Chuyên đề Giải pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với các DNVVN tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì, Hà Nội

Trong quá trình phát triển kinh tế từ một nước nông nghiệp sản xuất hàng hóa nhỏ đang phấn đấu xây dựng một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì phát triển các DNVVN ở nước ta là hướng đi phù hợp nhất. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập quốc tế đang đặt các DNVVN trước những thách thức mới, cần có sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng, Chính phủ cũng như hệ thống NHTM, trong đó có NHNo & PTNT huyện Thanh Trì. Thông qua số liệu thực tế của NHTT trong việc cấp TD đối với các DNVVN trên địa bàn ta thấy rõ là NHTT và các DNVVN chưa tìm được những biện pháp chung nhằm phát triển mối quan hệ hợp tác cùng nhau có lợi này. Với mong muốn đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn huy động cũng như tạo điều kiện để các DNVVN có đủ vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, khoá luận đã tập trung vào một số nội dung cơ bản: Hệ thống hoá và bổ sung những lý luận cơ bản về các DNVVN, về hoạt động TD của ngân hàng qua đó thấy được vai trò to lớn của TD ngân hàng trong việc bổ sung nguồn vốn cho các DNVVN, phân tích những nhân tố có khả năng ảnh hưởng đến quy mô TD của ngân hàng, đồng thời nêu lên một kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc hỗ trợ tài chính cho các DNVVN thông qua hệ thống NHTM, từ đó rút ra những bài học bổ ích cho Việt Nam. Từ cơ sở lý luận đó, ở chương 2 khoá luận đã đi sâu vào nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt động TD của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì đối với các DNVVN trên địa bàn mà chủ yếu dựa vào thực trạng của các doanh nghiệp đó. Qua đó, đánh giá được những kết quả đạt được đối với cả DNVVN và NHTT, rút một số mặt còn tồn tại và tìm ra nguyên nhân của tồn tại đó. Thông qua việc phân tích thực trạng TD đối với các DNVVN cũng như chủ trương, phương hướng đầu tư TD cho các DNVVN ở NHNo & PTNT huyện Thanh Trì, khoá luận đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ TD đối với các DNVVN, đảm bảo lợi ích chung của cả hai bên, chương 3 cũng nêu lên một số kiến nghị với Chính phủ, với Ngân hàng Nhà nước, NHNo & PTNT Việt Nam và các DNVVN. Để có thể nâng cao hơn nữa khả năng mở rộng TD đối với các DNVVN thì cần tất cả các bên liên quan có sự quan tâm nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận vốn TD của ngân hàng hơn nữa, nếu thực hiện được điều này thì nguồn vốn của xã hội sẽ được sử dụng một cách tối đa. Đây là một đề tài phức tạp nên những ý kiến đề xuất trong khoá luận chỉ là những đóng góp nhỏ trong tổng thể các biện pháp nhằm mở rộng TD đối với các DNVVN. Tuy vậy nó vẫn phát huy hiệu quả khi có sự kết hợp đồng bộ giữa các Bộ, các ngành có liên quan trong quá trình thực hiện. Mặc dù với sự nỗ lực, cố gắng của bản thân nhưng do lĩnh vực nghiên cứu của đề tài là một vấn đề rất rộng và tương đối phức tạp, do còn hạn chế về mặt thời gian và kiến thức lý luận cũng như thực tiễn nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp, cơ quan thực tập và những bạn đọc quan tâm để khoá luận được hoàn thiện hơn. Trong quá trình hình thành khoá luận em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của Nhà giáo, Tiến sĩ Tô Ngọc Hưng và toàn thể các thầy cô giáo trong khoa cùng các cô chú, anh chị trong phòng kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì. Em xin bày tỏ òng biết ơn chân thành đối với sự giúp đỡ quý báu đó.

doc102 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1091 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với các DNVVN tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì, Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như đảm bảo cho các doanh nghiệp có chi phí đầu vào thấp nhất để kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có lãi và có đủ nguồn để trả nợ ngân hàng. - Tiếp tục xử lý các món nợ quá hạn để thu hồi vốn, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của huyện uỷ, uỷ ban nhân dân, hội đồng nhân dân từ huyện đến các xã, các ngành nội chính đặc biệt những nơi các DNVVN đóng địa bàn hoạt động để công tác kinh doanh, giải quyết tài sản thế chấp, thu hồi nợ quá hạn, nợ khó đòi đạt kết quả tốt. Trong quá trình thực hiện món vay mới không phát sinh nợ quá hạn, đảm bảo chất lượng TD và phát triển dư nợ lành mạnh. - Cuối cùng, bên cạnh việc nâng cao chất lượng TD, các hoạt động nghiệp vụ khác của ngân hàng cũng không ngừng được hoàn thiện theo sự chỉ đạo của Thống đốc ngân hàng nhà nước nhằm nâng cao chất lượng kinh doanh, an toàn tài sản đúng pháp luật. Với định hướng kinh doanh trong đó tập trung vào đối tượng khách hàng là các DNVVN, NHNoTT đã, đang và sẽ mở ra một hướng đi phù hợp với tình hình phát triển chung của huyện Thanh Trì, hoạt động TD kết hợp cùng các hoạt động khác sẽ tạo ra doanh thu và lợi nhuận tối đa cho cả các DNVVN cũng như NHNoTT , góp phần quan trọng vào sự thành công của hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam. 3.2 Giải pháp nhằm mở rộng TD đối với các DNVVN tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì. 3.2.1.Xây dựng một chiến lược kinh doanh hoàn hảo cho ngân hàng. Lựa chọn một hướng đi đúng phù hợp với khả năng và thực tiễn sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tương lai. Để mỗi bước đi là mỗi bước thành công, việc lập ra một chiến lược kinh doanh của ngân hàng ngay từ đầu là hết sức cần thiết. Đó là sự thể hiện các mục tiêu dài hạn cơ bản của một ngân hàng, sự lựa chọn đường lối hoạt động và phân bổ các nguồn lực hợp lý để đạt được mục tiêu này. Chiến lược kinh doanh có ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là chất lượng cũng như quy mô TD. Nếu xây dựng một chiến lược không phù hợp với thực lực của ngân hàng và nhu cầu thị trường thì các bước đi của ngân hàng dễ dẫn đến sai lầm do đó sẽ tác động xấu đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Còn nếu không có chiến lược kinh doanh thì ngân hàng đó không thể lường trước được những biến động có thể xảy ra, nên không chủ động đưa ra các biện pháp để khắc phục. Trong những năm qua, NHNoTT luôn xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn và thường xuyên lập kế hoạch cho từng năm, nên ngân hàng đã chủ động trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động TD nói riêng. Tuy nhiên, thành tích trong hoạt động TD của NHNoTT, đặc biệt đối với khối DNVVN chưa thực sự đánh giá hết tiềm năng của nó, hơn nữa trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, hoạt động TD trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ hết sức sôi động, mỗi ngân hàng càng cần có một chiến lược kinh doanh phù hợp với thực tế thị trường và khả năng của ngân hàng. Bên cạnh những mặt được trong chiến lược kinh doanh mà NHNoTT đã thực hiện như công tác huy động vốn hay bảo đảm chất lượng TD, thì NHNoTT cần tiếp tục mở rộng quan hệ với đối tượng khách hàng là các DNVVN trên địa bàn, đẩy mạnh tốc độ tăng dư nợ, đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ, đưa ra bài toán lãi suất phù hợp, mọi quy trình, thủ tục giao dịch với khách hàng cần cải tiến, gọn nhẹ, đơn giản mà vẫn chính xác, phù hợp với luật pháp đồng thời nâng cao trình độ của cán bộ nhân viên sao cho tối đa hoá hiệu quả hoạt động của ngân hàng. 3.2.2. Thực hiện tốt công tác huy động vốn, đảm bảo đủ nguồn đáp ứng nhu cầu vốn vay của các DNVVN. Với mục đích hoạt động chính là “đi vay để cho vay” nhưng ngân hàng muốn có đủ nguồn cho vay thì hoạt động đi vay cần phải triển khai tốt. Trong thời gian qua, NHNoTT luôn trong tình trạng thừa vốn, nguồn vốn huy động chưa được sử dụng hiệu quả, tuy nhiên mức dư nợ của ngân hàng cũng chưa đạt ở mức tối đa, nhu cầu vay của khách hàng vẫn chưa được đáp ứng một cách đầy đủ. Tương lai khi chủ trương mở rộng TD đối với mọi thành phần kinh tế trong đó nhấn mạnh vào khối DNVVN được thực hiện thì dư nợ khối này sẽ tăng lên vì vậy có đủ nguồn vốn nhằm thực hiện chủ trương này là hết sức cần thiết. Quán triệt được nhiệm vụ đó, toàn bộ nhân viên của NHNoTT, đặc biệt là phòng kế toán, kiểm toán, những cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng cần có kế hoạch cụ thể nhằm tạo lòng tin và hình ảnh tốt về ngân hàng trong lòng khách hàng. Nếu ngân hàng thực sự có được tín nhiệm với khách hàng thì công tác huy động vốn sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn. Thành lập thêm một số chi nhánh nhằm đi sâu, đi sát vào dân hơn, khi có những thay đổi về địa bàn của huyện Thanh Trì cần nhanh chóng nắm bắt thị trường, đảm bảo cho việc gửi tiền của khách hàng được thuận lợi, an toàn và nhanh chóng. Một chính sách lãi suất hợp lý sẽ thu hút lượng khách hàng gửi tiền vào nhiều hơn, mức lãi suất phải vừa bảo đảm quyền lợi của ngân hàng vừa bảo đảm lợi ích của khách hàng và quan trọng hơn cả là luôn đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả khi có phát sinh. Thủ tục gửi tiền hay nghiệp vụ huy động vốn cần được cải tiến sao cho gọn nhẹ, nhanh chóng để thời gian giao dịch là ngắn nhất, trong thời gian khách hàng chờ đợi nên có các dịch vụ giải trí như sách, báo, tivi…, tránh cho khách hàng chờ quá lâu dễ gây ấn tượng không tốt về chất lượng nghiệp vụ, tuy nhiên cần đảm bảo tính chính xác hay tính pháp lý của các giấy tờ liên quan đến nghiệp vụ này, tránh sai sót đáng tiếc xảy ra làm mất lòng tin của khách hàng. Mở rộng nhiều hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm với nhiều thời hạn khác nhau, nhiều mức lãi suất khác nhau, đa dạng hoá các loại tiền gửi và phương thức gửi sao cho khách hàng có thể chọn lựa cho mình một cách thức và hình thức gửi phù hợp nhất, tiếp tục mở rộng huy động tiền gửi bằng ngoại tệ, thu nhận mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ cho các tổ chức trong nước, các công ty liên doanh, cá nhân người nước ngoài… nhằm đáp ứng nhu cầu vay bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế có tiền gửi thường xuyên, ổn định với một lượng lớn cần có chính sách ưu đãi nhất định nhằm tạo lập mối quan hệ lâu dài. Cải tiến máy móc, trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, thông qua đó, khách hàng cảm thấy yên tâm hơn khi tiền được gửi ở một nơi như vậy, thiết lập phần mềm vừa dễ sử dụng, vừa đảm bảo thực hiện đầy đủ các khâu trong nghiệp vụ huy động, cải tiến hệ thống thanh toán, nâng cao chất lượng công tác thanh toán sao cho công tác thanh toán qua ngân hàng hoàn thành đúng chức năng của nó, nhanh, an toàn, thuận lợi. Đổi mới phong cách và thái độ phục vụ khách hàng, thực hiện theo cơ chế thị trường “khách hàng là thượng đế”, được phục vụ tận tình, chu đáo cộng với chất lượng dịch vụ tốt, khách hàng sẽ cảm thấy hài lòng và muốn giao dịch tiếp, vì vậy hiện nay ở tất cả các ngân hàng, nhân viên đều nhận thức và thực hiện tốt điều đó. 3.2.3. Đa dạng hoá các hình thức TD cho các DNVVN. Có đủ vốn cho vay nhưng làm thế nào để tiền tiếp tục đi vào lưu thông? Một trong những biện pháp nhằm thực hiện được điều đó là NHNoTT phải có hình thức cho vay đa dạng và phong phú, có như vậy ngân hàng sẽ giảm thiểu rủi ro TD, tạo uy tín và thu hút được nhiều khách hàng và thông qua đó các DNVVN có thể lựa chọn cho mình một hình thức phù hợp, từ đó có cơ sở vững chắc để mở rộng TD. Lợi nhuận cuối cùng của NHNoTT chủ yếu dựa vào hoạt động TD mà dư nợ trong TD lại nằm ở các DNVVN là chính vì vậy trong nghiệp vụ kinh doanh này NHNoTT thực hiện theo nguyên tắc không phân biệt thành phần kinh tế, không phân biệt quy mô doanh nghiệp mà cần đảm bảo sự bình đẳng thực sự giữa các khách hàng trên cơ sở pháp luật, hiệu quả kinh doanh của khách hàng chứ không căn cứ vào hình thức sở hữu, lấy hiệu quả sử dụng vốn làm mục tiêu cuối cùng, góp phần tạo động lực phát triển kinh tế đất nước. Với dư nợ trung dài hạn chiếm tỷ trọng quá thấp trong tổng dư nợ khối DNVVN, NHNoTT cần tiếp tục đổi mới cơ cấu đầu tư, nâng tỷ trọng cho vay trung, dài hạn đối với các DNVVN để họ đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thật sự là kênh tài trợ vốn đầu tư cho nền kinh tế, đặc biệt với những tiêu chuẩn đăng ký niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán chưa là nơi tạo cơ hội cho các DNVVN thu hút những nguồn vốn trung dài hạn. Vì vậy, kênh ngân hàng vẫn là kênh quan trọng bổ trợ cho các DNVVN, đây là một thị trường TD mà các ngân hàng cần quan tâm khai thác. Để thực hiện điều này, một mặt các ngân hàng cần có những kế hoạch lâu dài về huy động những nguồn vốn trung và dài hạn, mặt khác, cần xây dựng cơ chế TD mang nét đặc thù phù hợp với đặc điểm của các DNVVN trên nguyên tắc vừa bảo đảm an toàn vốn cho ngân hàng vừa đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho doanh nghiệp. Bên cạnh những hình thức tài trợ TD mà NHNoTT đã thực hiện như cho vay bảo lãnh, cho vay theo dự án, cho vay thuê mua thì ngân hàng cần đa dạng những phương thức tài trợ cho DNVVN, những hình thức cung ứng TD mà NHNoTT nên phát triển trong thời gian tới là cung ứng TD thông qua cho vay chiết khấu, cho vay cầm cố và bảo lãnh thương phiếu hoặc góp phần liên doanh, liên kết. Tốc độ phát triển kinh tế hiện nay cho thấy sự tin tưởng trong quan hệ kinh doanh ngày càng được đề cao, chữ tín luôn được coi trọng vì vậy TD thương mại cũng được mở rộng ra và thương phiếu đã xuất hiện khi phát sinh quan hệ này. Đó là các giấy tờ có giá ngắn hạn, chưa đến thời hạn thanh toán được đem chiết khấu hay cầm cố tại ngân hàng khi doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu đột xuất, thực hiện nghiệp vụ này tức là ngân hàng chấp nhận cho các doanh nghiệp vay với số tiền thấp hơn giá trị thương phiếu và ngân hàng sẽ hưởng lãi từ khoản chênh lệch này. Hiện nay NHNoTT chỉ áp dụng cho vay cầm cố giấy tờ có giá là sổ tiết kiệm hay kỳ phiếu ngân hàng phát hành mà chưa có chiết khấu thương phiếu vì vậy trong thời gian tới NHNoTT nên áp dụng hình thức TD này nhằm thu hút thêm nhiều doanh nghiệp giao dịch TD với ngân hàng. Bên cạnh đó, hình thức góp phần liên doanh, liên kết cũng rất hiệu quả, đã được thực hiện ở nhiều nước phát triển trên thế giới. Thông qua hình thức này, ngân hàng sẽ mở rộng được TD, đa dạng hoá đầu tư đồng thời có thể giám sát món vay và tạo ra được cơ hội thu lợi nhuận cao hơn vì khi nắm giữ cổ phần thì cổ tức thu được thông thường cao hơn lãi suất cho vay. Cùng với đa dạng hoá các hình thức TD, NHNoTT cần phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ đến với các DNVVN. Điều này vừa tạo tiện ích cho khách hàng khi quan hệ với ngân hàng, giúp ngân hàng thu hút khách hàng cũng như tạo mối dây liên hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp qua những tài khoản ký thác và cho phép hình thành những đảm bảo tài chính an toàn cho ngân hàng. 3.2.4. Xây dựng chính sách lãi suất linh hoạt cho các DNVVN. Hoạt động TD được thực hiện trên cơ sở đảm bảo ba mặt lợi ích: lợi ích Nhà nước, lợi ích ngân hàng và lợi ích khách hàng dưới hình thức thuận mua vừa bán thông qua giá cả cho vay hay lãi suất cho vay. Vậy để hấp dẫn khách hàng là các DNVVN, mức lãi suất cho vay phải linh hoạt, tuỳ vào từng thời kỳ hay từng đối tượng mà chính sách lãi suất cũng có những ưu tiên khác nhau. Đối với các DNVVN, lãi suất càng được quan tâm hơn do vốn đầu tư của họ thường không lớn, nếu chi phí đầu vào quá cao, lợi nhuận họ thu được không bù đắp đủ chi phí sẽ dẫn đến tình trạng không trả được nợ, xuất hiện nợ quá hạn, nợ xấu làm cho chất lượng TD giảm sút sẽ là nguyên nhân của việc hạn chế mở rộng TD, vì vậy ngân hàng cần theo kịp những thông tin thị trường về cung cầu vốn nhằm xây dựng bài toán lãi suất hợp lý bảo đảm lợi nhuận của ngân hàng nhưng cũng không loại trừ lợi ích của khách hàng và được thị trường chấp nhận. Tuỳ vào từng tiêu chuẩn của các DNVVN mà ngân hàng đưa ra mức lãi suất ưu đãi khác nhau. Với những doanh nghiệp có quan hệ lâu năm với ngân hàng, vay trả sòng phẳng, có tín nhiệm thì ngân hàng có thể cho vay với lãi suất ưu đãi hơn, hoặc thời hạn trả nợ không hạn chế, có thể phụ thuộc vào thời gian thu hồi vốn…. Những ưu tiên này sẽ thúc đẩy các DNVVN sử dụng vốn có hiệu quả, đảm bảo chất lượng trong quan hệ TD để mối quan hệ này tiếp tục được mở rộng. Với những doanh nghiệp mới vay vốn lần đầu, nếu dự án là khả thi thì ngân hàng có thể có tạo điều kiện để việc giải ngân được nhanh chóng với những ưu đãi về lãi suất nhỏ hơn và vốn vay lớn hơn các món vay thông thường. DNVVN hoạt động trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và mỗi ngành lại có những thế mạnh cũng như hạn chế riêng nên nhu cầu hay quan niệm của họ về vốn và chi phí vốn cũng khác nhau vì vậy khi ngân hàng mở rộng quan hệ TD với các lĩnh vực mới thì nên tìm hiểu kỹ để có những nhận định, đánh giá chính xác nhằm xây dựng một biểu lãi suất cho vay phù hợp với từng đối tượng ngành nghề, có như vậy chủ trương mở rộng TD của ngân hàng mới có thể thành công. Không chỉ có ưu đãi về lãi suất vay vốn mà ngân hàng nên tăng thêm các dịch vụ không thu phí cho các DNVVN như: chuyển tiền, thanh toán bù trừ… tạo tâm lý khách hàng luôn được hưởng thiện chí của ngân hàng, từ đó khuyến khích các DNVVN đặt quan hệ với ngân hàng. 3.2.5. Đảm bảo đúng quy trình TD, đặc biệt nâng cao chất lượng trong công tác thẩm định dự án. Mục đích của TD là đầu tư bổ sung vốn cho khách hàng phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh, nhưng để chủ trương mở rộng TD của NHNoTT đối với các DNVVN được thành công thì một trong những vấn đề cần quan tâm là hoạt động TD phải tuân theo đúng quy trình, không bỏ qua, không làm tắt đặc biệt chú trọng vào công tác thẩm định dự án nhằm có được những quyết định đúng đắn nhất về khách hàng cũng như dự án đầu tư. Việc thẩm định TD tập trung chủ yếu vào các vấn đề như: phương án, dự án vay vốn phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện, nguyên tắc TD theo quy định cụ thể đối với từng loại TD đó, đảm bảo chắc chắn rằng sau khi phát tiền vay ngân hàng sẽ thu hồi được nợ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn mà ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận trong hợp đồng TD; hồ sơ, thủ tục vay vốn của khách hàng phải đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp theo chế độ quy định, nếu xảy ra tranh chấp tố tụng thì nó đảm bảo an toàn về pháp lý cho ngân hàng. Những tồn tại nhất định trong công tác thẩm định chủ yếu do trình độ, năng lực chuyên môn của cán bộ TD chưa cao, vì vậy trong thẩm định, cán bộ TD cần tập trung một số vấn đề sau: - Năng lực pháp lý và năng lực tài chính của doanh nghiệp: là các quyết định thành lập đăng ký kinh doanh, quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng…;là khả năng độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán, khả năng hoàn trả nợ vốn vay… - Đánh giá về uy tín, tư cách của doanh nghiệp nhằm mục tiêu hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro do chủ quan của doanh nghiệp gây ra để có thể phát hiện ra âm mưu lừa đảo ngay từ ban đầu của một số khách hàng. Muốn xem xét uy tín của doanh nghiệp, cán bộ ngân hàng có thể tìm hiểu thông qua giá cả, chất lượng sản phẩm, thị phần của doanh nghiệp, quan hệ thanh toán với bạn hàng… - Thẩm định về phương diện thị trường nhằm phân tích khả năng tiêu thụ sản phẩm về mặt giá cả, quy cách phẩm chất, mẫu mã thị hiếu của người tiêu dùng, xem xét các hợp đồng về số lượng sản phẩm, chủng loại, giá cả thời hạn và phương thức thanh toán…Doanh nghiệp không nên cung cấp hàng hoá cho một thị trường hoặc một nhà tiêu thụ duy nhất mà cần mở rộng thị trường tiêu thụ để chủ động trong việc bán hàng, tránh sự ứ đọng về hàng hoá. - Đặc biệt khâu thẩm định dự án có ý nghĩa quyết định đến việc cấp TD vì hiện nay các ngân hàng chủ yếu dựa vào tính khả thi, hiệu quả của các dự án đầu tư để ra quyết định cho vay. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định tính khả thi của dự án về nội dung kinh tế tài chính thông qua các chỉ tiêu như: lợi nhuận ròng, tỷ suất lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn, điểm hoà vốn hoặc dựa vào các chỉ tiêu như lãi kép, giá trị hiện tại thuần, tỷ suất hoàn vốn nội bộ…Thẩm định về phương diện kỹ thuật nhằm đánh giá quy mô của dự án có phù hợp với năng lực tiêu thức sản phẩm của doanh nghiệp không, thẩm định về mặt số lượng, công suất quy cách, chủng loại, danh mục của thiết bị, dây chuyền sản xuất và năng lực hiện có của doanh nghiệp so với quy mô dự án. Thẩm định địa điểm xây dựng dự án theo các yêu cầu: có gần nơi cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu hoặc nơi tiêu thụ chính hay tiện lợi về giao thông vận tải hay không. Ngoài những nội dung trên, khi thẩm định còn có các yếu tố như môi trường xã hội, thẩm định về phương diện tổ chức quản lý thực hiện và vận hành dự án… Trong quá trình thẩm định dự án hoặc phương án vay vốn của doanh nghiệp, nếu có vấn đề nào đó mà cán bộ ngân hàng chưa có đủ điều kiện hoặc trình độ để thẩm định thì cần phải phối hợp với các cơ quan chức năng có thẩm quyền giúp đỡ để thẩm định đạt được chất lượng cao như: thẩm định về phương diện kỹ thuật, thị trường của những dự án trung, dài hạn. Để công tác thẩm định được đầy đủ, chính xác, NHNoTT cần thu thập thông tin từ nhiều phía, trên nhiều phương diện, ngoài những thông tin do doanh nghiệp cung cấp, ngân hàng cần phải thu thập thông tin từ bên ngoài như thông tin về chiến lược phát triển quy hoạch vùng, lãnh thổ, thông tin thị trường, bạn hàng…hoặc thông tin từ những cơ quan có liên quan với các DNVVN, thông qua đó, cán bộ TD phân tích, xử lý thông tin để có thể đưa ra quyết định đúng đắn nhất trong công tác TD. Cuối cùng, tư tưởng của tất cả cán bộ TD phải được quán triệt rằng chỉ một sự coi nhẹ trong việc thực hiện quy trình TD, thẩm định dự án không đúng nguyên tắc sẽ gây thiệt hại cho bản thân ngân hàng, cho chính các doanh nghiệp và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chính quyền lợi của bản thân cán bộ TD. 3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả là cơ sở để mở rộng TD. Nếu ngân hàng chỉ quan tâm làm sao để mở rộng TD mà không quan tâm đến chất lượng hoạt động của nó như thế nào thì trước sau quy mô TD cũng bị hạn chế, vì nếu chất lượng TD không tốt thì việc mở rộng cũng không cần thiết, điều đó sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh cũng như uy tín của ngân hàng do đó để cơ sở mở rộng TD được vững chắc thì một trong những biện pháp là nâng cao hoạt động kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng ở mức tương xứng với quy mô TD. Việc kiểm tra, kiểm soát ở đây không chỉ đơn thuần là kiểm tra, giám sát khách hàng trong quá trình vay vốn và sử dụng vốn vay mà quan trọng hơn cả là kiểm tra, giám sát việc làm của các cán bộ, đặc biệt là các cán bộ TD, quá trình này nhằm giúp cho họ tuân thủ theo đúng quy trình, nghiệp vụ để đảm bảo an toàn, đạt hiệu quả cao trong kinh doanh và tuân thủ đúng pháp luật. Ngoài ra, công tác kiểm tra, kiểm soát còn cung cấp thông tin cho công tác quản lý để ban lãnh đạo có những biện pháp xử lý kịp thời khi phát hiện sai sót nhằm nâng cao chất lượng TD. Để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát thì khi tiến hành kiểm tra phải tuân thủ theo đúng trình tự nghiệp vụ. Cụ thể: - Kiểm tra trước khi phát tiền vay là kiểm tra các qui trình nghiệp vụ, việc thẩm định khách hàng đã tuần tự và đúng nguyên tắc chưa, xem xét các thủ tục giấy tờ đã đầy đủ hay chính xác chưa, điểm nào còn bất hợp lý, còn sai sót nhằm ngăn chặn ngay những thiệt hại có thể phát sinh sau này. - Kiểm tra trong khi cho vay, đó là giai đoạn tiền vay đã được giải ngân, các kiểm tra viên sẽ giám sát việc sử dụng vốn vay, xem xem việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay không, đây là quá trình cần sát sao nhất trong một món vay vì tình hình sử dụng vốn vay của doanh nghiệp sẽ quyết định đến thời hạn và khả năng trả nợ của ngân hàng. Cũng trong quá trình này, doanh nghiệp mới bộc lộ nhiều khuyết điểm nhất, ngân hàng cần kiểm tra tính chính xác những thông tin mà doanh nghiệp cung cấp, nếu phát hiện có những vi phạm hay tin tức sai sự thật thì ngân hàng phải thực hiện xử lý theo quyền và nghĩa vụ của mình theo quyết định của pháp luật nhằm đảm bảo vốn vay được sử dụng có hiệu quả. Thực hiện được điều đó ngân hàng sẽ phát hiện kịp thời khả năng rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp đối phó thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro TD. - Sau khi cho vay, công tác kiểm tra cũng cần thực hiện một cách nghiêm túc nhằm đánh giá những kết quả đã đạt được cũng như những tồn tại cần hạn chế. Đồng thời, ngân hàng cần định kỳ đánh giá thực trạng dư nợ, rà soát các món vay để kịp thời phát hiện các khoản vay có vấn đề, chủ động đề ra các biện pháp ngăn chặn, xử lý thích hợp. Tập trung thu nợ các doanh nghiệp có biểu hiện sa sút về năng lực sản xuất và năng lực quản lý. Việc kiểm tra này sẽ phòng ngừa được tình trạng doanh nghiệp vay vốn ngân hàng này để trả nợ ngân hàng khác vì hiện nay một doanh nghiệp không chỉ có quan hệ TD với một ngân hàng đồng thời rút kinh nghiệm cho những khoản vay sau. Bên cạnh đó, ngân hàng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát nội bộ ngân hàng nhằm thanh lọc những cán bộ TD mất phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản và làm mất uy tín của ngân hàng. Như vậy, tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát sẽ đảm bảo sự an toàn về vốn và tài sản cho ngân hàng, góp phần làm tăng chất lượng TD cũng như khả năng mở rộng TD, là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của NHNoTT . Vì vậy, các thành viên trong NHNoTT cần phải nhận thức đầy đủ và quan tâm đến công tác này thì hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ được nâng cao. 3.2.7. Thực hiện tốt các tài sản đảm bảo. Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bảo toàn và phát triển vốn luôn là nhiệm vụ cơ bản, được đặt lên hàng đầu. Để bảo toàn vốn thì một biện pháp không thể thiếu trong hoạt động TD là việc bảo đảm tiền vay, đó là cơ sở pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu nợ thứ nhất. Có hai phương thức đảm bảo chính là đảm bảo đối nhân và đảm bảo đối vật, điều đó phụ thuộc vào quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Cho nên vấn đề đặt ra đối với ngân hàng là phải tìm ra những hình thức bảo đảm tốt nhất cho từng khách hàng ở mỗi loại TD nhất định, nghĩa là sử dụng các phương thức đảm bảo tiền vay vừa chặt chẽ, vừa linh hoạt, không chỉ thực hiện kỹ lưỡng và chính xác theo quy định pháp lý khi đặt ra bảo đảm mà trong đó cũng phải giám sát chi tiết các bảo đảm trong thời hạn TD. Muốn vậy trong quá trình lập hồ sơ và thẩm định yếu tố bảo đảm tiền vay cần thực hiện một cách chính xác, khách quan và trung thực nhằm giảm thiểu rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải. Đối với những bảo đảm bằng tài sản, cần có đầy đủ giấy tờ sở hữu hay hiện vật đảm bảo. Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp có quan hệ TD với nhiều ngân hàng vì vậy cũng không loại trừ khả năng một tài sản của họ lại dùng để đảm bảo ở nhiều nơi và họ dùng bản sao công chứng để làm thủ tục vay vốn, do đó ngân hàng cần kiểm tra tính chính xác của các giấy tờ này một cách cẩn trọng, thiết lập mối liên hệ thường xuyên với phòng công chứng nhà nước để có những thông tin chính xác về giấy tờ công chứng của các doanh nghiệp. Với những tài sản là động sản thì người vay phải giao nộp hiện vật hoặc hợp đồng thuê kho bảo đảm, có hợp đồng giữa hai bên về chế độ quản lý, bảo hiểm hàng hoá trong kho, đồng thời cán bộ TD cần giám sát chặt chẽ tài sản để nắm bắt được thực trạng tài sản đó, với bất động sản là phương tiện kinh doanh, ngân hàng cần kiểm tra, nắm giữ giấy tờ sở hữu đồng thời phải kiểm tra, giám sát thường xuyên tình hình sử dụng các tài sản trên để có biện pháp xử lý kịp thời khi xảy ra rủi ro đối với doanh nghiệp vay vốn. Không chỉ nắm giữ giấy tờ hay hiện vật của tài sản đảm bảo mà trước đó khi thẩm định giá trị của tài sản, ngân hàng cần đánh giá đúng mức, chuẩn xác, có tỷ lệ dự phòng giảm giá khi xác định mức độ cho vay và phải tuân thủ đúng theo chế độ quy định. Cán bộ TD cần nắm chắc được giá cả thị trường, tránh gây ra những tình trạng khi khách hàng không trả được nợ mới phát hiện giá trị thực thấp hơn giá trị đánh giá nhiều, điều đó sẽ gây thất thoát vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng không nên coi tài sản thế chấp là chỗ dựa cho số tiền vay, không nên tuyệt đối hoá vai trò của tài sản thế chấp cho dù tài sản thế chấp là cơ sở giúp ngân hàng có khả năng thu nợ vay khi khách hàng không có khả năng trả nợ. Bởi vì mục đích của ngân hàng cho vay là giúp khách hàng có vốn duy trì hoạt động sản xuất, hơn nữa không phải tài sản nào cũng dễ dàng bán được để thu nợ một cách kịp thời mà điều quan trọng để quyết định cho vay vẫn là uy tín, năng lực tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đối với các DNVVN, một khó khăn lớn nhất để họ có thể tiếp cận vốn TD ngân hàng là thiếu tài sản thế chấp trong khi uy tín của các doanh nghiệp này cũng không đủ điều kiện để vay vốn bằng tín chấp. Do đó, để mở rộng TD đối với khối TD này, cũng theo chủ trương của NHNo & PTNT Việt Nam thì tài sản đảm bảo chỉ là một phần quyết định đến hoạt động cho vay mà cái chính vẫn là tính khả thi của dự án đầu tư, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3.2.8. Thiết lập chiến lược Marketing, trong đó chú trọng vào chính sách khách hàng. Với tốc độ phát triển của cơ chế thị trường, khi mà cung luôn luôn lớn hơn cầu thì công tác Marketing đã trở nên rất quan trọng trong chiến lược của mỗi đơn vị kinh doanh. Vì vậy không chỉ có các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm mới quan tâm đến lĩnh vực này mà ngay cả ngành ngân hàng, một ngành kinh doanh đặc biệt, rất nhạy cảm với những biến động môi trường xung quanh cũng đang tập trung xây dựng một chiến lược Marketing hoàn hảo nhằm tối đa hoá được hiệu quả kinh doanh ngân hàng. Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức và quản lý của ngân hàng từ việc phát hiện ra nhu cầu của khách đến việc thoả mãn nhu cầu đó về nguồn vốn cũng như các dịch vụ ngân hàng khác thông qua các chính sách, các giải pháp cụ thể, linh hoạt thích ứng với môi trường, với thị trường để đạt được mục tiêu đã đề ra. Hiện nay, NHNoTT đã phải cạnh tranh rất găy gắt với các ngân hàng khác trên địa bàn để thu hút khách hàng nhưng kết quả vẫn chưa như mong đợi, số DNVVN có quan hệ TD với NHNoTT còn quá ít ỏi. Trước tình hình này, để cải thiện số lượng cũng như mức dư nợ theo đúng tiềm năng của các DNVVN thì NHNoTT cần quan tâm đến hoạt động Marketing mà chủ yếu tập trung vào chính sách khách hàng. Trên thực tế, NHNoTT chưa chú trọng vào hoạt động này, chưa có bộ phận chuyên trách làm Marketing, chưa đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo để cho các DNVVN hiểu hết cơ chế TD của NHNoTT, hiểu được những quyền lợi và trách nhiệm khi có quan hệ với ngân hàng. Vì vậy, để mở rộng TD đối với khối DNVVN, nhằm tối đa hoá nguồn vốn huy động, nhân viên NHNoTT, đặc biệt là cán bộ TD bên cạnh hoàn thành nghiệp vụ TD thông thường còn phải coi mình như một nhân viên Marketing thực thụ, trực tiếp tìm hiểu nhu cầu và đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất. Cũng chính vì cơ chế thị trường, vì cạnh tranh nên không ít các tổ chức TD tham gia cung cấp dịch vụ TD cho các DNVVN trên địa bàn huyện Thanh Trì nên NHNoTT cần đổi mới phương thức kinh doanh từ bị động sang chủ động vì hiện nay rất nhiều doanh nghiệp đã không tự tìm đến với ngân hàng vay vốn mà ngân hàng muốn mở rộng TD thì phải chủ động tìm kiếm, tiếp cận các khả năng cho vay, tìm hiểu thị trường, khai thác tối đa nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó phối hợp với ban lãnh đạo đưa ra những chiến thuật Marketing phù hợp với chiến lược kinh doanh tổng thể của ngân hàng. Để thực hiện điều này đòi hỏi các ngân hàng phải tiếp tục tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, có phẩm chất tốt, đặc biệt là có tâm huyết với nghề, sẵn sàng đi sâu đi sát cơ sở để tìm kiếm cơ hội đầu tư và đưa ra những quyết định nhanh, chính xác trong mỗi khoản vay để không bỏ lỡ bất kỳ một cơ hội đầu tư nào. Luôn chủ động về nguồn vốn để đầu tư cho các dự án có vị trí chiến lược, đáp ứng tối đa nhu cầu và mang lại hiệu quả cao nhất cho khách hàng. Với mục đích tiếp cận khách hàng ngày càng rộng hơn, ngân hàng cũng cần quan tâm cải tiến các hình thức đầu tư, các hình thức giải ngân, đối tượng vay vốn, triển khai việc giới thiệu các loại hình TD, các dịch vụ ngân hàng trên mạng kết hợp với cả việc giải đáp thắc mắc cho khách hàng về những vấn đề liên quan đến thể lệ TD…Ngoài ra, ngân hàng không chỉ cho vay chuyển thẳng cho nhà cung cấp mà có thể cho vay để bù đắp phần vốn mà doanh nghiệp đã huy động để đầu tư trung, dài hạn, hay ngân hàng không chỉ cho vay theo dự án mà có thể tham gia vào từng công đoạn của dự án. Ngân hàng cũng cần tổ chức tốt hơn việc xây dựng mạng lưới thông tin, xử lý thông tin từ phía khách hàng, nhất là những thông tin về tình hình tài chính, năng lực quản lý, quan hệ thanh toán, và những thông tin liên quan đến khoản TD nhằm nắm bắt được nhu cầu của khách hàng cũng như khả năng của ngân hàng, hiểu được thực chất họ cần gì. Đồng thời, ngân hàng có thể đánh giá được năng lực của đối thủ cạnh tranh, từ đó đưa ra những giải pháp tối ưu để có thể thắng lợi trong cạnh tranh…Để có được nguồn thông tin đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực của ngân hàng trong việc tiếp cận với khách hàng, với thị trường. Ngoài ra, cũng cần sự hỗ trợ từ một cơ sở hạ tầng tài chính- tiền tệ phát triển của nền kinh tế, đó là vấn đề kiện toàn hệ thống thông tin tài chính- tiền tệ trên mạng. Giải quyết được vấn đề nêu trên thật sự là một bước đột phá trong quá trình mở rộng tăng cường TD của NHNoTT đến với các doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực DNVVN. Bởi lẽ nó cho phép ngân hàng có niềm tin vào doanh nghiệp, hiểu đúng khách hàng của mình hơn và mạnh dạn khi đáp ứng nhu cầu vốn cho các DNVVN. Nghiên cứu xây dựng mục tiêu kế hoạch đầu tư trung, dài hạn theo chiến lược khách hàng. Tăng cường công tác tiếp thị, tìm hiểu các tổ chức kinh tế, cá nhân trên địa bàn để chủ động khai thác, nắm bắt kịp thời nhu cầu của họ. Thực hiện theo phương châm: “bám sát mục tiêu, thực hiện phù hợp, mềm dẻo, đa dạng, linh hoạt- hiệu quả”, không nên có thái độ vồ vập hay coi nhẹ mà luôn có thái độ đúng mực trong giao dịch với khách hàng. Không chỉ có tìm hiểu thị trường, nghiên cứu nhu cầu khách hàng mà ngân hàng còn thực hiện tốt vai trò tư vấn đầu tư đối với các DNVVN. Cho đến nay, hầu hết các DNVVN đều có hiểu biết ít về lĩnh vực đầu tư và việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh còn hạn chế vì vậy đầu tư vào các công trình chưa thu được hiệu quả như mong muốn, rủi ro còn nhiều. Nhằm giúp cho nguồn vốn được sử dụng một cách hiệu quả, NHNoTT nên có phòng hoặc tổ tư vấn đầu tư cho các doanh nghiệp, phòng hoặc tổ này sẽ tư vấn để soạn thảo dự án, tính toán hiệu quả kinh tế, lựa chọn phương án đầu tư, tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có như vậy doanh nghiệp càng thêm tin tưởng và ngày càng có nhiều doanh nghiệp mở rộng quan hệ TD với ngân hàng. Để tìm hiểu những phản ánh và mong muốn của các DNVVN, NHNoTT cũng nên tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị khách hàng. Những lần tổ chức này sẽ giúp hai bên trao đổi một cách cởi mở, thẳng thắn để hiểu nhau hơn, thông cảm với nhau hơn, đồng thời để hiểu những thiếu sót của mình, từ đó sẽ có những biện pháp giải quyết nhằm đưa hoạt động của cả ngân hàng và doanh nghiệp hiệu quả hơn. Cũng trong các buổi hội thảo, các DNVVN có cơ hội gặp gỡ nhau, trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh và nếu phù hợp thì các mối quan hệ mới, mối quan hệ bạn hàng sẽ xuất phát từ những lần gặp gỡ này. Có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức, cơ quan chức năng có liên quan với các DNVVN như hiệp hội hỗ trợ các DNVVN, quỹ bảo lãnh TD cho các DNVVN…nhằm tạo thêm nhiều cơ hội mở rộng khách hàng cũng như tạo cho các DNVVN dễ dàng tiếp cận được vốn TD ngân hàng, đồng thời giúp các DNVVN có quan hệ TD với NHNoTT phản ánh những kiến nghị, đề nghị của họ lên các cơ quan chính quyền Nhà nước để bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện phát triển cho các DNVVN. 3.2.9. Củng cố và nâng cao trình độ của cán bộ TD ngân hàng. Con người luôn là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và trong hoạt động cho vay nói riêng, yếu tố này cũng không nằm ngoài quy luật đó. Toàn bộ những quyết định cho vay, tiến trình thực hiện cho vay, thu hồi nợ không có một máy móc hay một công cụ nào khác ngoài cán bộ TD đảm nhiệm. Vì vậy, kết quả hoạt động cho vay phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ chuyên môn, tính năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ TD. Trong thực tế, do tính chất phức tạp của kinh tế thị trường, sự khó khăn trong công tác cho vay thì đòi hỏi cán bộ TD có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn giỏi và cả những kiến thức khác một cách thường xuyên, để có được điều này thì NHNoTT cần tổ chức thi tuyển nhân viên đầu vào một cách công bằng, lựa chọn những người thực sự có năng lực, có trình độ, ưu tiên những người đã từng làm công tác TD. Đối với những cán bộ TD lâu năm phải có kinh nghiệm nắm bắt nhanh các chủ trương chính sách của NHNoTT, NHNo & PTNT Việt Nam cũng như của Đảng, Nhà nước, biết vận dụng sáng tạo, linh hoạt các chủ trương trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, NHNoTT cần có kế hoạch tổ chức các lớp huấn luyện nghiệp vụ thường xuyên, tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại nhằm không ngừng trau dồi kiến thức nghiệp vụ chuyên môn cũng như kiến thức kinh tế thị trường, đáp ứng tính cập nhật của những vấn đề kinh tế hiện đại. Nhưng khả năng của mỗi người có hạn nên không thể một lúc tiếp thu được tất cả các kiến thức tổng hợp nên ngân hàng cần có kế hoạch đào tạo từng bước mang tính chuyên sâu. Đối với những cán bộ quản lý kinh doanh thì không chỉ nâng cao trình độ nghiệp vụ TD mà cần nắm chắc tất cả các nghiệp vụ khác của ngân hàng, có khả năng phân tích, đánh giá các hiện tượng kinh tế một cách tổng hợp, sắc bén, có kinh nghiệm thực tế từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn, thêm vào đó công tác quản lý đòi hỏi cần có nghệ thuật quản lý, công tác tổ chức cán bộ cần có tính chuyên sâu trong công việc, mỗi người phụ trách một công việc cụ thể và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả công việc của mình, mọi nhân viên kinh doanh nghiêm túc thực hiện đúng theo đường lối, chủ trương của ngân hàng với một tinh thần trách nhiệm và đạt hiệu quả cao. Ngoài việc nâng cao trình độ của cán bộ quản lý thì bộ phận cán bộ TD trực tiếp giao dịch với khách hàng cần được chú trọng một cách đặc biệt vì đây là những người có ảnh hưởng lớn đến khả năng mở rộng cho vay. Đội ngũ này tham gia giao tiếp với khách hàng, thẩm định dự án đầu tư và đề xuất với cán bộ lãnh đạo ra các quyết định nhưng những quyết định này lại phụ thuộc rất nhiều vào cán bộ TD này, do đó ngoài những tiêu chuẩn về nghiệp vụ chung đòi hỏi đội ngũ cán bộ này phải là người có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật cao, có lập trường tư tưởng vững vàng, không bị cám dỗ bởi những lợi ích cá nhân mà gây thiệt hại cho ngân hàng để những đánh giá, thẩm định của cán bộ TD mang tính khách quan, thẳng thắn. Là những người trực tiếp phụ trách các khoản vay nên các cán bộ TD phải sâu sát thực tế, có hiểu biết nhất định về pháp luật, thị trường, kỹ thuật…tinh tế trong việc kiểm tra, phát hiện những hành vi lừa đảo của khách hàng hoặc những biểu hiện thiếu trung thực bằng cách trắc nghiệm, thăm dò…Trước những khó khăn của các DNVVN, nếu có thể giúp được, cán bộ ngân hàng phải nhiệt tình, không ngại vất vả, kiên trì giúp đỡ hết mình, tạo mối quan hệ thiện cảm, lâu dài giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Ngân hàng cần có chế độ thưởng phạt xứng đáng đối với người làm công tác TD, gắn lợi ích của cán bộ TD với hiệu quả đầu tư TD nhằm nâng cao trách nhiệm và tinh thần hào hứng của cán bộ chuyên trách trong việc tìm kiếm khách hàng mới, mở rộng TD cũng như nâng cao chất lượng TD. Quy chế thưởng phạt phải gắn liền với hiệu quả làm việc đồng thời phải có quy định cụ thể và xử lý nghiêm minh đối với cán bộ TD để xảy ra thất thoát vốn, hoặc làm trái những quy tắc trong cho vay của NHNoTT gây ảnh hưởng đến lòng tin của các DNVVN, làm mất uy tín của ngân hàng. Ngân hàng cũng nên thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, tổ chức các cuộc thi đua cán bộ có tay nghề giỏi nhằm khuyến khích không khí làm việc hiệu quả trong ngân hàng. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ. Trong tương lại, xu hướng hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, đặt các DNVVN trước những thách thức mới, nếu không có sự hỗ trợ của Chính phủ thì các DNVVN khó đứng vững ở thị trường trong nước chứ chưa nói đến thị trường nước ngoài. Vì vậy, nhiều NHTM mong muốn Chính phủ tạo sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, hỗ trợ các DNVVN về tài chính, trình độ quản lý, thông tin thị trường, công nghệ và hợp tác quốc tế. Do thị trường tài chính trong nước còn nhỏ bé và non trẻ, tài trợ thông qua hệ thống ngân hàng vẫn là kênh đầu tư chủ yếu cho các thành phần kinh tế, trong đó có các DNVVN. Vì vậy, Nhà nước cần hỗ trợ hơn nữa về mặt chính sách cho các ngân hàng và các DNVVN nhằm tiếp thêm vốn cho loại hình doanh nghiệp này. Đại đa số các DNVVN có quy mô vốn khá khiêm tốn, tài sản đảm bảo khá nhỏ so với nhu cầu TD và quy mô phát triển dự án. Mặc dù, Nhà nước đã cho phép các ngân hàng được nhận thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay, việc cho vay đối với các doanh nghiệp có đất thuê ngoài khu công nghiệp vẫn gặp rất nhiều khó khăn do thủ tục cấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu bất động sản còn rất phức tạp trong khi cho vay tín chấp còn nhiều trở ngại đối với các DNVVN. Vì vậy, Chính phủ nên nới rộng và cụ thể hoá các quy định về cho vay tín chấp với các DNVVN, quy định này hiện nay bắt buộc các doanh nghiệp phải hoạt động có lãi 2 năm liên tục, trong khi các DNVVN đầu tư mới hoặc mở rộng sản xuất, gây khó khăn cho ngân hàng khi ra quyết định cho vay. Thiết nghĩ, quy định về cho vay tín chấp nên cởi mở hơn theo hướng các NHTM được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay tín chấp trên cơ sở xem xét đánh giá thời gian quan hệ, uy tín của DNVVN trong giao dịch với ngân hàng, có chú trọng đúng mức đến thương hiệu của DNVVN. Việt Nam đã công nhận thương hiệu là tài sản vô hình, có gía trị bằng tiền, vì vậy pháp luật cần có quy định rõ ràng, cụ thể về giá trị thương hiệu nhằm hỗ trợ cho ngân hàng an tâm đầu tư vào các DNVVN, nâng cao mức đóng góp của doanh nghiệp này cho nền kinh tế nước nhà. Bên cạnh đó, không ngừng hoàn thiện đề án nghiên cứu cải tiến cách định giá tài sản đảm bảo bằng việc xem xét khung giá đối với quyền sử dụng đất sao cho phản ánh được giá cả thị trường và xây dựng đội ngũ chuyên trách trong việc đánh giá bất động sản. Sớm ban hành luật sở hữu tài sản để thống nhất các chuẩn mực về giấy tờ sở hữu tài sản của tất cả các thành phần kinh tế. Thông qua đó thúc đẩy việc chuyển quyền sở hữu tài sản nhanh chóng, dễ dàng tạo điều kiện cho các NHTM trong việc nhận tài sản đảm bảo và phát mại tài sản đảm bảo. Thúc đẩy nhanh sự hình thành và hoạt động của các quỹ bảo lãnh cho các DNVVN. Đó là một trong những công cụ tài chính phối hợp thực hiện việc tiếp cận TD của các DNVVN có uy tín hoặc những dự án khả thi mà không đủ tài sản thế chấp, đồng thời chia sẻ rủi ro với các NHTM cho vay các DNVVN. Để hỗ trợ tổ chức bảo lãnh TD DNVVN hoạt động có hiệu quả thì cần lập các quỹ hỗ trợ phát triển DNVVN thuộc các bộ, ngành, địa phương và lập các hiệp hội DNVVN tạo ra sự phối hợp thống nhất vận hành hệ thống tổ chức bảo lãnh TD DNVVN đạt hiệu quả. Lành mạnh hoá các quan hệ tài chính- TD, nâng cao trình độ quản trị về các báo cáo quyết toán của các DNVVN, bên cạnh đó, trình độ và năng lực quản lý của các DNVVN còn yếu kém, không tương xứng với quy mô hoạt động kinh doanh của mình. Để khai thông các kênh đầu tư vốn cho DNVVN, nhà nước cần hoàn thiện hành lang pháp lý và đưa ra các chính sách nhất quán và cụ thể nhằm khuyến khích các doanh nghiệp này tự giác thực hiện nghiêm chỉnh quy định của pháp luật, chủ yếu thông qua chế độ quyết toán và vấn đề nộp thuế. Để thực hiện chính sách đào tạo và chuyển giao công nghệ, nhà nước cần có các chương trình, các lớp đào tạo trình độ chuyên môn quản lý cho các chủ doanh nghiệp, các cán bộ quản lý và đào tạo nâng cao tay nghề cho người công nhân đảm bảo chất lượng, kỹ thuật của sản phẩm. Với mức độ rủi ro TD cao khi đầu tư cho các DNVVN, nhà nước cần có chính sách rõ ràng, cụ thể nhằm bảo vệ cho quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của ngành ngân hàng, hạn chế hình sự hoá các vụ tranh chấp dân sự giữa ngân hàng và doanh nghiệp khi có rủi ro xảy ra. Những rủi ro nếu có nên xử lý theo hướng doanh nghiệp chịu trách nhiệm vì chính doanh nghiệp mới biết rõ hành động của họ trừ trường hợp do thiên tai gây ra. Xây dựng hệ thống quản lý ISO 9000 nhằm hỗ trợ các DNVVN, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật, thương mại cho các doanh nghiệp tham gia AFTA, chương trình liên kết xuất khẩu, chương trình kích cầu cho doanh nghiệp, tổ chức các hội chợ thương mại nội địa và quốc tế để các doanh nghiệp giới thiệu năng lực sản xuất kinh doanh của mình và chào hàng. Nếu các chính sách vĩ mô nêu trên được bổ sung, việc đầu tư vào các lĩnh vực DNVVN sẽ được mở rộng hơn và tạo được động lực phát triển cho nền kinh tế, đúng với chủ trương của Đảng và Nhà nước là phát huy sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, chú ý đến các ngành nghề truyền thống có quy mô nhỏ, chú ý đến các doanh nghiệp dễ quản lý, dễ đầu tư thay đổi thiết bị tạo thế cạnh tranh trong khu vực. 3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. Để tạo điều kiện cho NHNo & PTNT Việt Nam nói chung và NHNo & PTNT huyện Thanh Trì nói riêng thực hiện được các giải pháp nhằm mở rộng TD đối với các DNVVN, Ngân hàng Nhà nước cần có những quan tâm: NHNN cần bổ sung cơ chế, biện pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu lực trong việc chấp hành thể lệ, quy trình TD, nâng cao hiệu lực của công tác thanh tra, kiểm soát nội bộ. Cần nghiên cứu quy trình cho vay thực sự đơn giản, hợp lý, chặt chẽ tạo điều kiện cho các DNVVN vay vốn được thuận lợi, đảm bảo cho vay có hiệu quả. NHNN sớm đề nghị Chính phủ quyết định thành lập công ty chuyên mua, bán giải quyết các khoản nợ khó đòi, tồn đọng vì mục đích làm lành mạnh hoá các hoạt động của ngân hàng theo chương trình cải cách kinh tế của Đảng và Nhà nước. Nghiên cứu hoàn thiện khung pháp lý về đảm bảo tiền vay, trong đó có quy định đảm bảo tiền vay với các DNVVN, tạo điều kiện cho các ngân hàng có đủ cơ sở khi cấp TD. Ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật thương phiếu, tạo điều kiện thuận lợi và an toàn cho các ngân hàng có thể cho vay dựa trên cơ sở đảm bảo là các giấy tờ có giá, gắn liền với sự vận động của hàng hoá tiền tệ giúp cho việc giám sát món vay được tốt hơn. Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin TD (CIC) bằng cách tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị lao động để nhằm làm cho chất lượng và giá trị của nguồn thông tin CIC cung cấp ngày càng tăng, mang lại hiệu quả cao cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động TD của các ngân hàng nói riêng. 3.3.3 Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam. Bám sát quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của nhà nước, từng địa phương để giúp NHNoTT đầu tư đúng hướng và an toàn, mang lại hiệu quả cao. Từ đó cùng với chi nhánh tích cực tìm kiếm khai thác khách hàng để mở rộng hoạt động TD, đặc biệt là hoạt động TD với các DNVVN, giúp ngân hàng thực hiện tốt mục tiêu, chiến lược kinh doanh của mình. Ban hành, hoàn thiện đồng bộ hoá các văn bản về hoạt động kinh doanh TD của các chi nhánh trong hệ thống, thiết lập thủ tục cho vay đơn giản, phù hợp với pháp luật hiện hành, đảm bảo mục tiêu an toàn trong kinh doanh, thích ứng với từng nhóm khách hàng, từng loại cho vay, xoá bỏ cơ chế "một cửa, một dấu nhưng nhiều chữ ký" nhằm tiết kiệm thời gian, tránh gây phiền hà cho khách hàng. Tổ chức thường xuyên và hiệu quả các buổi hội thảo trao đổi tình hình, kinh nghiệm hoạt động giữa các chi nhánh, các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ lãnh đạo và cán bộ nghiệp vụ, từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ trong hệ thống nhằm nâng cao trình độ quản lý và trình độ thẩm định khách hàng cũng như dự án đầu tư theo tiêu chuẩn quốc tế. Khai thác các nguồn TD ưu đãi uỷ thác, tạo điều kiện cho các DNVVN có cơ hội nhiều nhất trong việc tiếp cận vốn TD, thành lập riêng một quỹ cho vay DNVVN và phân bổ cho các chi nhánh để các doanh nghiệp này dễ dàng tiếp cận được các nguồn TD. Phối hợp chặt chẽ với NHNoTT để tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin TD, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin, giúp các chi nhánh có được những thông tin đúng, chính xác và kịp thời nhất. 3.3.4 Kiến nghị với các DNVVN. Thực trạng các DNVVN ở Việt Nam nói chung và ở huyện Thanh Trì nói riêng rất bất cập so với yêu cầu của sự phát triển và trong quan hệ TD với các NHTM. Vì vậy, bên cạnh sự hỗ trợ của Chính phủ, ban, ngành liên quan thì các doanh nghiệp này phải nỗ lực tìm được hướng đi cho chính mình. - Các DNVVN phải khai thác tối đa nguòn vốn tự lực của mình và huy động các ngồn vốn khác phục vụ cho các phương án sản xuất kinh doanh với yêu cầu tiết kiệm đúng mục đích, đúng đối tượng và có hiệu quả. - DNVVN cần tạo lập một khả năng tín chấp của mình khi tiếp cận với các nhà tài trợ, cụ thể như: Tranh thủ sự hỗ trợ từ các tổ chức của Chính phủ, đặc biệt là mạng lưới hỗ trợ DNVVN, phát huy vai trò hỗ trợ DNVVN trên các mặt: quảng bá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, đào tạo nâng cao tay nghề, kiến thức quản trị doanh nghiệp…, những hoạt động này sẽ nâng cao khả năng tín chấp của doanh nghiệp vì chúng sẽ tạo nên những nguồn thông tin phản hồi đến các nhà tài trợ nhằm nâng cao uy tín cho doanh nghiệp, hình ảnh của doanh nghiệp sẽ được hoàn thiện hơn dưới con mắt nhà tài trợ. Tranh thủ các dịch vụ tư vấn hoặc sự hỗ trợ từ các chuyên gia để có thể xây dựng những phương án kinh doanh mang tính thuyết phục cao. Đối với nhà tài trợ, một phương án được coi là khả thi khi hội đủ những điều kiện về khả năng thực hiện hiệu quả như: vị trí thuận lợi theo quy hoạch của nhà nước, tận dụng nhiều nguồn lực tại chỗ về vốn, nhà xưởng, thiết bị, nguyên liệu.., giải quyết việc làm cho nhiều lao động, có biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường, tính toán rõ ràng về chi phí, sản phẩm có khả năng chiếm lĩnh thị trường…Ngoài ra, khi tiếp cận với cán bộ TD, doanh nghiệp cần tránh những sơ suất có thể làm cho đề nghị vay vốn bị bác bỏ như thiếu sự chuẩn bị chu đaó, thiếu thông tin, sự diễn đạt mơ hồ gây ra sự thiếu tin tưởng. - Hiệp hội các DNVVN cần sớm có các biện pháp nhằm giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi của các thành viên, đồng thời là nơi để trao đổi kinh nghiệm quản lý, xúc tiến các giao lưu thương mại. Ngoài ra, hiệp hội DNVVN còn có thể phát huy vai trò cầu nối giữa các hội viên với tổ chức hỗ trợ DNVVN trong và ngoài nước một cách hiệu quả nhất. Vai trò của các DNVVN đối với nền kinh tế đã và đang được khẳng định, hoạt động ngân hàng cũng có những chuyển biến tích cực trong quan hệ TD với khu vực này. Những khó khăn do cơ chế, chính sách chỉ là tạm thời. Cùng với sự nỗ lực gải quyết những vấn đề vướng mắc trong quan hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp hy vọng sẽ tạo điều kiện để cơ chế hỗ trợ tài chính của NHNoTT với các DNVVN được mở rộng, đáp ứng ngày càng kịp thời hơn nhu cầu vốn của các DNVVN trong xu thế hội nhập quốc tế. Kết luận Trong quá trình phát triển kinh tế từ một nước nông nghiệp sản xuất hàng hóa nhỏ đang phấn đấu xây dựng một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì phát triển các DNVVN ở nước ta là hướng đi phù hợp nhất. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập quốc tế đang đặt các DNVVN trước những thách thức mới, cần có sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng, Chính phủ cũng như hệ thống NHTM, trong đó có NHNo & PTNT huyện Thanh Trì. Thông qua số liệu thực tế của NHTT trong việc cấp TD đối với các DNVVN trên địa bàn ta thấy rõ là NHTT và các DNVVN chưa tìm được những biện pháp chung nhằm phát triển mối quan hệ hợp tác cùng nhau có lợi này. Với mong muốn đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn huy động cũng như tạo điều kiện để các DNVVN có đủ vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, khoá luận đã tập trung vào một số nội dung cơ bản: Hệ thống hoá và bổ sung những lý luận cơ bản về các DNVVN, về hoạt động TD của ngân hàng qua đó thấy được vai trò to lớn của TD ngân hàng trong việc bổ sung nguồn vốn cho các DNVVN, phân tích những nhân tố có khả năng ảnh hưởng đến quy mô TD của ngân hàng, đồng thời nêu lên một kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc hỗ trợ tài chính cho các DNVVN thông qua hệ thống NHTM, từ đó rút ra những bài học bổ ích cho Việt Nam. Từ cơ sở lý luận đó, ở chương 2 khoá luận đã đi sâu vào nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt động TD của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì đối với các DNVVN trên địa bàn mà chủ yếu dựa vào thực trạng của các doanh nghiệp đó. Qua đó, đánh giá được những kết quả đạt được đối với cả DNVVN và NHTT, rút một số mặt còn tồn tại và tìm ra nguyên nhân của tồn tại đó. Thông qua việc phân tích thực trạng TD đối với các DNVVN cũng như chủ trương, phương hướng đầu tư TD cho các DNVVN ở NHNo & PTNT huyện Thanh Trì, khoá luận đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ TD đối với các DNVVN, đảm bảo lợi ích chung của cả hai bên, chương 3 cũng nêu lên một số kiến nghị với Chính phủ, với Ngân hàng Nhà nước, NHNo & PTNT Việt Nam và các DNVVN. Để có thể nâng cao hơn nữa khả năng mở rộng TD đối với các DNVVN thì cần tất cả các bên liên quan có sự quan tâm nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận vốn TD của ngân hàng hơn nữa, nếu thực hiện được điều này thì nguồn vốn của xã hội sẽ được sử dụng một cách tối đa. Đây là một đề tài phức tạp nên những ý kiến đề xuất trong khoá luận chỉ là những đóng góp nhỏ trong tổng thể các biện pháp nhằm mở rộng TD đối với các DNVVN. Tuy vậy nó vẫn phát huy hiệu quả khi có sự kết hợp đồng bộ giữa các Bộ, các ngành có liên quan trong quá trình thực hiện. Mặc dù với sự nỗ lực, cố gắng của bản thân nhưng do lĩnh vực nghiên cứu của đề tài là một vấn đề rất rộng và tương đối phức tạp, do còn hạn chế về mặt thời gian và kiến thức lý luận cũng như thực tiễn nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp, cơ quan thực tập và những bạn đọc quan tâm để khoá luận được hoàn thiện hơn. Trong quá trình hình thành khoá luận em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của Nhà giáo, Tiến sĩ Tô Ngọc Hưng và toàn thể các thầy cô giáo trong khoa cùng các cô chú, anh chị trong phòng kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì. Em xin bày tỏ òng biết ơn chân thành đối với sự giúp đỡ quý báu đó.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0344.doc
Tài liệu liên quan