bền cơ giữa 2 nhóm qua các bài kiểm
tra khác nhau, chúng tôi nhận thấy sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Lực cơ của
nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối
chứng trung bình khoảng 4,5 (kg) với chi
trên; 8,7 (kg) với chi dưới; và 7,6 (kg)
với cơ lưng. Tất cả sự khác biệt ấy đều
được xác định có ý nghĩa thống kê với p
= 0,002; 0,044; và 0,039 < 0,05. Để đánh
giá sức bền cơ, chúng tôi sử dụng bài
kiểm tra nằm ngửa gập bụng tính số lần
tối đa. Qua so sánh giữa 2 nhóm, sức bền
cơ của nhóm thực nghiệm tốt hơn so với
nhóm đối chứng sau 12 tuần tập luyện.
Các thành viên nhóm thực nghiệm thực
hiện bài kiểm tra gập bụng với số lần
trung bình cao hơn nhóm đối chứng xấp
xỉ 5 lần và sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê p = 0,022 < 0,05. Kết quả được
trình bày ở Bảng 13 dưới đây:
Bảng 13. So sánh về sức mạnh và sức bền cơ giữa nhóm thực nghiệm (A)
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016
_____________________________________________________________________________________________________________
150
và nhóm đối chứng (B) (n = 38)
Chỉ tiêu
Nhóm A
(n=19)
Nhóm B
(n=19) X A - X B t p
X A ± S X B ± S
Lực cơ chi trên (kg) 26,7 ± 4,3 22,2 ± 4,1 4,5 3,3 0,002
Lực cơ chi dưới (kg) 58,6 ± 12 44,8 ± 13,8 8,7 2,1 0,044
Lực cơ lưng (kg) 44,9 ± 9,9 37,26 ± 12 7,6 2,1 0,039
Nằm ngửa gập bụng (lần) 9,7 ± 5,9 4,8 ± 6,7 4,9 2,4 0,022
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05.
Như vậy với mục tiêu ban đầu trong
thiết kế bài tập thể dục giữa giờ cho các
nữ NVVP là tăng cường sức mạnh và sức
bền cơ, thì chương trình tập luyện này đã
tạo được những hiệu quả tích cực. Sức
mạnh và sức bền cơ của người tập thể
dục giữa giờ được cải thiện đáng kể nhờ
duy trì việc tập luyện hợp lí.
Tiếp tục so sánh dữ liệu về độ dẻo
(Bảng 14), chúng tôi nhận thấy nhóm
thực nghiệm sau 12 tuần tập luyện thể
dục giữa giờ có độ dẻo tốt hơn so với
nhóm đối chứng. Nhóm thực nghiệm
thực hiện bài kiểm tra ngồi thẳng chân
gập dẻo thân (SRT) tốt hơn nhóm đối
chứng xấp xỉ 5,07 (cm), và bài kiểm tra
giãn nếp da đốt sống thắt lưng (SDT) cao
hơn nhóm đối chứng khoảng 1,6 (cm).
Tất cả sự khác biệt đó đều có ý nghĩa
thống kê với p được xác định lần lượt là
0,020 và 0,002 < 0,05. Như vậy, có thể
nói, chương trình tập thể dục giữa giờ đã
giúp tăng cường độ dẻo cho người tập
một cách hiệu quả.
Bảng 14. So sánh về độ dẻo giữa nhóm thực nghiệm (A)
và nhóm đối chứng (B) (n = 38)
Chỉ tiêu
Nhóm A
(n=19)
Nhóm B
(n=19) X A - X B t P
X A ± S X B ± S
Ngồi thẳng chân gập dẻo
thân (cm) 15,9 ± 6,3 10,8 ± 6,6 5,07 2,4 0,020
Giãn nếp da đốt sống thắt
lưng (cm) 5,5 ± 1,3 3,9 ± 1,5 1,6 3,4 0,002
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05.
Bảng 15. So sánh về mức đau giữa nhóm thực nghiệm (A)
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016
_____________________________________________________________________________________________________________
150
và nhóm đối chứng (B) (n = 38)
Mức đau
các vùng
Nhóm A
(n=19)
Nhóm B
(n=19) X A - X B t p
X A ± S X B ± S
Cổ 3,4 ± 1,4 4,4 ± 1,2 -1 -2,3 0,025
Lưng 4,6 ± 0,8 5,4 ± 1 -0,8 -2,6 0,013
Chi 2,6 ± 0,8 3,7 ± 1,3 -1,1 -3,1 0,005
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05.
Sử dụng bộ phiếu phỏng vấn kiểm
tra mức độ đau do Đại học McGill phát
triển [8], chúng tôi kiểm tra và cho
điểm mức độ đau tại 3 vị trí khác nhau,
gồm: cổ, lưng và chi. Thang điểm sử
dụng từ 0 tương ứng “hoàn toàn không
đau” đến 10 “cực kì đau không thể cử
động được”.
Qua bảng dữ liệu trên, có thể thấy
mức độ đau của nhóm thực nghiệm sau
thời gian tập 12 tuần thấp hơn hẳn so với
nhóm đối chứng. Mức đau vùng cổ và chi
trên, chi dưới thấp hơn xấp xỉ 1 điểm.
Mức đau vùng lưng thấp hơn xấp xỉ 0,8
điểm. Tất cả các sự khác biệt đó đều có ý
nghĩa thống kê khi p được xác định lần
lượt là 0,025; 0,005; và 0,013 < 0,05.
Như vậy, bài tập thể dục giữa giờ đã có
tác động nhất định đối với việc giảm các
cơn đau vùng cổ, vùng lưng và chi trên,
chi dưới tốt hơn so với chỉ làm việc mà
không tập. Tác động này có thể đến từ
việc sức mạnh, sức bền cơ và độ dẻo
được tăng cường khá tốt.
5. Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu này, chúng
tôi nhận thấy: (i) Không có sự khác biệt
về thể trạng của 2 nhóm sau thực nghiệm
[p > 0,05]; (ii) Sức mạnh, sức bền cơ, và
độ dẻo của nhóm tập luyện thể hiện tốt
hơn nhóm không tập và sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê [p < 0,05]; (iii)
Nhóm tập cho biết cảm giác đau các vùng
cổ, lưng, và tay chân giảm rõ rệt sau tập
luyện so với nhóm không tập [p < 0,05].
Tập thể dục giữa giờ có thể làm giảm đau
cơ khớp và tăng cường thể trạng, thể lực
cho nữ NVVP. Các nghiên cứu trong
tương lai có thể cân nhắc thực hiện với
nam giới và sử dụng thêm các kiểm tra,
đánh giá sức khỏe, cơn đau bằng khám y
khoa chuyên sâu.
Chương trình tập luyện thể dục giữa
giờ được phát triển bởi nghiên cứu này là
khoa học và phù hợp cho nữ NVVP
Trường ĐHSP TPHCM. Bước đầu,
những bài tập này giúp tăng cường sức
mạnh, sức bền cơ, độ dẻo và giảm mức
độ đau do các hội chứng bệnh văn phòng
gây ra đối với sức khỏe của nữ NVVP.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Sầm Vĩnh Lộc và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
151
1. Lương Kim Chung (1979), Chuyên đề thể dục nghề nghiệp, Ban Khoa học Kĩ thuật
Tổng cục Thể dục thể thao.
2. Lê Đức Chương, Lưu Quang Hiệp, Vũ Chung Thủy (2002), Y học thể dục thể thao,
Nxb Thể dục Thể thao.
3. Lưu Quang Hiệp, Phạm Thị Uyên (1995), Sinh lí học thể dục thể thao, Nxb Thể dục
Thể thao, Hà Nội.
4. Lê Văn Lẫm, Nguyễn Xuân Sinh, Trần Phúc Phong, Trương Anh Tuấn (1994), Thể
dục, Sách giáo khoa dùng trong các trường đại học thể dục thể thao, Nxb Thể dục
Thể thao, Hà Nội.
5. Carolyn Richardson, Paul Hodges, and Julie Hides (2004), Therapeutic Exercise for
Lumbopelvic Stabilization, Elsevier Saunders.
6. J. Larry Durstine and Geoffrey E. Moore (2003), ACSM’s Exercise Management for
Persons with Chronic Diseases and Disabilities, Human Kinetics.
7. Linda Rosenstock, Mark R. Cullen, Carl A. Brodkin, and Carrie A. Redlich (2005),
Textbook of Clinical Occupational and Enviromental Medicine, Elsevier Saunders.
8. Nalini Vadivelu, Richard D. Urman, and Roberta L. Hines (2011), Essentials of Pain
Management, Springer Science.
9. Victor R. Preedy and Ronald R. Watson (2010), Handbook of Disease Burdens and
Quality of Life Measures, Springer Science.
10. Vivian H. Heyward (2010), Advanced Fitness Assessment and Exercise Prescription,
Human Kinetics.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 19-4-2016; ngày phản biện đánh giá: 20-6-2016;
ngày chấp nhận đăng: 23-7-2016)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24874_83445_1_pb_9771.pdf