Phát triển một mô hình tiên lượng là bước
đầu tiên để hình thành nên một công cụ hỗ trợ
lâm sàng; mô hình tiên lượng trong nghiên cứu
này cần phải được thẩm định ở một quần thể
bệnh nhân khác, ở một địa điểm khác; vì tính
khái quát hóa của mô hình chỉ được xác định
qua các nghiên cứu thẩm định bên ngoài
(external validation)(19), Tuy nhiên, vì kết cục
điều trị của bệnh nhân phụ thuộc vào bệnh lý
mắc phải và nguồn lực y tế(20), Do đó, mô hình
này có tiềm năng ứng dụng cho quần thể bệnh
nhân ở các nước đang phát triển có nguồn lực y
tế và đặc điểm quần thể bệnh lý tương tự như ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam,
Những phát hiện đã nêu trong phần kết quả
cần phải được xem xét kết hợp với những điểm
mạnh và hạn chế của nghiên cứu, Nghiên cứu
này được dựa trên cỡ mẫu lớn, yếu tố này cho
phép phát hiện được những ảnh hưởng dù nhỏ
của các yếu tố nguy cơ, Các nomogram được xây
dựng cung cấp cho các bác sỹ công cụ để phân
loại ưu tiên điều trị và tiên lượng cho bệnh nhân
tại gường phù hợp với bối cảnh cấp cứu, Bên
cạnh đó, việc đánh giá kết cục điều trị và thu
thập dữ liệu được thực hiện nghiêm ngặt đảm
bảo tính chính xác và tin cậy của dữ liệu, Tuy
nhiên, các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu này
được thu thập từ quần thể bệnh nhân bị ảnh
hưởng của văn hóa địa phương, vì vậy có sai
lệch trong đánh giá kết cục so với quần thể bệnh
nhân Âu Mỹ, Ngoài ra, nghiên cứu này loại trừ
một số bệnh lý thường gặp tại khoa cấp cứu như
hội chứng vành cấp và ngộ độc; vì vậy, kết quả
nghiên cứu không áp dụng cho những bệnh lý
này
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 24 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng mô hình tiên lượng tử vong ở bệnh nhân nội khoa cấp cứu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Hồi Sức - Cấp Cứu – Chống Độc 321
XÂY DỰNG MÔ HÌNH TIÊN LƯỢNG TỬ VONG
Ở BỆNH NHÂN NỘI KHOA CẤP CỨU
Hà Tấn Đức*, Đặng Quang Tâm*, Trần Văn Ngọc**, Bùi Quốc Thắng**, Đỗ Văn Dũng**,
Nguyễn Đình Nguyên**, Nguyễn Văn Tuấn***
TÓM TẮT
Mở đầu: Mặc dù nhiều mô hình tiên lượng cho bệnh nội khoa tại khoa cấp cứu đã được phát triển, nhưng
chưa có mô hình nào cho thấy tiên lượng tốt ở bệnh nhân Việt Nam.
Mục tiêu: Phát triển mô hình tiên lượng tử vong từ các thông số lâm sàng không xâm lấn cho bệnh nội khoa
tại khoa cấp cứu.
Phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện tại khoa cấp cứu, bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ. Chúng
tôi thu thập các thông tin về đặc điểm lâm sàng, tiền sử bệnh. Kết cục chính là tử vong trong vòng 30 ngày kể từ
ngày nhập viện. Hồi quy Cox được áp dụng để phân tích mối liên quan giữa tử vong và các yếu tố nguy cơ.
Phương pháp Bayesian Model Average (BMA) được sử dụng để tìm mô hình tiên lượng.
Kết quả: Phân tích BMA cho thấy mô hình tối ưu gồm các biến số: giới tính, nhịp thở, bão hòa oxy ngoại
biên, điểm Glasgow, và chỉ định điều trị tại hồi sức cấp cứu. Mô hình này có trị số AUC là 0.842 (KTC
95%:0.809-0.875). Chúng tôi phát triển 2 đồ thị tiên lượng để ước tính nguy cơ tử vong.
Kết luận: Mô hình tiên lượng từ các thông số lâm sàng không xâm lấn có độ phân định giữa tử vong và
sống khá tốt ở bệnh nội khoa tại khoa cấp cứu.
Từ khóa: Mô hình tiên lượng, khoa cấp cứu, tử vong.
ABSTRACT
DEVELOPMENT OF A PROGNOSTIC MODEL BASED ON NON-INVASIVE PARAMETERS FOR
PREDICTING 30-DAY MORTALITY RISK IN MEDICAL EMERGENCY DEPARTMENT
Ha Tan Duc, Dang Quang Tam, Tran Van Ngoc, Bui Quoc Thang, Do Van Dung, Nguyen Dinh
Nguyen, Nguyen Van Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 321 - 329
Introduction: Althought several prognostic models have been developed for non-surgical patients in
Emergency Department, none of those models has good predictive performance in Vietnamese patients.
Aim: To develop a prognostic model based on non-invasive parameters for predicting mortality risk among
non-surgical patients in Emergency Department.
Patients and methods: The study was conducted at the Emergency Department of the National Hospital of
Can Tho, Vietnam. We obtained patient characteristics and medical history as pre-specified in the study design.
The primary outcome was mortality within 30 days since hospital admission. The relationship between mortality
and risk factors was analyzed by the Cox’s proportional hazards model. The Bayesian Model Averaging method
(BMA) was used to search for factors that were developed a prognostic model.
Results: The risk factors such as male gender, breathing rate, peripheral oxygen saturation, Glasgow coma
score, and indication of admitting to intensive care unit which were found by BMA were used to develop a
* Khoa hồi sức tích cực và chống độc, bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ
** Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh *** Khoa khoa học ứng dụng, Đại học Tôn Đức Thắng
Tác giả liên lạc: BS. Hà Tấn Đức ĐT: 0989216130. Email: hatanduc@gmail.com.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 322
prognostic model. The AUC of the model was 0.842 (95%CI:0.809-0.875). We have developed two nomograms for
individualizing the risk of mortality.
Conclusions: These data suggest that a prognostic model based on non-invasive parameters has good
predictive value in identifying medical patients at high risk of mortality in Emergency Department.
Key words: prognostic model, emergency department, mortality.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đa số các trường hợp tử vong trong bệnh
viện xảy ra ở những bệnh nhân nhập viện trong
hoàn cảnh cấp cứu(8). Đặc biệt, do sự đa dạng về
bệnh lý và độ nặng của bệnh nội khoa cấp cứu
nên việc tiên lượng bệnh vẫn còn gặp nhiều khó
khăn, với hệ quả là các biến cố bất lợi xảy ra
ngoài dự đoán(11). Mặc dù, tiên lượng từ kinh
nghiệm cá nhân của bác sỹ vẫn có sự chính xác
khá cao; tuy nhiên, đối với các trường hợp có kết
cục điều trị rất tốt hoặc rất xấu thì độ tin cậy của
tiên lượng dựa trên kinh nghiệm cá nhân thường
là thấp(12). Do đó, nhiều mô hình tiên lượng đã
được phát triển cho bệnh nội khoa cấp cứu
nhằm nhận diện những trường hợp có nguy cơ
cao cần được hồi sức cấp cứu. Những mô hình
này có thể được sử dụng cho việc phân loại ưu
tiên chăm sóc nhằm sử dụng nguồn lực y tế
thích hợp. Trong số các mô hình đang được sử
dụng, phổ biến nhất là Rapid Emergency
Medicine Score (REMS)(13), Rapid Acute
Physiology Score (RAPS)(16), Worthing
Physiological Scoring system (WPS)(5), Routine
Laboratory Data (RLD)(14), và Admission
Laboratory Tests (ALT)(1,7). Các mô hình này đã
được nghiên cứu ở bệnh nhân Âu Mỹ và có độ
chính xác tốt khi tiên lượng kết cục điều trị của
bệnh nhân(1).
Trong các mô hình vừa nêu trên, hai mô hình
REMS và WPS có tính khả thi cao đối với bối
cảnh tại khoa cấp cứu, vì các biến số đều sẳn có
ngay lúc vào viện và được thu thập chỉ trong
một thời gian ngắn. Chỉ số AUC (Area Under the
receiver operating characteristic Curve) của mô
hình REMS và WPS khi nghiên cứu phát triển
mô hình lần lượt là 0.852(13) và 0.740(5). Tuy nhiên,
theo một nghiên cứu được thực hiện tại một
trung tâm y tế ở đồng bằng sông Cửu Long, độ
chính xác khi tiên lượng của 2 mô hình này chỉ ở
mức trung bình ở bệnh nhân có bệnh nội khoa
tại khoa cấp cứu(4).
Với giả thuyết mô hình tiên lượng tử vong
cho bệnh nội khoa tại khoa cấp cứu từ các thông
số lâm sàng không xâm lấn có lợi ích khi sử
dụng cho bệnh nhân Việt Nam. Nghiên cứu hiện
tại được thiết kế để kiểm định giả thuyết vừa
nêu, với mục tiêu nghiên cứu là phát triển mô
hình tiên lượng tử vong từ các thông số lâm sàng
không xâm lấn cho bệnh nội khoa tại khoa cấp
cứu ở bệnh nhân Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bối cảnh và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại khoa cấp cứu
của bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ.
Khoa cấp cứu tiếp nhận và cho nhập viện trung
bình khoảng 75 bệnh nhân/ngày. Đề cương và
quy trình nghiên cứu đã được sự chấp thuận của
hội đồng khoa học công nghệ và y đức của bệnh
viện đa khoa trung ương Cần Thơ (số 20/QĐ-
KHCN) và hội đồng y đức Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh (số 74/ĐHYD-HĐ).
Chúng tôi thu thập tất cả các bệnh nhân nội
khoa trên 15 tuổi đến khám tại phòng cấp cứu và
có chỉ định nhập viện. Bệnh nhân được xem là có
bệnh nội khoa khi nhập viện không do nguyên
nhân chấn thương, và không có chỉ định phẫu
thuật; ngoại trừ các phẫu thuật do đột quỵ, xuất
huyết tiêu hóa trên, và tràn khí màng phổi
nguyên phát. Bệnh nhân bị loại trừ khỏi nghiên
cứu nếu có ít nhất một trong các tình trạng hoặc
bệnh lý như: hội chứng vành cấp, bỏng, ngưng
tim trước khi vào viện hoặc tại khoa cấp cứu với
hồi sinh tim phổi thất bại, rắn cắn, côn trùng cắn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Hồi Sức - Cấp Cứu – Chống Độc 323
hoặc đốt, ngộ độc (thuốc, rượu, paraquat, thuốc
trừ sâu, thuốc diệt chuột, chất ăn mòn). Phụ nữ
có thai cũng được loại trừ khỏi nghiên cứu.
Bệnh nhân có thể rút khỏi nghiên cứu bất kỳ
lúc nào. Bệnh nhân được cho ngừng tham gia
nghiên cứu khi xảy ra một trong các tình huống
sau: không hợp tác điều trị, chuyển đến trung
tâm y tế khác khi tình trạng lâm sàng chưa cải
thiện, không liên lạc được, và xuất viện do thân
nhân xin về.
Quy trình nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nhận vào và
không có tiêu chuẩn loại trừ đều được mời tham
gia nghiên cứu. Việc ký thỏa thuận đồng ý tham
gia nghiên cứu được thực hiện ở tất cả các
trường hợp bệnh nhân thu thập. Nếu bệnh nhân
giảm tri giác, thân nhân hoặc người đại diện sẽ
thay mặt bệnh nhân ký tên vào tờ thỏa thuận
tham gia nghiên cứu. Sau đó, các nhân viên thu
thập số liệu đã qua huấn luyện tiến hành ghi
nhận các dữ liệu y khoa của bệnh nhân. Dữ liệu
thu thập bao gồm: đặc điểm lâm sàng, tiền sử
bệnh, và các dữ liệu sinh lý theo yêu cầu của
thiết kế nghiên cứu. Các dữ liệu y khoa được thu
thập một lần lúc vào viện. Sau thời gian 30 ngày
kể từ ngày nhập viện, nghiên cứu viên gọi điện
đến bệnh nhân hoặc thân nhân để hỏi về kết cục
điều trị. Những bệnh nhân còn tiếp tục điều trị
trong bệnh viện sau thời gian 30 ngày được ghi
nhận là còn sống.
Kết cục
Kết cục chính của nghiên cứu này là tử vong
trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhập viện. Tử
vong ở ngày đầu tiên sau khi nhập viện được ghi
nhận là ngày 0. Tử vong được định nghĩa là (a)
bệnh nhân tử vong trong bệnh viện do bất kỳ
nguyên nhân nào, hoặc (b) thân nhân xin cho
bệnh xuất viện và bệnh nhân tử vong trong vòng
24 giờ sau khi xuất viện, hoặc (c) bác sỹ cho xuất
viện và bệnh nhân tử vong tại nhà.
Yếu tố nguy cơ
Trong vòng 15 phút kể từ khi bệnh nhân vào
khoa cấp cứu, chúng tôi thu thập số liệu ghi
nhận các dữ liệu y khoa bao gồm mạch, nhiệt độ,
huyết áp (máy huyết áp điện tử, OMRON
HEALTHCARE Co, Việt Nam), nhịp thở, bão
hòa oxy ngoại biên (SpO2, NONIN Co, Mỹ),
điểm Glasgow, ngày điều trị ở bệnh viện khác,
ngày khởi phát bệnh, bệnh kèm theo, tình trạng
chức năng. Ngay trước khi bệnh nhân được
chuyển đến khoa khác các dữ liệu sau được tiếp
tục ghi nhận: liều norepinephrine, dopamine,
dobutamine, hồi sinh tim phổi, thở máy, điều trị
tại khoa hồi sức cấp cứu theo chỉ định. Nhiệt độ
và điểm Glasgow được ghi nhận với giá trị cao
nhất khi bệnh nhân đang điều trị tại khoa cấp
cứu, và được đánh giá thêm trước khi bệnh nhân
rời khỏi khoa cấp cứu. Thời gian nằm viện được
ghi nhận sau khi bệnh nhân xuất viện. Trong
một số trường hợp (khoảng 5%) huyết áp bệnh
nhân quá thấp hoặc quá cao, máy huyết áp điện
tử không ghi nhận được trị số huyết áp, nhân
viên thu thập số liệu sẽ đo huyết áp bằng máy
huyết áp cơ học.
Quản lý và phân tích dữ liệu
Phân tích dữ liệu được thực hiện theo kế
hoạch đã được dự định. Giai đoạn đầu, thống kê
mô tả được thực hiện để mô tả các biến số định
tính và định lượng có phân tầng theo tình trạng
sống còn của bệnh nhân. Sự khác biệt giữa nhóm
sống sót và tử vong của các biến số định lượng
được kiểm định bằng các phương pháp tham số
cho các biến số có phân phối bình thường, hoặc
phương pháp phi tham số cho các biến số không
có phân phối bình thường; đối với các biến định
tính sự khác biệt về tỷ lệ giữa nhóm sống sót và
tử vong được kiểm định bằng phương pháp
chính xác Fisher. Giai đoạn tiếp theo, phương
pháp BMA (Bayesian Model Average) được sử
dụng để tìm mô hình tối ưu trong tiên lượng
nguy cơ tử vong. Tiêu chí để xác định mô hình
tối ưu dựa vào chỉ số BIC (Bayesian Information
Criterion). Sau cùng, chúng tôi sử dụng chỉ số
hazard ratio (HR) trong phương pháp hồi quy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 324
Cox(2) để đánh giá mối liên quan giữa các biến số
được chọn lựa trong mô hình và tử vong. Tính
phân định của mô hình được đánh giá bằng chỉ
số AUC trong tiên lượng tử vong 30 ngày và
dùng phép kiểm DeLong để kiểm định sự khác
biệt giữa 2 chỉ số AUC(3). Tính phù hợp của mô
hình được mô tả bằng sự tương quan giữa tỷ lệ
tử vong tiên lượng và tỷ lệ tử vong quan sát từ
dữ liệu(17). Phương pháp BMA được thực hiện
bằng gói phần mềm “BMA”(15). Biểu đồ
nomogram được vẽ bằng gói phần mềm “rms”(6).
Tất cả các phân tích thống kê được thực hiện
bằng phần mềm R, phiên bản 3.1.0(18).
KẾT QUẢ
Đặc điểm quần thể nghiên cứu
Trong thời gian từ 13/3/2013 đến 1/6/2013
chúng tôi tuyển chọn được 2180 bệnh nhân vào
nghiên cứu. Tuy nhiên, có 59 bệnh nhân bị loại
khỏi nghiên cứu do không đáp ứng các tiêu
chuẩn nhận vào và tiêu chuẩn loại trừ, 13 bệnh
nhân bị khuyết dữ liệu ở tiêu chuẩn loại trừ; 271
bệnh nhân ngừng tham gia nghiên cứu. Trong số
1837 bệnh nhân còn lại, có 91 bệnh nhân bị
khuyết dữ liệu. Do đó, số liệu của 1746 bệnh
nhân còn lại được sử dụng cho phân tích.
Thời gian nằm viện trung bình là 7 ngày
(IQR: 4 - 10). Trong thời gian theo dõi, 172 bệnh
nhân tử vong, tỷ lệ tử vong là 9.8% (KTC95%: 8.5
- 11.3%). Tỷ lệ tử vong trong 5 ngày là 5.7%
(KTC95%: 4.6 - 6.9%), tỷ lệ tử vong tiếp tục tăng
dần trong suốt thời gian nằm viện.
Các đặc điểm của bệnh nhân trong nhóm
nghiên cứu được trình bày ở Bảng 1. Trong các
yếu tố nguy cơ, dấu hiệu sinh tồn (mạch, nhiệt
độ, nhịp thở, SpO2) cho thấy có sự khác biệt giữa
nhóm sống sót và nhóm tử vong. Ngoài ra, các
yếu tố khác như tình trạng tri giác, điều trị tại
khoa hồi sức cấp cứu theo chỉ định cũng có sự
khác biệt giữa nhóm sống sót và nhóm tử vong.
Các tình trạng bệnh lý kèm theo như suy giảm
miễn dịch do thuốc, ung thư hạch, ung thư máu
hoặc đa u tủy, ung thư khác, suy thận mạn
không thấy có sự khác biệt giữa nhóm sống sót
và nhóm tử vong.
Bảng 1: Đặc điểm của 1746 bệnh nhân cấp cứu phân nhóm theo tình trạng sống còn và tử vong
Biến số Sống sau 30 ngày Tử vong trong vòng 30 ngày Trị số P
n(%) hoặc trung vị (Q1, Q3) n(%) hoặc trung vị (Q1, Q3)
Số lượng bệnh nhân 1574 172
Số lượng nữ giới (%) 865 (55,0) 75 (43,6) 0,0048
a
Tuổi (năm) 68 (55, 80) 71 (59, 81) 0,2187
b
Mạch (/phút) 90 (78, 103) 100 (83, 115) <0,0001
b
Nhiệt độ (
o
C) 37,1 (37,0, 37,7) 37,3 (37,0, 38,1) 0,0001
b
Huyết áp tâm thu (mmHg) 139 (120, 159) 131 (110, 158) 0,0508
b
Huyết áp tâm trương (mmHg) 80 (70, 90) 78 (63 , 90) 0,1776
b
Huyết áp động mạch trung bình (mmHg) 99 (87, 112) 96 (80, 110) 0,0814
b
Nhịp thở (/phút) 22 (20, 26) 26 (22, 30) <0,0001
b
Bão hòa oxy ngoại biên (%) 97 (94, 99) 93,5 (87, 97) <0,0001
b
Ngày điều trị ở bệnh viện khác (ngày) 0,0 (0,0, 29,0)
c
0,0 (0,0, 63,0)
c
0,0047
b
Ngày khởi phát bệnh (ngày) 1,0 (0,0, 3,0) 1,0 (0,0, 2,0) 0,2790
b
Điểm Glasgow 15 (15, 15) 15 (10, 15) <0,0001
b
Hồi sinh tim phổi (có) 1 (0,1) 3 (1,7) 0,0034
a
Thông khí cơ học (có) 15 (1,0) 25 (14,5) <0,0001
a
Điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu (có) 33 (2,1) 63 (36,6) <0,0001
a
Tình trạng chức năng 0,0127
a
- Phụ thuộc 1357 (86,2) 137 (79,7)
- Độc lập một phần 161 (10,2) 21 (12,2)
- Độc lập hoàn toàn 56 (3,6) 14 (8,1)
Dopamine (µg/kg/min) 0,0 (0,0, 6,8)
c
0,0 (0,0, 10,0)
c
<0,0001
b
Norepinephrine (µg/kg/min) 0,0 (0,0, 2,0)
c
0,0 (0,0, 2,8)
c
0,0078
b
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Hồi Sức - Cấp Cứu – Chống Độc 325
Biến số Sống sau 30 ngày Tử vong trong vòng 30 ngày Trị số P
n(%) hoặc trung vị (Q1, Q3) n(%) hoặc trung vị (Q1, Q3)
Dobutamine (µg/kg/min) 0,0 (0,0, 9,8)
c
0,0 (0,0, 11,0)
c
0,1982
b
Suy giảm miễn dịch do thuốc (có) 27 (1,7) 4 (2,3) 0,5388
a
Lymphoma (có) 2 (0,1) 1 (0,6) 0,2675
a
Leukemia/ myeloma (có) 8 (0,5) 3 (1,7) 0,0858
a
Ung thư khác (có) 18 (1,1) 5 (2,9) 0,0681
a
Suy thận mạn có chỉ định lọc thận (có) 66 (4,2) 10 (5,8) 0,3232
a
Suy hô hấp mạn (có) 88 (5,6) 19 (11,0) 0,0107
a
Xơ gan báng bụng (có) 44 (2,8) 10 (5,8) 0,0374
a
Suy tim (có) 87 (5,5) 24 (14,0) 0,0001
a
Đái tháo đường (có) 530 (33,7) 75 (43,6) 0,0112
a
Ngày nằm viện (ngày) 7,0 (4,0, 10,0) 3,0 (1,0, 8,0) <0,0001
b
(a) Kiểm định chính xác Fisher. (b) Kiểm định hoán vị cho 2 mẫu. (c) Trung vị (tối thiểu, tối đa)
Các mô hình tiên lượng tử vong
Tất cả những yếu tố nguy cơ tiềm năng đều
được đưa vào phân tích bằng phương pháp
BMA để chọn lựa mô hình tối ưu cho tiên lượng
tử vong trong vòng 30 ngày. Kết quả phân tích
cho thấy 5 yếu tố nguy cơ có liên quan nhiều đến
tử vong là: giới tính, nhịp thở, SpO2, điểm
Glasgow, điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu theo
chỉ định. Mô hình 1 bao gồm cả 5 yếu tố nguy cơ
vừa nêu là mô hình được chọn lựa vì có chỉ số
BIC thấp nhất (-256.8) và xác suất hậu định cao
nhất (0.379), hay nói cách khác mô hình 1 là mô
hình có khả năng phản ánh thực tế nhiều nhất
với ít thông số nhất. Tính phân định của các mô
hình được đánh giá qua chỉ số AUC, chỉ số AUC
của mô hình 1 và mô hình 3 cao nhất
(AUC=0.842); tuy nhiên, chưa thấy có sự khác
biệt về chỉ số AUC giữa mô hình 5 và các mô
hình còn lại (mô hình 1, mô hình 2, mô hình 3, và
mô hình 4). Bảng 2 trình bày các đặc tính của các
mô hình tiên lượng khả dĩ.
Bảng 2: Năm mô hình tiên lượng tối ưu được chọn lựa bằng phương pháp BMA
Xác suất≠0
a
(%) Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3 Mô hình 4 Mô hình 5
Giới tính 66,2 X X X X
Tuổi 0,0
Mạch 0,0
Nhiệt độ 0,0
Huyết áp tâm thu 4,6 X
Huyết áp tâm trương 0,0
Huyết áp động mạch trung bình 0,0
Nhịp thở 100,0 X X X X X
Bão hòa oxy ngoại biên 100,0 X X X X X
Ngày điều trị ở bệnh viện khác 0,0
Ngày khởi phát bệnh 9,7 X X
Điểm Glasgow 100,0 X X X X X
- Đáp ứng mở mắt 0,0
- Đáp ứng lời nói 13,5 X X
- Đáp ứng vận động 0,0
Hồi sinh tim phổi 0,0
Thông khí cơ học 0,0
Điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu 100,0 X X X X X
Tình trạng chức năng 0,0
Dopamine 21,0 X
Norepinephrine 0,0
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 326
Xác suất≠0
a
(%) Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3 Mô hình 4 Mô hình 5
Dobutamine 0,0
BIC -256,8 -256,2 -255,6 -251,5 -251,5
Xác suất hậu định 0,379 0,276 0,210 0,027 0,027
AUC(SE)
b
0,842 (0,017) 0,829 (0,019) 0,842 (0,017) 0,824 (0,018) 0,831 (0,018)
Trị số P
c,d
0,276 0,887 0,264 0,204 -
(a) Xác suất các biến số được chứa trong các mô hình tiềm năng được chọn lựa bằng phương pháp Bayesian Model Average. (b)
Thống kê Mann-Whitney U. AUC (SE), Area Under the receiver operating characteristic Curve (Standard Error). (c) Trị số P
giữa các mô hình với mô hình 5. (d) Kiểm định DeLong cho 2 chỉ số AUC.
Phân tích đa biến những yếu tố nguy cơ
trong mô hình 1 cho thấy giới nam tăng nguy cơ
tử vong 47% so với giới nữ. Gia tăng mỗi 5 nhịp
thở/phút sẽ gia tăng nguy cơ tử vong 32%; SpO2
lúc nhập viện giảm 5% sẽ tăng nguy cơ tử vong
19%; và với mỗi điểm Glasgow giảm đi sẽ tăng
được nguy cơ tử vong 15%. Đặc biệt, những
bệnh nhân được điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu
theo chỉ định có nguy cơ tử vong cao gấp 6.7 lần
so với những bệnh nhân bệnh nhẹ hơn được
điều trị tại khoa phòng thường (Bảng 3).
Bảng 3: Các yếu tố có liên quan đến nguy cơ tử vong: kết quả phân tích đa biến từ mô hình hồi quy Cox
Yếu tố nguy cơ Tỷ số rủi ro (hazard ratio) KTC95% của tỷ số rủi ro
Giới tính (Nam so với Nữ) 1,47 1,08 - 1,99
Nhịp thở (+5 nhịp/phút) 1,32 1,20 - 1,46
Bão hòa oxy ngoại biên (-5%) 1,19 1,10 – 1,30
Điểm Glasgow (-1) 1,15 1,10 – 1,21
Điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu (Có so với Không) 6,66 4,40 - 10,07
Biểu đồ 1: nomogram của mô hình 1 tiên lượng xác suất sống còn trong vòng 30 ngày: Giới tính, 1:
Nam, 0: Nữ; nhịp thở, lần/phút; SpO2, %; Glasgow, điểm Glasgow cao nhất tại cấp cứu; chỉ định điều trị tại
ICU (Intensive Care Unit), 1: Có, 0: Không, Cách sử dụng nomogram như sau: ứng với mỗi giá trị của biến số
trong mô hình chiếu thẳng góc lên thanh điểm trên cùng sẽ có số điểm tương ứng, tổng cộng sẽ có 5 giá trị về
điểm thu nhận được tương ứng với biến số giới tính, nhịp thở, SpO2, điểm Glasgow cao nhất tại cấp cứu, và
chỉ định điều trị tại ICU, Điểm tổng sẽ là tổng số của 5 giá trị điểm, Từ thanh điểm tổng chiếu thẳng góc xuống
các thanh ước lượng xác suất sống còn ta sẽ có được xác suất sống còn của bệnh nhân trong vòng 24 giờ, 5
ngày, 10 ngày, 15 ngày và 30 ngày)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Hồi Sức - Cấp Cứu – Chống Độc 327
Biểu đồ 2: nomogram của mô hình 1 tiên lượng ngày sống còn trung vị
Chú thích: Giới tính, 1: Nam, 0: Nữ; nhịp thở, lần/phút; SpO2, %; Glasgow, điểm Glasgow cao nhất tại cấp
cứu; chỉ định điều trị tại ICU, 1: Có, 0: Không; Ngày sống còn trung vị, ngày), Các giá trị của biến số được
chiếu thẳng góc lên thang điểm trên cùng để có số điểm tương ứng, Giả sử có một bệnh nhân nữ (#10 điểm),
khi vào viện có nhịp thở 45 lần/phút (#30 điểm) và SpO2 85% (#35 điểm), điểm Glasgow cao nhất của bệnh
nhân tại khoa cấp cứu là 14 (#41 điểm), và bệnh nhân có chỉ định điều trị tại ICU (0 điểm), Điểm tổng bệnh
nhân này là (10+30+35+41+0)=116, Từ thang điểm tổng ở mức 116 chiếu thẳng góc xuống ta sẽ có ngày sống
còn trung vị được tiên lượng là 10 ngày),
Mô hình 1
Tỷ lệ tử vong quan sát (cột xám)
T
ỷ
lệ
t
ử
v
o
n
g
0
.0
0
.2
0
.4
0
.6
0
.8
1
.0
Tỷ lệ tử vong tiên luợng
Biểu đồ 3: Tỷ lệ tử vong quan sát và tỷ lệ tử vong
tiên lượng của mô hình 1
BÀN LUẬN
Mặc dù, hiện nay đã có nhiều mô hình tiên
lượng cho bệnh nội khoa sử dụng những biến số
không xâm lấn và được thu thập thường quy tại
cấp cứu; tuy nhiên, do ảnh hưởng của những sai
lệch bên trong (biến số, phương pháp thống kê)
và bên ngoài của mô hình (quần thể nghiên cứu,
địa lý, thời gian sử dụng) dẫn đến sự suy giảm
tính chính xác khi tiên lượng ở một quần thể
bệnh nhân mới, Thêm vào đó, các mô hình tiên
lượng hiện có thường không tiện cho việc sử
dụng tại gường và cần phải có những thiết bị hỗ
trợ tính toán nên bị giới hạn sử dụng ở bối cảnh
tại khoa cấp cứu, Nghiên cứu của chúng tôi có
mục đích tìm một mô hình tiên lượng mới kết
hợp các biến số không xâm lấn sẳn có và thu
thập thường quy tại cấp cứu, tiên lượng cho cá
nhân, và dễ dàng sử dụng trong bối cảnh cấp
cứu, Kết quả phân tích bằng phương pháp BMA
cho thấy 5 yếu tố nguy cơ: giới tính nam, nhịp
thở, SpO2, điểm Glasgow, và điều trị tại hồi sức
cấp cứu theo chỉ định là các yếu tố nguy cơ có
liên quan đến tử vong, Mô hình tiên lượng gồm
5 yếu tố nguy cơ này (mô hình 1) có tính phân
định và tính phù hợp tốt có thể sử dụng trên lâm
sàng để tiên lượng cho bệnh nội khoa tại khoa
cấp cứu, Từ 5 yếu tố nguy cơ đã được xác định
chúng tôi xây dựng 2 nomogram để tiên lượng
nguy cơ và ngày sống còn trung vị. Các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 328
nomogram có thể được ứng dụng để tiên lượng
cho bệnh nhân ngay tại gường bệnh,
Trong các mô hình tiên lượng cho bệnh nội
khoa cấp cứu đã được phát triển trước đây, các
yếu tố nguy cơ như mạch, huyết áp, nhiệt độ,
nhịp thở, SpO2, tri giác đã cho thấy có liên quan
đến tử vong tại bệnh viện(
5,13), Bên cạnh đó, giới
tính và loại nhập viện cũng là một trong những
yếu tố nguy cơ của tử vong trong bệnh viện(14),
Các mô hình được phát triển từ các biến số
không xâm lấn thu thập tại khoa cấp cứu như
HOTEL(10), REMS(13), SCS(9) đều cho thấy có chỉ số
AUC trên 0,8, Tuy nhiên, trong phân tích của
chúng tôi mô hình được chọn lựa (mô hình 1)
không bao gồm tất cả các biến số này, Mặc dù,
trong nghiên cứu này có nhiều điểm khác biệt so
với các nghiên cứu trước đây như (a) khác biệt
về thời điểm thu thập dữ liệu, nghiên cứu này
ghi nhận dữ liệu trong vòng 15 phút nhập viện
(SCS ghi nhận ngay lúc nhập viện(9)); (b) khác
biệt về quần thể nghiên cứu và nguồn lực y tế, có
sự khác biệt về tiêu chuẩn loại trừ trong nghiên
cứu này với các nghiên cứu khác(9,10,13); (c) khác
biệt về định nghĩa kết cục, do ảnh hưởng của
văn hóa nên người Việt thường muốn bệnh
nhân mất tại nhà điều này dẫn đến nhiều trường
hợp bệnh nặng tử vong ngoài bệnh viện, các
nghiên cứu khác thường ghi nhận tử vong trong
bệnh viện(9,10,13); và (d) khác biệt về phương pháp
xử lý thống kê, các biến số định lượng trong
nghiên cứu này không bị biến đổi thành biến số
thứ bậc khi phân tích, đồng thời việc chọn lựa
mô hình tối ưu dựa trên phương pháp BMA
(khác với REMS(13), SCS(9) và HOTEL(10)), Tuy
nhiên, lý do chính dẫn đến sự khác biệt về các
biến số được chọn lựa đưa vào mô hình 1 có thể
là do ảnh hưởng độ mạnh của biến số điều trị tại
khoa hồi sức cấp cứu theo chỉ định; thực chất
đây là một biến số tổng hợp của các biến số khác
có trước đó,
Phát triển một mô hình tiên lượng là bước
đầu tiên để hình thành nên một công cụ hỗ trợ
lâm sàng; mô hình tiên lượng trong nghiên cứu
này cần phải được thẩm định ở một quần thể
bệnh nhân khác, ở một địa điểm khác; vì tính
khái quát hóa của mô hình chỉ được xác định
qua các nghiên cứu thẩm định bên ngoài
(external validation)(19), Tuy nhiên, vì kết cục
điều trị của bệnh nhân phụ thuộc vào bệnh lý
mắc phải và nguồn lực y tế(20), Do đó, mô hình
này có tiềm năng ứng dụng cho quần thể bệnh
nhân ở các nước đang phát triển có nguồn lực y
tế và đặc điểm quần thể bệnh lý tương tự như ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam,
Những phát hiện đã nêu trong phần kết quả
cần phải được xem xét kết hợp với những điểm
mạnh và hạn chế của nghiên cứu, Nghiên cứu
này được dựa trên cỡ mẫu lớn, yếu tố này cho
phép phát hiện được những ảnh hưởng dù nhỏ
của các yếu tố nguy cơ, Các nomogram được xây
dựng cung cấp cho các bác sỹ công cụ để phân
loại ưu tiên điều trị và tiên lượng cho bệnh nhân
tại gường phù hợp với bối cảnh cấp cứu, Bên
cạnh đó, việc đánh giá kết cục điều trị và thu
thập dữ liệu được thực hiện nghiêm ngặt đảm
bảo tính chính xác và tin cậy của dữ liệu, Tuy
nhiên, các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu này
được thu thập từ quần thể bệnh nhân bị ảnh
hưởng của văn hóa địa phương, vì vậy có sai
lệch trong đánh giá kết cục so với quần thể bệnh
nhân Âu Mỹ, Ngoài ra, nghiên cứu này loại trừ
một số bệnh lý thường gặp tại khoa cấp cứu như
hội chứng vành cấp và ngộ độc; vì vậy, kết quả
nghiên cứu không áp dụng cho những bệnh lý
này, Sau cùng, vì dữ liệu chỉ được lấy một lần lúc
nhập viện nên không phản ánh đầy đủ sự đáp
ứng điều trị của bệnh nhân,
KẾT LUẬN
Tóm lại, mô hình tiên lượng gồm những biến
số giới tính, nhịp thở, SpO2, điểm Glasgow, và
chỉ định điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu có tính
phân định và tính phù hợp tốt, giúp nhận diện
được nguy cơ tử vong cho bệnh nội khoa tại
khoa cấp cứu, Nomogram thay thế các công cụ
phức tạp khác để tiên lượng ngày và nguy cơ
của tử vong ngay tại gường, phù hợp với bối
cảnh khẩn trương của khoa cấp cứu,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Hồi Sức - Cấp Cứu – Chống Độc 329
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brabrand M, Folkestad L, Clausen N G, Knudsen T, Hallas J
(2010), "Risk scoring systems for adults admitted to the
emergency department: a systematic review", Scand J Trauma
Resusc Emerg Med, 18, 8,
2. Cox D R (1972), "Regression Models and Life-Tables", Journal
of the Royal Statistical Society, Series B (Methodological), 34(2),
187-220,
3. DeLong E R, DeLong D M, Clarke-Pearson D L (1988),
"Comparing the areas under two or more correlated receiver
operating characteristic curves: a nonparametric approach",
Biometrics, 44(3), 837-845,
4. Hà Tấn Đức, Danh Bảo Quốc, Nguyễn Văn Tuấn (2011), "Giá
trị của mô hình REMS và WPS trong tiên lượng tử vong bệnh
lý nội khoa tại khoa cấp cứu", Tạp chí Y học thực hành, 792(11),
60-64,
5. Duckitt R W, Buxton-Thomas R, Walker J, Cheek E, Bewick V,
Venn R, et al, (2007), "Worthing physiological scoring system:
derivation and validation of a physiological early-warning
system for medical admissions, An observational, population-
based single-centre study", Br J Anaesth, 98(6), 769-774,
6. Frank EHJ, (2014), Regression Modeling Strategies (Version
4,2-0),
7. Froom P, Shimoni Z (2006), "Prediction of hospital mortality
rates by admission laboratory tests", Clin Chem, 52(2), 325-328,
8. Jarman B, Gault S, Alves B, Hider A, Dolan S, Cook A, et al,
(1999), "Explaining differences in English hospital death rates
using routinely collected data", BMJ, 318(7197), 1515-1520,
9. Kellett J, Deane B (2006), "The Simple Clinical Score predicts
mortality for 30 days after admission to an acute medical
unit", QJM, 99(11), 771-781,
10. Kellett J, Deane B, Gleeson M (2008), "Derivation and
validation of a score based on Hypotension, Oxygen
saturation, low Temperature, ECG changes and Loss of
independence (HOTEL) that predicts early mortality between
15 min and 24 h after admission to an acute medical unit",
Resuscitation, 78(1), 52-58,
11. Ludikhuize J, Smorenburg S M, de Rooij S E, de Jonge E
(2012), "Identification of deteriorating patients on general
wards; measurement of vital parameters and potential
effectiveness of the Modified Early Warning Score", J Crit Care,
27(4), 424 e427-413,
12. McClish D K, Powell S H (1989), "How well can physicians
estimate mortality in a medical intensive care unit?", Med
Decis Making, 9(2), 125-132,
13. Olsson T, Terent A, Lind L (2004), "Rapid Emergency
Medicine score: a new prognostic tool for in-hospital mortality
in nonsurgical emergency department patients", J Intern Med,
255(5), 579-587,
14. Prytherch D R, Sirl J S, Schmidt P, Featherstone P I, Weaver P
C, Smith G B (2005), "The use of routine laboratory data to
predict in-hospital death in medical admissions", Resuscitation,
66(2), 203-207,
15. Raftery A, Hoeting J, Volinsky C, Painter I, Yeung K Y, (2014),
Bayesian Model Averaging,
16. Rhee K J, Fisher C J, Jr,, Willitis N H (1987), "The Rapid Acute
Physiology Score", Am J Emerg Med, 5(4), 278-282,
17. Royston P, Altman D G (2013), "External validation of a Cox
prognostic model: principles and methods", BMC Med Res
Methodol, 13, 33,
18. Team R C, (2014), R: A language and environment for statistical
computing, R Foundation for Statistical Computing, Vienna,
Austria, from
19. Toll D B, Janssen K J, Vergouwe Y, Moons K G (2008),
"Validation, updating and impact of clinical prediction rules: a
review", J Clin Epidemiol, 61(11), 1085-1094,
20. Vincent C, Taylor-Adams S, Stanhope N (1998), "Framework
for analysing risk and safety in clinical medicine", BMJ,
316(7138), 1154-1157,
Ngày nhận bài báo: 22/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2014
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xay_dung_mo_hinh_tien_luong_tu_vong_o_benh_nhan_noi_khoa_cap.pdf