KẾT LUẬN
Việt Nam có lợi thế sản xuất và
xuất khẩu gạo rất lớn. Hằng năm,
xuất khẩu gạo đóng góp đáng kể
trong kim ngạch xuất khẩu của nước
nhà. Gạo Việt Nam đã có mặt trên
khoảng 140 quốc gia trên thế giới, đã
đáp ứng được các thị trường khó tính
như Hoa Kỳ, EU Trong bối cảnh
hội nhập mới, gạo Việt Nam chịu sự
cạnh tranh gay gắt từ nhiều đối thủ
nặng ký như Thái Lan, Ấn Độ,
Pakistan. Để duy trì và phát triển thế
mạnh xuất khẩu gạo, Việt Nam cần
thiết phải cải tiến giống lúa, phương
pháp trồng và tìm kiếm những thị
trường tiềm năng. Một trong những
thị trường tiềm năng lớn là các quốc
gia khu vực Trung Đông. Đây là khu
vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế và
tăng dân số thuộc loại cao nhất thế
giới hiện nay, nhưng điều kiện tự
nhiên của vùng này không cho phép
sản xuất nông nghiệp dồi dào, điển
hình là mặt hàng gạo. Tổng hợp các
yếu tố khách quan và chủ quan, Việt
Nam nên tập trung chiến lược để
thâm nhập và có chỗ đứng trong việc
xuất khẩu gạo vào thị trường này.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 350 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Đông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017
30
XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG ĐÔNG
Võ Khắc Thường
Khoa Kế toán - Tài chính – Ngân hàng, Trường Đại học Tây Đô
(Email: thuongftuedu@yahoo.com.vn)
Ngày nhận: 07/6/2017
Ngày phản biện: 20/6/2017
Ngày duyệt đăng: 30/6/2017
TÓM TẮT
Xuất khẩu gạo là một trong những thế mạnh của Việt Nam, đóng góp đáng kể vào kim ngạch
xuất khẩu của nước nhà. Kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa đến nay, xuất khẩu gạo Việt Nam
luôn có mặt ở nhiều nơi trên thế giới, bao gồm cả những thị trường khó tính như thị trường Châu
Âu, Mỹ. Những năm gần đây, xuất khẩu gạo của Việt Nam gặp nhiều rủi ro và thách thức.
Nguyên nhân là do sự cạnh tranh gay gắt từ các thương hiệu gạo lớn cũng như những tiêu chuẩn
khắt khe về nhập khẩu và chất lượng gạo nhập khẩu. Thị trường Trung Đông với 15 quốc gia và
vùng lãnh thổ là thị trường tiêu thụ lớn với nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, tính thanh
khoản của thị trường này cao và đời sống người dân cũng ngày càng nâng cao. Đây cũng là thị
trường nhập khẩu ròng hơn 50% tổng khối lượng gạo tiêu thụ do điều kiện tự nhiên không phù
hợp để trồng lúa. Chất lượng sản phẩm nhập khẩu cũng được chọn lọc khá nghiêm ngặt. Thuế
quan được đặt ra nhằm nâng cao chọn lọc sản phẩm đạt chất lượng cũng như về an toàn thực
phẩm, ít tác động xấu đến môi trường, có nguồn gốc xuất xứ và đạt tiêu chuẩn kỹ thuật. Vì thế, để
đáp ứng được những yêu cầu nhập khẩu gạo, các doanh nghiệp, nhà khoa học và nông dân sản
xuất lúa gạo cần có mối liên kết chặt chẽ tạo nên chuỗi giá trị sản phẩm gạo đáp ứng được yêu
cầu nhập khẩu ở thị trường Trung Đông.
Từ khóa: Thị trường Trung Đông, xuất khẩu gạo, liên kết chuổi giá trị
1. LÝ THUYẾT ỨNG DỤNG
Lợi thế tương đối của David
Ricardo – quốc gia nên chuyên môn
hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm
có lợi thế tương đối, nhập khẩu sản
phẩm của quốc gia khác có lợi thế
tương đối sản xuất.
Hệ số lợi thế so sánh RCA
(Revealed Comparative advantage):
Là hệ số đo lường mức độ lợi thế so
sánh của sản phẩm này đối với sản
phẩm khác hoặc của nước này với
nước khác. Hệ số này biểu thị khả
năng cạnh tranh xuất khẩu của một
quốc gia về một sản phẩm trong mối
tương quan với mức xuất khẩu của
thế giới về sản phẩm đó. Hệ số RCA
của gạo Việt Nam được trình bày
trong Bảng 1.
Trích dẫn: Võ Khắc Thường, 2017. Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung
Đông. Tạp chí nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây
Đô. 01: 30-41.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017
31
Xij/Xj
Xiw/Xw
RCA =
(Porter, 2004)
Trong đó:
- Xij: Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm
i của quốc gia j
- Xj: Tổng kim ngạch xuất khẩu của
quốc gia j
- Xiw: Kim ngạch xuất khẩu sản
phẩm i của thế giới
- Xw: Tổng kim ngạch xuất khẩu của
thế giới
Nếu:
- RCA > 2,5: Sản phẩm có lợi thế so
sánh rất cao.
- 1 < RCA < 2.5: Sản phẩm có lợi thế
so sánh.
- RCA < 1: Sản phẩm bất lợi thế so
sánh.
Bảng 1. Tổng hợp kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 6 năm
Năm
Kim ngạch
xuất khẩu
gạo của VN
Tổng kim
ngạch xuất
khẩu
của VN
Kim ngạch
xuất khẩu
gạo toàn thế
giới
Tổng kim
ngạch
xuất khẩu
toàn thế giới
RCA
2011 1.408,4 32.447,1 9.849,4 10.306.710,0 45,4
2012 1.275,8 39.826,2 10.633,0 11.887.549,0 35,8
2013 1.490,2 48.561,3 13.120,2 13.808.752,0 32,3
2014 2.895,9 62.685,1 19.915,1 15.938.183,0 37,0
2015 2.666,1 57.096,3 18.937,8 12.400.198,0 30,6
2016 3.320,0 71.630,0 20.457,3 14.784.130,0 33,5
(Nguồn: tổng hợp từ số liệu của trang Phân tích thị trường ITC, Cơ quan thống kê Liên
hợp quốc và số liệu về thương mại của Bộ Công thương)
2. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG
GẠO TRUNG ĐÔNG VÀ SỰ CẦN
THIẾT CỦA VIỆC ĐẨY MẠNH
XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG
ĐÔNG
2.1. Thị trường gạo Trung Đông
Gạo là lương thực chính của hơn
3,5 tỷ người, tương đương 50% dân
số trên thế giới. Hiện nay, Trung
đông là khu vực có tốc độ tăng dân số
nhanh nhất thế giới. Năm 2014, tốc
độ tăng dân số của khu vực này là 2%
trong khi tốc độ này của thế giới chỉ
là 1,2% (Phương Hương, 2015). Song
song với gia tăng dân số, nhu cầu tiêu
thụ gạo trên đầu người của khu vực
này cũng gia tăng theo.
Cùng với tốc độ tăng trưởng dân
số là tăng trưởng về mặt kinh tế. Điều
này cũng góp phần gia tăng thu nhập
bình quân đầu người và thúc đẩy nhu
cầu tiêu dùng. Khu vực Trung Đông
có hai quốc gia nằm trong nhóm 10
nước giàu nhất thế giới là Các tiểu
vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE)
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017
32
và Qatar. Nói đến Trung Đông không
thể không nói đến nguồn tài nguyên
đặc thù của họ, đó là dầu mỏ. Thật
vậy, dầu mỏ đã đem đến sự hưng
thịnh cho Trung Đông, nhưng đồng
thời Trung Đông phải trả giá bằng
việc sở hữu đất đai ít màu mỡ, đa
phần là sa mạc. Ngoài ra, điều kiện
khí hậu không thật sự lý tưởng đã
đem đến cho hầu hết các quốc gia
khu vực này một nền nông nghiệp lạc
hậu, năng suất thấp, không thể đáp
ứng được nhu cầu lương thực cho
người dân. Do đó, nhập khẩu lương
thực, chủ yếu là gạo, đóng vai trò
quan trọng, đảm bảo nhu cầu an ninh
lương thực ở các quốc gia này. Vì
vậy, Trung Đông là thị trường tiềm
năng cho xuất khẩu gạo Việt Nam.
2.2. Đặc điểm tiêu thụ gạo của
Trung Đông
Trung Đông là khu vực có đa số
người theo đạo Hồi cư ngụ. Cộng
đồng người Hồi giáo ưa chuộng loại
gạo đồ và gạo Basmati. Cụ thể, gạo
đồ thuộc chủng loại hạt dài, được làm
từ lúa tươi ngâm trong nước nóng,
sấy khô, hấp trong hơi nước ở nhiệt
độ và thời gian quy định, sấy khô lần
nữa, sau đó xay xát và đánh bóng.
Quá trình chế biến này giúp các chất
dinh dưỡng từ cám đi vào bên trong
hạt gạo nên hương vị hạt gạo đồ ngọt
hơn so với gạo thường và tỷ lệ gạo
trắng thu hồi cao hơn. Bên cạnh đó,
gạo đồ thường cho cơm khô, thuận
tiện trong việc ăn bốc nên người Hồi
giáo rất ưa chuộng. Gạo Basmati
được mệnh danh là vua các loại gạo
với chất lượng cao cấp. Giống gạo
này chỉ mọc ở vùng núi Himalaya và
Pakistan. Lúa cho gạo Basmati
thường được thu hoạch bằng tay với
sự khéo léo và tỉ mỉ cần thiết. Gạo
Basmati nổi tiếng với hạt rất dài,
trắng, mỏng và cơm có mùi thơm dễ
chịu (Siddiq et al., 2012).
Bên cạnh hai loại gạo ưa chuộng,
người tiêu thụ gạo Trung Đông còn
chấp nhận tiêu thụ thêm một số loại
gạo khác. Trong đó, nổi bật là gạo
lức, gạo đã xát sơ bộ và gạo đã xát
trắng, tấm. Các sản phẩm này đều
nằm trong khả năng cung ứng cao
của Việt Nam. Nếu thâm nhập và
chiếm lĩnh thị phần của các loại sản
phẩm này, kim ngạch xuất khẩu gạo
của Việt Nam sẽ tăng đáng kể.
2.3. Những nước xuất khẩu gạo vào
Trung Đông
Theo tài liệu từ cơ quan Thống kê
liên hợp quốc thì hiện nay, bốn nhà
cung cấp gạo chính tại thị trường
Trung Đông gồm Ấn Độ, Pakistan,
Thái Lan và Việt Nam. Thị phần gạo
xuất khẩu của mỗi nước được thể
hiện trong Hình 1.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017
33
Hình 1. Thị phần xuất khẩu gạo của các nước vào Trung Đông
(Nguồn: tổng hợp từ cơ quan thống kê Liên hợp quốc 2016)
Mặc dù là hai nước xuất khẩu gạo
hàng đầu thế giới, chiếm hơn một nữa
nguồn cung gạo thế giới, thị phần
xuất khẩu gạo của Việt Nam và Thái
Lan tại khu vực Trung Đông là không
đáng kể, lần lượt là 4% và 16% (Hình
1). Ấn Độ và Pakistan, hai quốc gia
xuất khẩu gạo đứng thứ tư và năm thế
giới, gần như chiếm lĩnh thị trường
Trung Đông với tổng thị phần gần
gấp 4 lần Việt Nam và Thái Lan cộng
lại. Vì vậy, với mục tiêu thâm nhập
và mở rộng thị trường Trung Đông,
gạo Ấn Độ và Pakistan là hai đối thủ
cạnh tranh lớn của nước ta.
3. MỘT SỐ QUY ĐỊNH NHẬP
KHẨU GẠO VÀO TRUNG ĐÔNG
3.1. Thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu gạo vào thị trường
Trung Đông không khác nhau nhiều
giữa các nước trong khu vực cũng
như giữa các loại gạo. Thuế suất thuế
nhập khẩu gạo của từng nước tại
Trung Đông được thể hiện cụ thể
trong Bảng 2.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017
34
Bảng 2. Quy định nhập khẩu của các quốc gia
Quốc gia Thóc Gạo lứt Gạo đã xát Tấm
Ả rập Xê Út 0% 0% 0% 0%
Bahrain 0% 0% 0% 0%
Iran 0% 0% 0% 0%
Iraq 0% 0% 0% 0%
Israel 0% 0% 0% 0%
Jordan 5% 5% 0% 0%
Kuwait 0% 0% 0% 0%
Liban 5% 5% 5% 5%
Oman 0% 0% 0% 0%
Qatar 0% 0% 0% 0%
Syria 3% 3% 3% 3%
Thổ Nhĩ Kỳ 12%-34% 36% 45% 45%
UAE 0% 0% 0% 0%
Yemen 0% 0% 0% 0%
(Nguồn: tổng hợp số liệu về thuế quan các nước của tổ chức WTO và trang
Phân tích thị trường của ITC 2016)
Với mức thuế suất đang áp dụng,
Trung Đông rõ ràng là thị trường đầy
tiềm năng đối với gạo Việt Nam. Bên
cạnh những thủ tục hải quan thông
thường, một điểm đặc biệt của việc
xuất khẩu hàng hóa đến thị trường
Trung Đông là bộ chứng từ hàng hóa
phải được hợp pháp hóa lãnh sự bởi
Đại sứ quán hoặc cơ quan lãnh sự của
nước nhập khẩu đóng tại nước xuất
khẩu trước khi làm thủ tục nhập
khẩu. Mục đích của việc hợp pháp
hóa này là nhằm xác định đúng
nguồn gốc, chất lượng và giá trị thực
của hàng hóa nước xuất khẩu, giảm
thiểu gian lận thương mại của đơn vị
xuất khẩu hoặc trốn thuế của đơn vị
nhập khẩu. Trong trường hợp nước
nhập khẩu không có Đại sứ quán
hoặc cơ quan lãnh sự ở nước xuất
khẩu, nhà xuất khẩu có thể yêu cầu
Đại sứ quán hoặc cơ quan lãnh sự của
nước Ả rập hoặc Hồi giáo khác hợp
pháp hóa lãnh sự chứng từ xuất khẩu.
3.2. Rào cản phi thuế quan
Rào cản phi thuế quan là những
biện pháp khác ngoài đánh thuế nhằm
hạn chế lượng hàng nhập khẩu, ví dụ
như những điều kiện về an toàn vệ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017
35
sinh thực phẩm, môi trường, xuất xứ,
tiêu chuẩn kỹ thuật. Khu vực Trung
Đông với phần đông dân số theo đạo
Hồi, họ có những chuẩn mực riêng
theo tôn giáo của họ. Đối với các mặt
hàng lương thực, thực phẩm, người
tiêu dùng ở khu vực này yêu cầu phải
có chứng nhận Halal (Suddin et al.,
2009). Tức là sản phẩm phải được
chế biến, sản xuất theo đúng yêu cầu
của kinh Qua’ran và luật Shariah của
đạo Hồi thì mới được thông quan.
Bản thân người Hồi giáo tin dùng
những sản phẩm có chứng nhân Halal
vì không những đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm mà còn đáp ứng được
những chuẩn mực tâm linh của họ. Vì
vậy, Halal còn được cho là giấy
thông hành của sản phẩm cho người
tiêu dùng Hồi giáo (Nhân Trí, 2011).
Ngoài ra, đối với các quốc gia khối
Hợp tác các nước vùng Vịnh (GCC),
các mặt hàng lương thực, thực phẩm
nhập khẩu phải đảm bảo thêm các
tiêu chuẩn khắt khe về giám sát vệ
sinh an toàn thực phẩm của GCC
(Kandari et al., 2009) theo chuẩn Hoa
Kỳ và Châu Âu. Bên cạnh đó, mỗi
quốc gia khu vực này còn có thêm
những giấy chứng nhận an toàn thực
phẩm riêng như giấy chứng nhận an
toàn nông sản, thực phẩm của Bộ y tế
Iran, giấy chứng nhận của Cơ quan
dịch vụ kiểm soát thực phẩm Israel.
4. TIỀM NĂNG XUẤT KHẨU
GẠO VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG TRUNG ĐÔNG
Như đã phân tích ở trên, Trung
Đông là khu vực dân số đông, tốc độ
tăng trưởng kinh tế nhanh, nông
nghiệp lạc hậu không đáp ứng đủ tiêu
dùng trong nước. Hàng năm, các
quốc gia này phải nhập khẩu hơn
50% sản lượng gạo và các loại nông
sản khác. Theo dự báo của Tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế-Tổ chức
Nông lương thế giới, mức tiêu thụ
gạo trên đầu người và nhu cầu nhập
khẩu gạo sẽ tăng từ đây đến năm
2020.Một điểm đáng chú ý tại thị
trường gạo Trung Đông là sở thích
tiêu dùng gạo đồ. Loại gạo này cho
cơm khô, phù hợp với ăn bằng tay,
chất lượng dinh dưỡng cao, nên được
người theo đạo Hồi ưa chuộng. Theo
Hiệp hội lương thực Việt Nam
(VFA), nhu cầu gạo đồ của các quốc
gia theo đạo Hồi giáo trung bình
khoảng 3,5 – 4 triệu tấn/năm
(Agroinfo, 2011).
Hiện tại, theo số liệu của cơ quan
thống kê, gạo Việt Nam đã có mặt tại
gần 140 quốc trên thế giới và vùng
lãnh thổ với mức tăng trưởng kim
ngạch bình quân 2%/năm. Việt Nam
còn có tiềm năng xuất khẩu gạo đồ và
gạo Basmati sang Trung Đông. Từ
đầu năm 2010, doanh nghiệp Việt
Nam đã sản xuất gạo đồ và đạt được
kết quả ban đầu khá khả quan. Gạo
đồ của Việt Nam đã xuất khẩu sang
các nước Đông Âu, châu Phi và một
số quốc gia Châu Á (Nielsen, 2003).
Về gạo Basmati, từ năm 2006, Việt
Nam đã lai tạo thành công giống lúa
thơm đột biến Basmati với phẩm chất
và năng suất tốt hơn giống lúa gốc
(Shu, 2009). Cụ thể, dòng thuần đột
biến giữ được mùi thơm của giống
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017
36
lúa Basmati, thời gian sinh trưởng chỉ
còn 90 ngày, chiều cao của cây là 90-
95cm, hạt dài thon, đẹp và năng suất
tăng gấp 2-2,5 lần so với giống gốc.
Trong khi đó, giống gốc Basmati của
Pakistan và Ấn Độ có năng suất 2-3
tấn/ha, thường chỉ gieo một vụ/năm
và thời gian sinh trưởng thường từ
140-150 ngày/vụ Hiện nay, giống lúa
đột biến Basmati được sự chấp thuận
của nông dân và đã triển khai khoảng
50ha ở tỉnh Sóc Trăng và mở rộng
thêm hai tỉnh An Giang và Đồng Nai.
Kết quả ban đầu cho thấy giống lúa
này có khả năng chống chịu cao và
thích nghi với môi trường. Ngoài ra,
Việt Nam còn có tiềm năng xuất khẩu
gạo thơm sang Trung Đông vì gạo
thơm cũng thuộc chủng loại gạo cao
cấp. Một số thương hiệu gạo thơm đã
được bạn hàng quốc tế biết đến như
gạo Sóc, gạo Châu Long, Nàng thơm
chợ Đào Đây là lợi thế không nhỏ
so với các chủng gạo khác của Việt
Nam khi muốn thâm nhập thị trường
Trung Đông.
Tuy nhiên, hàng năm khu vực
Trung Đông nhập khẩu hơn 4 triệu
tấn gạo nhưng sản lượng gạo Việt
Nam đóng góp chưa đến 5%. Đơn cử,
UAE là thị trường tạm nhập tái xuất
gạo lớn nhất thế giới và cũng là cửa
ngõ đi vào thị trường Trung Đông,
Nam Á và Bắc Phi nhưng gạo nước
ta hầu như không có mặt tại thị
trường này.
Để cải thiện thực trạng xuất khẩu
gạo còn khiêm tốn đối với thị trường
này, doanh nghiệp Việt Nam cần lưu
ý những vấn đề:
- Đối với quy định về thuế quan:
mức thuế suất thuế nhập khẩu áp vào
gạo Việt Nam ở vùng Trung Đông là
không cao, phần lớn từ 0%-5%.
Trong đó, khối GCC là hoàn toàn
miễn thuế (Waffa, 2010). Doanh
nghiệp Việt Nam nên tận dụng khoản
này.
- Đối với quy định bao bì: các quy
định này được xây dựng dựa trên các
tiêu chuẩn của thị trường EU và Mỹ,
đặc biệt là đối với các nước GCC.
Việt Nam đã đáp ứng xuất khẩu gạo
sang hai thị trường này rồi nên hoàn
toàn đáp ứng được với khu vực Trung
Đông. Bên cạnh đó, quy định về ngôn
ngữ trên bao bì, việc có thêm tiếng Ả
rập hoặc tiếng Hebrew là không khó
để doanh nghiệp Việt đáp ứng.
- Đối với quy định về vệ sinh an
toàn thực phẩm: thị trường Trung
Đông ưu tiên sử dụng sản phẩm có
chứng nhận Halal. Theo ông
Mohammed Omar Trần Xuân Giáp –
giám đốc Văn phòng chứng nhận
Halal tại Việt Nam, hầu hết các
nguyên liệu có nguồn gốc từ thực vật
và thủy hải sản đều là Halal. Với
những đặc tính gieo trồng và sản xuất
gạo của Việt Nam thì việc xin giấy
phép Halal không phải là vấn đề to
lớn. Hơn nữa, hạt gạo nước ta đang
dần được công nhận bởi những tổ
chức uy tín về an toàn thực phẩm
toàn cầu. Đầu năm 2012, gạo Việt
Nam lần đầu tiên đạt được chứng
nhận nhãn hiệu gạo hữu cơ của tổ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017
37
chức quốc tế BIO Organic là nhãn
hiệu gạo hữu cơ an toàn tuyệt đối có
lợi cho sức khỏe Cơ quan đánh giá và
chứng nhận Hà Lan tại Việt Nam.
Điều này là bước đầu giúp gạo Việt
Nam có giá trị trên toàn cầu, dễ dàng
tiếp cận với những thị trường khó
tính như Mỹ, EU và Trung Đông.
- Đối với quy định về thủ tục nhập
khẩu: Hiện nay, Thổ Nhĩ Kỳ, Kuwait,
UAE, Ả rập Xê Út, Qatar, Omanđã
mở đại sứ quán tại Hà Nội, điều này
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp trong việc hợp thức hóa lãnh
sự khi xuất khẩu sang Trung Đông.
Đối với những quốc gia chưa có cơ
quan lãnh sự đại diện thì doanh
nghiệp có thể hợp pháp hóa lãnh sự
tại Đại sứ quán Ai cập hoặc Đại sứ
quán Algery. Còn những chứng từ
xuất khẩu khác để vào Trung Đông
thì khá đơn giản và không quá khắt
khe, doanh nghiệp Việt Nam hoàn
toàn có thể đạt được.
5. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG
CAO KHẢ NĂNG XUẤT KHẨU
GẠO VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG TRUNG ĐÔNG
5.1. Hiện trạng sản xuất lúa gạo
của Việt Nam
Gia nhập WTO vào năm 2007, gạo
Việt Nam chịu sự cạnh tranh gay gắt
từ những cường quốc gạo như Thái
Lan, Pakistan, Ấn Độ. Gạo Việt Nam
không thể cạnh tranh với các đối thủ
lớn bởi chất lượng gạo của chúng ta
thấp nhiều so với các đối thủ nhưng
giá gạo lại cao hơn họ. Một điểm
đáng lưu ý nữa là trong một thời gian
rất dài, Việt Nam luôn giữ hai vị trí
đầu trong sản xuất và xuất khẩu gạo,
thị trường tiêu thụ đa dạng, giống lúa
phong phú, kỹ thuật canh tác tiên
tiến, vậy giá trị lại thấp là do đâu?
Câu trả lời vẫn còn nằm trong vòng
luẫn quẩn – chuỗi giá trị.
- Về sản xuất, mặc dù các nhà
khoa học đã và đang nghiên cứu, cho
ra đời những giống lúa và phương
pháp trồng mới nhưng người nông
dân vẫn còn trồng lúa một cách tự
phát với đa dạng nguồn giống và biện
pháp kỹ thuật. Nguyên nhân là họ
không biết ai sẽ mua và mua với giá
bao nhiêu. Nhà nước chỉ đạo nông
dân trồng giống lúa này hoặc phương
pháp kia nhưng không xác định rõ
doanh nghiệp nào sẽ mua lúa của
nông dân. Thực tế cho thấy doanh
nghiệp chỉ biết đối tác là những
thương lái, không cần quan tâm đến
nông dân. Kết quả là nông dân tự
trồng lúa theo kinh nghiệm và trồng
nhiều giống lúa trên cùng một cánh
đồng. Hệ quả là chất lượng lúa còn
rất thấp.
- Về thương mại, hầu hết nông dân
bán lúa tại ruộng cho thương lái thay
vì bán trực tiếp cho doanh nghiệp. Vì
không nắm rõ giá trị thương mại của
hạt lúa nên nông dân thường bị ép
giá. Doanh nghiệp mua lúa từ thương
lái, không trả giá trực tiếp cho nông
dân. Nếu giá lúa sau khi bán có tăng
thì thương lái và doanh nghiệp hưởng
trọn, nông dân không hề có lợi ích gì.
Thêm nữa, các doanh nghiệp xuất
khẩu trong nước chưa có vùng
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017
38
nguyên liệu để đảm bảo chất lượng
gạo cần thiết, không hợp đồng với
nông dân mà vẫn có quyền bán gạo
khối lượng lớn mà không có thương
hiệu. Nếu tình trạng này vẫn còn tiếp
diễn thì gạo xuất khẩu của Việt Nam
mãi mãi thua những nước xuất khẩu
gạo mạnh. Vì vậy, mô hình chuỗi
cung ứng hiệu quả gạo xuất khẩu là
bước đi tối cần thiết cho ngành lúa
gạo nước ta.
5.2. Đề xuất mô hình mới
Mô hình trình bày ở Hình 2.
Hình 2. Liên kết giữa doanh nghiệp, nhà khoa học, Nhà nước và nông
dân
Doanh nghiệp xuất khẩu gạo sang
Trung Đông phải định vị chính xác
thị trường tiêu thụ nhằm xác định loại
gạo sản xuất trong nước là gạo đồ,
gạo basmati hay gạo thơm. Sau đó,
doanh nghiệp tham khảo các nhà
khoa học nhằm xác định giống lúa cụ
thể để đưa vào sản xuất chuyên môn
hóa.
Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và
người nông dân hiện tại đang có
nhiều khoảng trống. Kinh doanh mặt
hàng gạo nhưng doanh nghiệp lại ít
hoặc không tiếp cận với nông dân,
chủ yếu tiếp cận với thương lái.
Nghịch lý này đã vô hình chung tạo
nên một sự phụ thuộc của người nông
dân vào thương lái. Vì thế, doanh
nghiệp cần ký hợp đồng thu mua lúa
trực tiếp với nông dân ngay từ đầu vụ
mùa. Doanh nghiệp thông báo công
khai các điểm thu mua và giá mua để
tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân
trực tiếp giao dịch. Hằng năm, doanh
nghiệp theo dõi và nắm bắt nhu cầu
thị trường, tình hình biến động giá cả
trong nước và thế giới nhằm cân đối
nhu cầu nguyên liệu và để đặt hàng
cho hộ nông dân. Lúa sau thu hoạch
được vận chuyển trực tiếp mà không
qua thương lái về kho của doanh
nghiệp để dự trữ, phơi sấy, chế biến
và bảo quản. Việc làm này giúp giảm
thiểu thất thoát sau thu hoạch và hạn
chế kiểu say xát gạo thiếu tổ chức và
bát nháo hiện nay của thương lái.
Trong trường hợp mất mùa, mất giá,
doanh nghiệp hỗ trợ nông dân hình
Doanh nghiệp
Nhà nước
Nhà khoa học
Nông dân
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017
39
thức tiêu thụ và canh tác. Như vậy,
doanh nghiệp đảm bảo nguồn cung
lúa cho hoạt động thương mại của
mình và đảm bảo được chất lượng
sản phẩm.
5.2.1. Liên kết giữa doanh nghiệp
và nhà khoa học
Hiện nay, doanh nghiệp xuất khẩu
lúa gạo phải chờ vào những kết quả
từ những chỉ đạo nghiên cứu từ phía
Nhà nước đến các nhà khoa học và
các nhà nghiên cứu. Trên bình diện
chung, lợi nhuận là đích đến cuối
cùng của người kinh doanh. Lợi
nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng theo
số lượng và chất lượng lúa gạo mà
người nông dân sản xuất. Tại sao
doanh nghiệp phải bị động chờ sự can
thiệp của Nhà nước trong khi họ có
thể làm việc trực tiếp với các viện
nghiên cứu/các nhà khoa học về lúa
gạo nhằm nghiên cứu các đề tài phục
vụ quá trình canh tác và chế biến?
5.2.2. Liên kết giữa doanh nghiệp
và Nhà nước
Doanh nghiệp phối hợp với Nhà
nước, cụ thể là với Bộ Công Thương
và VFA, để giám sát việc ký kết hợp
đồng giữa doanh nghiệp và hộ nông
dân, kiểm tra và giám sát quá trình
cung cấp sản phẩm và thu mua khi
thu hoạch để đảm bảo việc thực hiện
hợp đồng giữa các bên tham gia.
Doanh nghiệp phối hợp chặt với VFA
để có thể nắm bắt nhanh chóng các
chính sách, chủ trương của Nhà nước
và phản ánh kịp thời khó khăn của
doanh nghiệp, nông dân khi bị mất
mùa, mất giá nhằm tìm sự hỗ trợ về
vốn và giá cho doanh nghiệp, cho
nông dân.
6. KẾT LUẬN
Việt Nam có lợi thế sản xuất và
xuất khẩu gạo rất lớn. Hằng năm,
xuất khẩu gạo đóng góp đáng kể
trong kim ngạch xuất khẩu của nước
nhà. Gạo Việt Nam đã có mặt trên
khoảng 140 quốc gia trên thế giới, đã
đáp ứng được các thị trường khó tính
như Hoa Kỳ, EU Trong bối cảnh
hội nhập mới, gạo Việt Nam chịu sự
cạnh tranh gay gắt từ nhiều đối thủ
nặng ký như Thái Lan, Ấn Độ,
Pakistan. Để duy trì và phát triển thế
mạnh xuất khẩu gạo, Việt Nam cần
thiết phải cải tiến giống lúa, phương
pháp trồng và tìm kiếm những thị
trường tiềm năng. Một trong những
thị trường tiềm năng lớn là các quốc
gia khu vực Trung Đông. Đây là khu
vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế và
tăng dân số thuộc loại cao nhất thế
giới hiện nay, nhưng điều kiện tự
nhiên của vùng này không cho phép
sản xuất nông nghiệp dồi dào, điển
hình là mặt hàng gạo. Tổng hợp các
yếu tố khách quan và chủ quan, Việt
Nam nên tập trung chiến lược để
thâm nhập và có chỗ đứng trong việc
xuất khẩu gạo vào thị trường này.
Thực tế cho thấy đã có sự chuyển
biến tích cực của việc xuất khẩu gạo
Việt Nam vào khu vực này trong thời
gian qua. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
thiếu sót dẫn đến hiệu quả chưa cao.
Thực hiện tốt liên kết giữa Nhà nước,
nhà khoa học, doanh nghiệp và người
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017
40
nông dân sẽ phần nào khắc phục
những hạn chế đang tồn tại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Lan, 2011. Gạo đồ, có cơ
hội để đầu tư. Truy cập: http://
agro.gov.vn/news/tID20695_Gao-do-
co-co-hoi-de-dau-tu.html. Ngày
15/08/2011.
2. Kandari, D.AL, Jukes, D.J., 2009.
A situation analysis of the food
control systems in Arab Gulf
Cooperation Council (GCC)
countries’, Department of Food
Biosciences,<https://doi.org/10.1016/
j.foodcont.2009.02.012>.
3. Lê Xuân Thám, 2015. Nhân giống
thành công giống lúa thơm Basmati.
Truy cập:
hoc/sinh-hoc/7186_nhan-giong-
thanh-cong-giong-lua-thom-
basmati.aspx. Ngày 24/07/2015
4. Michael E. Porter, 2004.
Comparative Advantage: Creating
and Sustaining Superior
Performance. The Free Press, New
York, page 577 – 580.
5. Nielsenm C. P., 2003. Vietnam’s
rice policy: Recent Reforms and
Future Opportunities, Asian
Economic Journal 17, p1-26.
6. Phương Hương, 2015. Thanh niên
khu vực Trung Đông và Bắc Phi: cơ
hội hay thách thức về nhân khẩu học?
7. Q. Y. Shu (ed.), 2009. Induced
Plant Mutations in the Genomics Era.
Food and Agriculture Organization of
the United Nations, Rome, p341-345.
8. Siddiq, E.A., Vemireddy, L.R.,
Nagaraju, 2012. Basmati Rices:
Genetics, Breeding and Trade, J.
Agric Res, issue 1, pp 25-36.
9. Suddin Lada, 2009. Predicting
intention to choose halal products
using theory of reasoned
action. International Journal of
Islamic and Middle Eastern Finance
and Management, Vol. 2 Issue: 1,
pp.66-76, https://doi.org/10.1108/
17538390910946276.
10. Waffa Sbeiti, 2010. The
Determinants of Capital Structure:
Evidence from the GCC Countries,
International Research Journal of
Finance and Economics, Issue 47,
p55 – 75.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017
41
EXPORTING VIETNAMESE RICE TO MIDDLE EAST MARKET
Vo Khac Thuong
Faculty of Accounting - Finance - Banking, Tay Do University
(Email: thuongftuedu@yahoo.com.vn)
ABSTRACT
Exporting rice is one of the strengths of Vietnam. It contributes significantly for
Vietnamese economy. Since applying the new opening policy, Vietnamese’s rice has
been present in many countries in the world, even in strict countries like European and
American markets. In recent years, Vietnamese exporting rice has faced many difficulties
and challenges. These are due to fierce competition from many reputed brands as well as
strict regulation on importing standard and quality of product. Middle East, which
includes 15 countries, is known as wealthy and high standard living countries. In
addition, this area importing more than 50% of its supply as its natural condition is not
suitable for rice cultivation. Requirement high quality of importing goods is quite
strictly. Taxes are implemented to select the right quality of importing goods like safety
foods, less disavantage effect to the environment, cleared certificate of origin and high
technical standards. In order to match Middle East’s required standards of importing
rice, Vietnamese entrepreneurs, scientists and rice farmers need to set up the
collaboration system to create value chain in producing rice.
Keywords: Middle East market, value chain, exporting rice, Vietnam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xuat_khau_gao_cua_viet_nam_sang_thi_truong_trung_dong.pdf