Đề tài Quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh

Qua 15 năm đổi mới quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh ngày càng được củng cố trong cả lý luận và thực tiễn. Cùng với sự phát triển từ “luật doanh nghiệp tư nhân “ ,”luật công ty” đến “ luật doanh nghiệp” thì quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh từ chỗ bị hạn chế nhiều đến chỗ được mở rộng hơn và ngày càng được hoàn thiện. là một sinh viên kinh tế, việc nắm rõ vấn đề quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh không chỉ là nghiên cứu thông thường mà nó có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, nó giúp ta có cách nhìn đúng đắn hơn về tự do kinh doanh, quyền của nhà kinh doanh có sự lựa chọn ngành nghề phù hợp , đúng pháp luật. Sau một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu tôi đã hoàn thành đề tài ”Quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh” .

doc31 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 735 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ doanh nghiệp xây dựng được phương án kinh doanh chi tiết bao nhiêu thì thường hiệu quả kinh doanh tốt bấy nhiêu. Tuy quy định như vậy xong thực tế thì phương án kinh doanh hầu như chỉ là hình thức vì: - Thứ nhất, khi thành lập doanh nghiệp tuy doanh nghiệp nào cũng có phương án kinh doanh cụ thể như do tính chất bí mật kinh doanh nên đôi khi những thông tin quan trọng có thể thay đổi làm mất đi tính chính xác của phương án kinh doanh. - Thứ hai, trong quá trình sản xuất kinh doanh thì có rất nhiều sự biến động nên chủ doanh nghiệp không dự liệu được hết trong phương án kinh doanh. - Thứ ba, các cán bộ của cơ quan đăng ký kinh doanh thường không đủ thời gian cũng như khả năng để xem xét một phương án kinh doanh có hiệu quả hay không. Theo điều 6 luật doanh nghiệp tư nhân, cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp phải gửi đơn xin phép thành lập doanh nghiệp đến uỷ ban nhân dân có thẩm quyền cấp giấy phép theo quy đinh của hội đồng bộ trưởng. Như vậy đơn xin phép thành lập là căn cứ pháp lý đầu tiên để giải quyết việc có cho phép thành lập doanh nghiệp hay không. Như chúng ta đã phân tích ở trên quyển thành lập doanh nghiệp là một quyền cơ bản của con người nhưng khi họ thực hiện quyền của mình thì lại phải xin phép điều đó đã hình thành cơ chế xin cho, một cơ chế tàn dư của nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung hơn nữa ở Việt Nam thủ tục hành chính rất rườm rà việc phải xin giấy phép thành lập sẽ làm mất nhiều thời gian và tiền của chủ đầu tư cùng với nó tạo nên một bộ máy cồng kềnh trong cơ quan đăng ký kinh doanh gây nên lãng phí tiền của nhà nước. . Nội dung đơn xin phép gồm : a) Họ, tên , tuổi và địa chỉ thường trú của chủ nhân . b) Trụ sở dự định của chủ nhân . c) Mục tiêu ngành nghề kinh doanh cụ thể . d) Vốn ban đầu, trong đó ghi rỗ sản phẩm vốn bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng trang sức bằng hiện vật . e) Biện pháp bảo vệ môi trường . Ngoài đơn xin phép còn cần có như phương án kinh doanh giấy chứng nhận về vốn của chủ doanh nghiệp, giấy chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu... Với đòi hỏi nhiều giấy tờ như trên dẫn đến việc các cơ quan cấp giấy thường nhiều tiêu cực. Việc cấp giấy phép thành lập chủ yếu do chỉ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh do đây là việc làm kiêm nhiệm nên sẽ khó tạo nên hiệu quả, mất đi vai trò của giấy phép. Việc cấp giấy phép trong vòng 30 ngày là tương đối lâu do trong thời đại ngày nay kỹ thuật phát triển với 30 ngày đối với một số lĩnh vực là tương đối lâu dẫn đến gây mất thời gian tiền của và dẫn đến tiêu cực. Một số ngành cấp lại là chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng gây rất nhiều phiền hà như việc kinh doanh xuất nhập khẩu đấy là công việc tương đối thông dụng nếu chờ đợi xem xét của chủ tịch HĐBT sẽ gây tốn nhiều thời gian và tiền của cho nên hạn chế kinh doanh trong ngành này và hạn chế quyền tự do kinh doanh. Sau khi có giấy phép kinh doanh thì doanh nghiệp lúc này mới đi đăng ký kinh doanh và lại phải làm thủ tục ký nộp cho trọng tài kinh tế tỉnh và tại đây lại tiến hành xem xét lại những nội dung trong hồ sơ đã được đăng ký. Việc xem xét lại này gây lãng phí về nguồn lực, tạo nên bộ máy cồng kềnh đã gây phiền hà sách nhiễu. Và thời gian đăng ký kinh doanh là 60 ngày kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập nếu không sẽ phải làm lại thủ tục thành lập với thủ tục hành chính rườm rà như vậy thì không dễ có thể có giấy đăng ký kinh doanh trong vòng 60 ngày hạn chế. Việc thành lập doanh nghiệp này mất tối đa khoảng 3 tuần đâu là thời gian tương đối lâu hơn nữa có rất nhiều thủ tục dẫn đến chi phí rất lớn từ đó gây nên tình trạng hộ kinh doanh mà không có giấy đăng ký không thành lập doanh nghiệp trong quy mô kinh doanh lớn từ đó hạn chế bớt quyền tự do kinh doanh. Với hai bước dẫn đến bộ máy cồng kềnh không được chuyên môn hoá dễ gây tình trạng tham ô, hối lộ, cửa quyền, nhưng hiệu quả thì lại rất hạn chế NS nuôi cán bộ tăng. Trong hai Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân thì chỉ có 3 loại hình doanh nghiệp đó là: + Công ty TNHH + Công ty cổ phần + Doanh nghiệp tư nhân nhưng trên thực tế lại có rất nhiều mô hình doanh nghiệp mới mà nhà nước chưa quy định được như Công ty hợp doanh Công Ty TNHH 1 TV điều này cũng hạn chế quyền tự do kinh doanh của công dân. Hai luật trên có rất nhiều điển tương đồng nhưng lại tách thành hai luật dẫn đến gây lãng phí trong công tác biên soạn . 2) Thực trạng Sự ra đời của luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân đẫ mở ra một thời kỳ kinh tế mới tạo điều kiện cho quyền tự do kinh doanh, quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh vào cuộc sống. Từ đố đến nay, loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam trở nên phong phú hơn, riêng đối với khu vực kinh tế tư nhân. Theo đánh giá tổng kết việc thực hiện Luật công ty, và Luật doanh nghiệp tư nhân và nghị đinh 66/HĐBT ngày 2/3/1992 của việc nâng cấp quản lý Trung Ương. Cho đến nay, tuy chưa có số hiệu chính thức công bố nhưng theo ước tính doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước khác chiếm khoảng 40 - 45%GDP sản xuất ở khu vưc nông nghiệp chiếm khoảng 27- 30%GDP, phần còn lại là khu vực của kinh tế tư nhân khoảng 25 - 28%GDP. Theo bản cáo gần đây của tổng cục thống kê thì doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH tạo ra 8% GDP, hộ kinh doanh có thể tạo ra 8 - 9% GDP hợp tác xã - 9%GDP. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không kể sản xuất và đầu tư nước chiếm khoảng 22 - 25% GDP của các Qua số liệu trên có thể thay khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế họ đã đóng góp 22- 25% GDP trong khi đó quy định trước đây thì không có điều này cũng chứng tỏ sự ra đời của hai luật là điều rất quan trọng trong bước phát triển kinh tế mới. Với số lượng doanh nghiệp theo quy định điều tra của liên bộ tổng cục thống kê thương mại kế hoạch và đầu tư, Cụ thể theo đăng ký có khoảng 38000 doanh nghiệp tư nhân và Công Ty trong đó có khoảng hơn 27000 doanh nghiệp tư nhân, khoảng hơn 11000 Công Ty TNHH cà 260 Công Ty CP, khoảng 2 triệu hộ kinh doanh cá thể. Có thể nói với số lượng Dnnn và Công Ty tương đối nhiều đây thực sự là 1 thành tựu của hai luật chỉ trong vòng 8 năm ra đời. Tuy nhiên các công ty cổ phần tương đối ít nhưng Công Ty Cổ Phần là công ty lớn do vậy việc Công Ty Cổ Phần cho ra những công ty nhỏ hơn nữa cho thấy chủ trương Cô Phần hoá các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa phát huy được hiệu quả cũng như Luật công Ty chưa tạo được thói quen với Công Ty Cổ Phần. Qua phân tích trên ta thấy xu hướng có rất nhiều hộ kinh doanh cá thể gặp không hơn 80 lần số Công Ty tư nhân, điều này cho thấy bất cập trong việc thành lập doanh nghiệp mặc dù số vốn của họ rất lớn. Xét về mức độ vốn thì có thể nóikhu vực Kinh Tế tư nhân Việt Nam được thực hiện dưới hai hình thức là Công Ty TNHH, Công Ty CP, và DNTN chiếm tỷ trọng đáng kể chiếm 60% và đăng ký của khu vực tư nhân đây là 80% vốn tương đối lớn. Có những công ty rất lớn như Bitít, Lioa điển hình của doanh nghiệp có vốn lớn, thu hút lượng rất lớn vốn của khu vực tư nhân. Về mặt lao động và việc làm khu vưc tư nhân đã tạo ra việc làm lớn nhất theo số liệu điều tra thì có khoảng 13 triệu lao động, trong đó có khoảng hơn 10 triệu làm việc trong công ty TNHH, Công Ty CP, DNTN với số lượng lao động rất lớn như vậy giải quyết rất nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội và khẳng định hiệu quả của việc tạo ra quyền tự do kinh doanh. Có rất nhiều ngành nghề được các công ty hoạt động sản xuất kinh doanh Điện tử tạo ra bước đột phá cho ngành sản xuất. Tuy nhiên chủ yếu thương mại, dịch vụ sản xuất công nghệ, đòi hỏi phải thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngành nghề mũi nhọn như điện tử. III) Quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh gắn với Luật Doanh Nghiệp (12 - 6 - 99) 1) Tính tất yếu ra đời LDN. Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời đã đánh dấu mốc quan trọng của quá trình thực hiện đường lối đổi mới kinh tế ở Việt Nam thực tế cho thấy rằng hai luật đã có những đóng góp tích cực và sự phát triển của hiện thực đất nước trong hơn 8 năm qua. Tuy nhiên quá trình thực hiện bên cạnh những mặt hạn chế không thể không khắc phục. Trước yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước, cụ thể hơn đó là yêu cầu tiếp tục cải cách nền kinh tế trong giai đoạn đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh mẽ đặt ra nhiều vấn đề mới mà Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân không giải quyết được. Kinh nghiệm của các nước đi trước đặc biệt là Trung Quốc, Hungari và các nước ASEAN thấy răng có một luật thống nhấy điều chỉnh luật của các doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu một xu hướng thời đại cũng chỉ có như vậy mới thúc đẩy được quyền tự do kinh doanh quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh. Hơn nữa trong tình hình đất nước ta đang rất đói kém, thiếu vốn trầm trọng tư tưởng lạc hậu còn phổ biến thì một đạo luật mở đường cho việc tự do kinh doanh, tự do lựa chọn ngành nghề thu hút được mọi nguồn lực để phát triển kinh tế tạo ra nền văn hoá mơí giầu bản sắc dân tộc song cũng đầy năng động sáng tạo trong phát triển kinh tế. Trước những yêu cầu cấp thiết như vậy thì luật doanh nghiệp đã ra đời vào ngày 12/6/1990 và có hiệu lực 1/1/2000. 2) Những vấn đề pháp lý mới nhằm tăng cường quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh, Vấn đề pháp lý mới đầu tiên được đề cập ở đây chính là quyền tự do trong việc thành lập doanh nghiệp từ việc phải “xin - cho” ở trong Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty với thủ tục thành lập có đơn xin thành lập hay với quy đinh mới của pháp luật thì việc đăng ký kinh doanh chỉ qua một bước một đó là đăng ký kinh doanh mà nó thể hiện quyền tự do kinh doanh được trả về cho chủ của nó biến nó trở thành sự thực đi vào cuộc sống. Sự giảm bớt một khâu gây rất nhiều phiền hà trong việc thành lập doanh nghiệp đã giảm đi rất nhiều phiền toái trong việc thành lập của chủ đầu tư, điều này đã khuyến khích họ tích cực đầu tư và muốn thành lập doanh nghiệp. Việc giảm đi một phần của việc thành lập đã tạo điều kiện giảm biên chế nhà nước, làm các thủ tục hành chính gọn nhẹ tránh được tệ nạn tham ô, hối lộ sách nhiễu những người muốn thành lập doanh nghiệp điều này cũng tạo điều kiện cho việc chuyên môn hoá cơ quan đăng ký kinh doanh làm cho nó chuyên nghiệp và làm việc có hiệu quả hơn. Không những giảm bớt một khâu trong thành lập doanh nghiệp chỉ còn việc đăng ký kinh doanh, mà việc đăng ký kinh doanh cũng được quy định một cách gọn và hợp lý hơn. Hồ sơ đăng ký kinh doanh gồm: - Đơn đăng ký kinh doanh. - Điều lệ công ty - Danh sách thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, danh sách thành viên đơn vị công ty hợp danh, danh sách cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần. - Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định, phải có thêm xác nhận về vốn của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy đinh của pháp luật. đơn đăng ký kinh doanh gồm: - Tên chủ doanh nghiệp . - Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp - Mục tiêu và ngành nghề kinh doanh - Vốn điều lệ doanh nghiệp, công ty, vốn đầu tư ban đầu chủ doanh nghiệp tư nhân - Phần vốn góp của mọi thành viên đối với công ty TNHH và công ty hợp doanh số cổ phần mà cơ quan đóng sáng lập đăng ký mua, loại cổ phần, mệnh giá cổ phần. - Họ tên, chữ ký của chủ doanh nghiệp tư nhân, người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, công ty TNHH của tất cả các thành viên hợp danh. Qua hồ sơ ta thấy đã được tinh giảm rất nhiều, đã bãi bỏ một số yêu cầu chủ yếu chỉ mang tính hình thức như phản ánh kinh doanh, biện pháp bảo vệ môi trường và quy định những vấn đề cụ thể những vấn đề mang tích thủ tục còn việc kê khai còn cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ chịu trách nhiệm về thủ tục. Như vậy, đã thể hiện quyền tự do kinh doanh ở đây tương đối rộng rãi cho phép mọi người tự kê khai và tự chịu về hoạt động kinh doanh sau này quy đinh rõ quyền và trách nhiệm của mọi người dẫn đến hiệu quả pháp luật. Việc tinh giảm điều khiến cho việc thành lập doanh nghiệp nhanh chóng hơn nữa đưa ra ý tưởng kinh doanh vào thực tiễn hành động khuyến khích mọi người đầu tư vào sản xuất kinh doanh tạo động lực cho thực hiện quyền tự do kinh doanh và thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong đơn đăng ký kinh doanh ta thấy đã bỏ quy đinh bắt buộc có vốn pháp định đối với hầu hết các ngành nghề, đây là một bước đột phá thể hiện trong tư duy của những người làm luật nước ta. Họ đã chuyển từ tư duy sẽ cho mọi người kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật cho phép sang tư duy cho kinh doanh những ngành mà pháp luật không cấm điều này mở rộng quyền tự do kinh doanh đặc biệt là quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh mà mỗi ngành quy đinh có vốn pháp định thì chỉ được kinh doanh những ngành mà nhà nước quy định trong danh mục vốn pháp định mà không được kinh doanh những ngành khác thì chỉ những ngành pháp luật cấm không được kinh doanh thì còn lại một người được kinh doanh ngành nghề kinh doanh, tạo điều kiện cho việc hoạt động ngành nghề mới. Với việc bỏ vốn pháp định cũng tạo điều kiện cho mọi người muốn sự đầu tư có sự lựa chọn đầu tư vào những ngành mà họ cho là có lợi nhất thông kê mức vốn của họ từ đó dẫn đến hiệu quả đầu tư cao làm cho nền kinh tế phát triển. Đồng thời thu hút được vốn từ nguồn nhàn dỗi do kinh doanh mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên vẫn còn một số ngành cần có vốn pháp định suất phát từ đặc diểm kinh tế cần có một số vốn nhất định đối với những ngành nghề này do nó có ảnh hưởng trên kinh tế chính trị. Cùng với việc giảm bớt thủ tục điều kiện kinh doanh thì nhà nước ta cũng đã có một bước nhảy vọt với quy định bãi bỏ một số giấy phép kinh doanh khoảng 180 giấy phep đây là một biện pháp nữa nhằm thúc đẩy tự do kinh doanh, việc xoá 180 giấy cũng còn nhiều vấn đề do sự chưa thống nhất trong việc bãi bỏ giấy, trong khi chỉ có hiệu lực với doanh nghiệp trong luật doanh nghiệp. Tuy nhiên cần phải được áp dụng rộng rãi với mọi hình thức doanh nghiệp. - Thứ nhất vì thị trường cần có sự bình đẳng của các loại hình doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có quyền và nghĩa vụ như nhau không thể một doanh nghiệp chịu giấy phép còn doanh nghiệp khác thì không cần. - Thứ hai: Dựa trên cách giải thích pháp luật thông dụng đó giải thích pháp luật phải có lợi cho chủ thể nghĩa là cần bãi bỏ mọi đối tượng. Không những tính giảm thủ tục đăng ký kinh doanh mà còn mở rộng đối tượng điều chỉnh đăng ký kinh doanh theo điều kiện 1 Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty “ Công dân Việt Nam dư 18 tuổi, tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội có quyền góp vốn đầu tư hoặc tham gia thành lập công ty TNHH, CTCP” theo điều 1 Luật doanh nghiệp tư nhân thì công dân Việt Nam đủ 18 tuổi có quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân. Nhưng theo điều 9 Luật doanh nghiệp thì có những tổ chức có quyền thành lập và quyền lập doanh nghiệp trừ những người không dược thành lập theo quy định của luật này. ở trên ta thấy rằng đối tượng được thành lập doanh nghiệp đã mở rộng không những cho những người nước ngoài định cư ở Việt Nam họ cũng coi như là một người dân của Việt Nam do vậy khi nhà nước ta cho phép họ thành lập doanh nghiệp đây cũng là việc mở rộng quyền tự do kinh doanh của luật doanh nghiệp. Không những vậy luật doanh nghiệp còn ,mở rộng đối tượng được thành lập công ty đó là một tổ chức mà không có tư cách pháp nhân cũng có quyền thành lập công ty. Không những luật doanh nghiệp mở rộng đối tượng được thành lập doanh nghiệp mà nó còn tạo cơ hội cho chủ đầu tư lựa chọn các loại hình doanh nghiệp để đầu tư nhiều hơn đây cũng là vấn đề dẫn đến quyền tự do lựa chọn hình thức kinh doanh được mở rộng điều này thể hiện việc trong luật doanh nghiệp đã có quy định thêm hai hình thức doanh nghiệp mới đó là Công Ty TNHH và công ty hợp doanh. Với việc quy định thêm hai hình thức doanh nghiệp mới này nó đã cho thấy đất nước ta rất chú ý đến sự phù hợp của hình thức kinh doanh với ngành nghề kinh doanh. Đối với ngành nghề kinh doanh đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn cao, có yêu cầu về uy tín nghề nghiệp lớn thì việc thành lập công ty vấn đề vốn góp không được đánh gía quan trọng hơn uy tín, danh dự trình độ do vậy ở những ngành này đòi hỏi phải có hình thức doanh nghiệp phù hợp hơn và loại hình Công Ty Hợp Danh đã ra đời. Đứng trước một thực tế là các Tổ Chức Chính Trị- XH, Tổ Chức Xã Hội – Nghề Nghiệp có những doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của mình, hoặc doanh nghiệp do công ty đầu tư việc thống nhất quản lý các doanh nghiệp là tương đối phức tạp nhưng các công ty này đều có những đặc điểm do một chủ Sở Hữu và phải chụi TNHH dẫn đến loại hình doanh nghiệp Công TyTNHH. 3) Thực trạng của LDN 3.1) Thành tựu: Luật Doanh Nghiệp ra đời năm 1999, đã được đài BBC - Anh bầu là một trong 10 sự kiện quan trọng nhất trong năm và Luật Doanh Nghiệp ra đời quả thực đã tạo ra bước chuyển lớn trong nền kinh tế, đưa quyền tự do kinh doanh của công dân đến gần thực tiễn hơn. Thành tựu đầu tiên cần phải kể đến đó là số lượng doanh nghiệp tăng nhanh. Năm 2000 khi luật doanh nghiệp có hiệu lực với thủ tục luật doanh nghiệp đơn giản, thời gian giải quyết nhanh từ đó tạo sự sôi động chonền kinh tế Việt Nam. Theo thống kê chưa đầy đủ đến 30/9/2000 có 9863 doanh nghiệp mới thành lập, với tổng số vốn 9397 tỉ đồng tăng gấp 3 lần về số doanh nghiệp và tăng hơn gấp đôi 2 lần về số vốn đăng ký so với năm 1999. ( Tổng số doanh nghiệp mới được thành lập cùng kỳ năm 1999 là 2706 với số vốn đăng ký là 4381 tỷ đồng). Nhìn chung số doanh nghiệp mới đăng ký ở hầu hết các địa phương đều tăng từ 3 đến 4 lần so với cùng kỳ năn 1999. Điều đáng lưu ý là trong tháng 9 đã có 440 công ty cổ phần đã được thành lập trong vòng 9 năm trước đây. Ngoài ra đã có hai công ty hợp doanh đã được thành lập đây là loại hình doanh nghiệp mới lần đầu tiên xuất hiện ở nước ta. Với số lượng trên ta thấy thực sự luật doanh nghiệp là đưa quyền tự do kinh doanh vào trong thực tiễn cuộc sống mọi người đã thấy được quyển đó, hiểu và thực hiện một cách tương đối dễ dàng. Tuy nhiên số doanh nghiệp mới thành lập chủ yếu vẫn tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh hai thành phố này số doanh nghiệp mới thành lập là 57000 doanh nghiệp chiếm khoảng 58% số doanh nghiệp được thành lập trong cả nước. Không những số lượng doanh nghiệp tăng nhiều mà chi phí và thời gian thành lập doanh nghiệp cũng giảm một cách đáng kể theo điều tra của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. Vào đầu năm 2000 thì thời gian trung bình cần thiết để thành lập được doanh nghiệp năm 1999 là 98 ngày rút xuống còn 7, giảm 14 lần nhiều nơi rút xuống còn 2 ngày so với thời gian 15 ngày theo luật định. Chi phí trung bình bằng tiền để thành lập một doanh nghiệp trước đây là hơn 8 triệu đồng (có trường hợp cá biệt là 380 triệu đồng) nay giảm xuống chỉ còn 550 ngàn đồng, giảm 15 lần. Như vậy nhờ đơn giản hoá thủ tục, tổng số doanh nghiệp mới được thành lập trong 9 tháng đầu năm 2000 đã tiết kiệm 70 tỷ đồng chi phí về thành lập. Mặt được lớn nhất ở đây là quyền tự do kinh doanh theo pháp luật được người dân thể chế hoá nhờ đó, hầu như mọi tổ chức cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp đều thành lập được một cách kịp thời và nhanh chóng. Khảo sát thực tế cho thấy không ít người đã có ý định thành lập doanh nghiệp từ 2 - 3 năm trước đây, nhưng không làm được điều đó, bởi vì họ không xin được giấy phép thành lập, hoặc khi đã xin được giấy phép thành lập, thì lại không xin được các loại giấy phép kinh doanh khác. Quyền tự do lựa chọn ngành nghề cũng được phát huy tốt thể hiện ở việc các doanh nghiệp đã được quyền lựa chọn những ngành kinh doanh một cách linh hoạt hơn chủ động trong kinh doanh. Các doanh nghiệp đã có quyền chủ động mở rộng thêm các ngành nghề mới, mở rộng quy mô ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã có hơn 2800 doanh nghiệp bổ xung thêm ngành nghề kinh doanh. Các doanh nghiệp đã mở rất nhiều chi nhánh, có 12000 doanh nghiệp bổ xung thêm vốn gần 2100 tỷ đồng. Hầu hết các doanh nghiệp đã bắt đầu hoạt động kinh doanh chỉ sau vài tuần chuẩn bị các điều kiện cần thiết kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Chỉ nhờ chủ động được về thời điểm được quyền kinh doanh, mà các cơ hội kinh doanh đều được tận dụng, không bị bỏ lỡ như nhiều trường hợp trước đây. Xét về khía cạnh pháp lý, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trở nên ổn địnhvà chắc chắn hơn, không bị giới hạn bởi nội dung hạn hẹp và cứng nhắc của giấy phép (ví dụ: trước đây có giấy phép quy đinh doanh nghiệp chỉ được đóng tàu có trọng tải không quá 200 tấn, hoặc chỉ được chế tạo cần trục có chiều dài là 32m vv... Nếu doanh nghiệp đóng tầu có trọng tải lớn hơn 200 tấn, hoặc chế tạo cần trục có chiều dài khác, đều bị coi là kinh doanh trái phép). Nhờ đó doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi hơn để kinh doanh một cách sáng tạo và linh hoạt. Từ việc giảm chi phí thành lập thì chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh cũng giảm theo. Theo điều tra mới đây của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, thì việc bãi bỏ 84 loại giấy phép theo quy đinh số 19/2000/QD - TTG của thủ tướng chính phủ đã tiết kiệm tiền bạc cho mỗi doanh nghiệp hàng năm khoảng 4,5 triệu đồng và 21 ngày làm việc đối với người điều hành doanh nghiệp (cá biệt có doanh nghiệp tiết kiệm tới 50 triệu đồng và 900 ngày công để đi xin phép). Như vậy đối với khoảng 62 nghìn doanh nghiệp (gồm 48000 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và 6000 doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính tri xã hội,doanh nghiệp của Đảng cùng với 9000 hợp tác xã) đang hoạt động không kể hộ kinh doanh cá thể, riêng chi phí bỏ ra để xin phép ( chưa kể chí phí đi lại, ăn ở, thời gian). Việc bãi bỏ 84 loại giấy phép đã giảm được gần 280 tỷ đồng chi phí kinh doanh, các doanh nghiệp cũng ước tính rằng việc bãi bỏ các loại giấy phép kinh doanh trong thời gian qua làm lợi nhuận và doanh thu tăng thêm trung bình ở mức 0,12 % có doanh nghiệp ước tính mức phát triển thêm là 1,2%. Không những vậy, Luật Doanh Nghiệp còn tạo ra được nhiều công ăn việc làm và thu nhập ổn đinh cho người lao động góp phần không nhỏ giải quyết các vấn đề xã hội đang bức xúc. Căn cứ báo cáo của hơn 20 sở Kế Hoạch và Đầu Tư tỉnh, thì mỗi doanh nghiệp mới thành lập đã sử dụng trung bình 22 lao động thu nhập bình quân đầu người khoảng 300 - 400 nghìn đồng 1 tháng ở khu vực nông thôn và từ 500 - 700 nghìn đồng 1 tháng ở thành thị. Như vậy những doanh nghiệp mới thành lập trong 9 tháng qua đã trực tiếp tạo công ăn việc làm cho 200 nghìn người. Đó là chưa kể tới hàng chục nghìn người đang lao động tại các hộ kinh doanh cá thể. Tóm lại: Luật doanh nghiệp đã góp phần không nhỏ vào việc đưa quyền tự do kinh doanh vào thực tế cuộc sống cải thiện môi trường kinh doanh ở nước ta trong thời gian qua. Dư luận xã hội đặc biệt là giới doanh nghiệp để hưởng ứng một cách nhanh chóng và khá rộng rãi. Nhờ đó hoạt động sản xuất kinh doanh trong cả nước đã có chuyển biến tích cực góp phần ngăn chặn sự giảm sút của nền kinh tế thúc đẩy sự phát triển kinh tế vượt mức kế hoạch là 6,76% năm đây là mức tăng trưởng cao nhất Châu á. 3.2) Những tồn tại của Luật doanh nghiệp đối với quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọ ngành nghề kinh doanh. Có những thành tựu rất đáng kể xong để luật doanh nghiệp thực sự phát huy được sức mạnh của mình thực sự đưa được quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọ ngành nghề kinh doanh đi vào cuộc sống thì vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra đòi hỏi phải giải quyết đó là: những vướng mắc liên quan đến giấy phép hành nghề. Theo quy định của điều 6 nghị định 03/ 2000/ NĐ - CP có 6 ngành kinh doanh cần có chứng chỉ hành nghề trước khi cấp giấy đăng ký kinh doanh. Nhưng hiện nay vẫn còn có hiệu lực thi hành, quy định phải có giấy phép hành nghề trước khi thành lập và đăng ký kinh doanh ví dụ như: Nghị định 17/CP ngày 23/12/1992 quy định tại điều 4 tổ chức và cá nhân muốn làm nghề kinh doanh đặc biệt in và sao chụp, cho thuê nghỉ trọ, khắc con dấu sản xuất, sửa chữa súng săn, sản xuất đạn súng săn, kinh doanh và sử dụng đến chất nổ, chất độc mạnh chất phóng xạ, giải phẫu mỹ thuật ngoài thủ tục xin đăng ký kinh doanh theo quy định hiện hành của nhà nước phải có thêm các thủ tục do các ngành chủ quan có liên quan hướng dẫn và tại điều 5 quy định, cơ quan công an có trách nhiêm xem xét, xác nhận các điều kiện bảo đảm về an ninh trật tự đối với tổ chức và cá nhân xin kinh doanh nghề đặc biệt để tham gia góp ý kiến với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi cho phép thành lập và cấp giấy chứng nhận kinh doanh. Giấy phép hành nghề photocopy đã được bãi bỏ theo quy định 19/2000/GĐ - TTG và kinh doanh chất nổ, chất phóng xạ, chất độc mạnh đã trở thành ngành nghề cấm kinh doanh theo quy định tại NĐ 03/ 2000/ NĐ - CP. Nghị định 87 CP ngày 12/12/1995 quy định. Các tổ chức và cá nhân kinh doanh hoạt động văn hoá thường xuyên hoặc định kỳ bao gồm: Chiếu phim, băng hình, biểu diễn nghệ thuật, khiêu vũ, hát karaoke và các hình thức giải trí khác, phải có giấy phép hành nghề do sở thông tin văn hoá sở tại cấp. Sau khi có giấy phép hành nghề phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh và sau khi có giấy đăng ký kinh doanh mới được hoạt động. Theo quy định tại Nghị định 109/ 97 /NĐ - CP của CP hiện vẫn còn hiệu lực thi hành doanh nghiệp cung cấp đối với bưu chính viễn thông là doanh nghiệp nhà nước hoặc công ty cổ phần mà nhà nước chiếm cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt được Thủ Tướng quy định thành lập hoặc cho phép thành lập để cung cấp các dịch vụ bưu chính viễn thông. Như vậy các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh Nghiệp không được đăng ký kinh doanh ngành nghề dịch vụ bưu chính viễn thông. Ngoài ra các ngành kinh doanh bảo vệ không thuộc danh mục ngành nghề cấm kinh doanh, nhưng Bộ công an đã có công văn số 250 TB/ V11CP2) ngày 16 - 9 - 1999 thông báo không chủ trương cho phép các công ty tư nhân mở dịch vụ bảo vệ và Bộ công an đề xuất Chính Phủ có Nghị Định để thống nhất quản lý loại hình dịch vụ này. Mãi tới đầu quý II năm 2000, chỉ duy nhất Hà Nội mới có một cơ sở kinh doanh dịch vụ này được phép hoạt động. Mặc dù Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư đã có văn bản số 1202/ BKH - QLKT ngày 8/3/2000 trả lời các quy định tại NĐ 17/CP và 87/CP là trái với Luật Doanh Nghiệp đều phải bị bãi bỏ. Tuy nhiên trong thực tế, các nghị định này vẫn còn được các cơ quan chuyên ngành áp dụng. Nếu cơ quan đăng ký kinh doanh đang gặp nhiều khó khăn khi xét cấp đăng ký kinh doanh cho những ngành nghề nêu trên. Qua sự phát triển trên ta thấy một thực tế các văn bản chồng chéo lên nhau gây lên sự khó khăn cho kinh doanh một số ngành nghề này. Không những thế nhiều cơ quan nhà nước tuy đã biết một số văn bản hết hiệu lực phải áp dụng văn bản mới nhưng vẫn không áp dụng gây trở ngại cho hoạt động đăng ký kinh doanh dẫn đến làm giảm quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh dẫn đến quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Thứ 2,những khó khăn khi xin giấy phép hành nghề: Theo quy định của nghị định 03/2000/NĐ_CP thì những ngành nghề sau đây cần phải có chứng chỉ hành nghề: Kinh doanh dịch vụ pháp lí; Kinh doanh dịch vụ khám chữa bệnh và kinh doanh dược phẩm; Kinh doanh thú y và thuốc thú y; Kinh doanh dịch vụ và thiết kế công trình; Kinh doanh dịch vụ kiểm toán; Kinh doanh dịch vụ môi giới chứng khoán. Hiện nay, các sở ,ban ngành chức năng quản lý về chuyên môn nghiệp vụ của các ngành nghề nêu trên như sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, sở y tế, sở tư pháp, sở xây dựng... đang gặp khó khăn vì chưa có hướng dẫn đầy đủ của cấp trên về đăng ký và thủ tục cấp giấy chứng chỉ hành nghề vì vậy cơ quan đăng ký ở các địa phương chưa thể cấp đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực nói trên. Thứ 3, đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Điều 4 nghị định 03 quy định trong trường hợp đăng ký kinh doanh, các ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo và hướng dẫn doanh nghiệp biết về điều kiện kinh doanh ngành nghề đó. Bộ kế hoạch và đầu tư đã hướng dẫn danh mục các luật chuyên ngành, pháp lệnh, nghị định có liên quan về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề đó. Tuy nhiên do các văn bản luật quá nhiều gồm: 10 luật, 6 pháp lệnh, 42 nghị định nên việc sẵp xếp và biên soạn thành những văn bản để hướng dẫn cho doanh nghiệp thực hiện gặp rất nhiều khó khăn. Để đảm bảo tính nhất quán và thực hiện chức năng hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ, đề nghị Bộ kế hoạch và đầu tư hoặc Bộ Tư Pháp ban hành cẩm nang về ngành nghề kinh doanh có điều kiện để cơ quan đăng ký kinh doanh các địa phương thống nhất thực hiện. Đây là đòi hỏi rất bức xúc vì luật đã có và rất thông thoáng nhưng để có thể thực hiện được nó giúp cho việc kinh doanh những ngành nghề có điều kiện được thực hiện nhanh chóng đảm bảo quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh. Thứ 4, những vấn đề liên quan đến vốn pháp định. Theo quyết định tại điều 5 nghị định 03. Ngành kinh doanh phải có vốn pháp định, mức vốn pháp định cụ thể được cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà Nước về vốn pháp định, cơ quan có thẩm quyền xác nhận và cách thức xác nhận vốn pháp định được xác định theo quy định của pháp luật, pháp lệnh và nghị định quy đinh về vốn pháp định. Hiện nay chưa có văn bản quyết định về cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về vốn pháp định, cơ quan có thẩm quyền xác nhận và cách thức xác nhận vốn pháp định. Để thực hiện vấn đề này, Bộ Khoa Học có văn bản hướng dẫn về ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định áp dụng theo các nghị định sau: Nghị định số 48/1998/NĐ - CP ngày 9 - 12 - 1999 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Nghị định số 8/1998/NĐ - CP ngày 3-10-1998 của Cơ quan ban hành danh mục vốn pháp định của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên tại các nghị định vừa nêu trên chưa quyết định cụ thể về cơ quan có thẩm quyền xác nhận và cách thức xác nhận vốn pháp định nên cơ quan đăng ký kinh doanh gặp khó khăn khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Vốn pháp định là tàn dư của luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty tuy nhiên nó vẫn có vai trò to lớn trong một số ngành nghề việc nhà Nước quy định như vậy là hợp lý song do đăng ký đăng ký thực tế là luật chưa rõ ràng nên cũng đã làm khó khăn cho việc xác nhận vốn pháp định gây cản trở đăng ký kinh doanh làm giảm quyền tự do kinh doanh. Thứ 5, vấn đề đặt tên doanh nghiệp. Theo quy định tại điều 24 luật doanh nghiệp tên doanh nghiệp phải đảm bảo không trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp khác đã đăng ký kinh doanh. Qui định này chưa nêu cụ thể nguyên tắc xét việc trùng tên của doanh nghiệp là như thế nào. Ví dụ: Công ty trách nhiệm hữu hạn Tiến Đông có được coi là trùng tên với công ty thương mại Tiến Đông không vì không quy định rõ nên rất khó khi xem xét tên của một doanh nghiệp theo quy định. Việc trên dẫn đến nhiều doanh nghiệp dùng tên gần giống tên những doanh nghiệp có tiếng như: OMO đ ONO đã làm mất quyền bảo vệ tên hiệu doanh nghiệp. Thứ 6 về công tác quản lý sau khi đăng ký kinh doanh. Khoản 5 điều 4 NĐ 02/2000/NĐCP quy định sau khi kiểm tra và đã xác định rõ mức độ vi phạm các quyền về đăng ký kinh doanh thì phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh trực tiếp xử lý theo pháp luật. Trong khi luật doanh nghiệp và NĐ 02 chưa quy định thẩm quyền xử lý của phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh điều này gây khó khăn cho cơ quan đăng ký kinh doanh địa phương nếu có biết được những vi phạm nhưng do chưa có thẩm quyền xử lý nên họ thường bỏ qua (không phận sự ôm rơm nặng bụng) điều này sẽ tạo điều kiện cho hoạt động làm ăn trái pháp luật của các doanh nghiệp chưa phát huy được những sức mạnh của cơ quan đăng ký kinh doanh. Hơn nữa nếu quy định về quyền của các cơ quan đăng ký kinh doanh thì liệu có sẩy ra tình trạng “tiền buông hậu hành” như tình trạng vài năm gần đây (98 - 00) trung bình mỗi doanh nghiệp phải chịu hơn 14 lần thanh tra, trung bình mỗi năm 5 lần, và như vậy 2,4 tháng một lần kiểm tra, thanh tra. Có doanh nghiệp phải chịu 107 lần kiểm tra, thanh tra trong vòng 3 năm tức là mỗi tuần phải tiếp một đoàn thanh tra, có quá nhiều cơ quan thanh tra kiểm tra nhưng đối với cơ quan có nghiệp vụ lại chưa quy định quyền đầy đủ, hơn nữa ranh giới cũng hợp pháp và bất hợp pháp nhiều TN không rõ ràng, do đó chưa bảo đảm được an toàn về mặt pháp lý cho doanh nghiệp. Còn về phía cơ quan nhà nước phàn nàn không cử cán bộ phòng thuế ,tham gia để kiểm tra thanh tra nên quản lý doanh nghiệp không có hiệu quả. Rõ ràng khi số doanh nghiệp tăng, doanh nghiệp được chủ động tự chủ kinh doanh trong phạm vi không hạn chế về quy mô và địa bàn, hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng và phức tạp, thì vai trò phạm vi, nd của quản lý nhà nước nói chung của thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nói riêng phải có những thay đổi cho phù hợp, đồng thời phải đề cao vai trò của việc tự kiểm tra giám sát lẫn nhau giữa các doanh nghiệp để chính họ trước hết phải tự bảo vệ lấy lợi ích của mình đồng thời cũng giúp cho họ thực hiện được quyền tự do kinh doanh được đầy đủ hơn Thứ 7, về địa vị pháp lý của cơ quan kinh doanh. Theo nghị định 02 và 03 cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh là phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở kế hoạch và đầu tư. Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện là phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở kế hoạch và đầu tư, cơ quan đăng ký kinh doanh có hai nhiệm vụ chủ yếu là cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp và quản lý doanh nghiệp sau đăng ký. Tuy nhiên sau hơn 3 tháng thực hiện Luật doanh nghiệp theo những quy định mới thì mô hình này đã bộc lộ những hạn chế sau: Là một các phòng đăng ký kinh doanh hiện nay thực chất vẫn là phòng doanh nghiệp cũ, năng lực hạn chế thiết bị lạc hậu, không đủ khả năng thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, nội dung mới về đăng ký kinh doanh theo tinh thần Luật Doanh Nghiêp. Thậm chí có nhiều địa phương số cán bộ cần thiết để làm nhiệm vụ này, có nơi ( chủ yếu là cấp huyện) chưa thành lập được phòng đăng ký kinh doanh. Hai là, do giao cho phòng đăng ký kinh doanh cấp đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp cho nên tiếng nói của cơ quan này đối với các cơ quan nhà nước khác ở địa phương. ( chủ yếu là ở cấp cơ sở) và các doanh nghiệp hầu như không có sức nâng cần thiết. Trước đây phòng doanh nghiệp thuộc sở kế hoạch và đầu tư chỉ là cơ quan chức năng giúp sở đăng ký kinh doanh thực tế cơ quan đăng ký kinh doanh vẫn là sở kế hoạch đầu tư nên tiếng nói được coi trọng hơn nhiều. Cơ quan đăng ký kinh doanh vẫn yếu về năng lực lại không được coi trọng dẫn đến tình trạng là rất nhiều học sinh đăng ký kinh doanh được nộp đến cơ quan đăng ký kinh doanh sau đó lại không thấy ai đến nhận và khi tìm đến trụ sở ghi trong hồ sơ thì không có cơ quan nào đóng ở địa chỉ ấy điển hình là ở Hà Nội tháng 8/2001 thì theo phòng đăng ký kinh doanh của Hà Nội có khoảng 1000 hồ sơ đăng ký kinh doanh không liên lạc được với người nộp và khi phóng viên của đài truyền hình Việt nam tìm trụ sở của bộ hồ sơ của công ty trách nhiệm hữu hạn Mây Xanh khi đến địa chỉ ghi trong hồ sơ thì không có một doanh nghiệp nào có tên như vậy ở địa chỉ này và anh phóng viên đã bình luận một câu rất mỉa mai “ Chắc chỉ tìm thấy tên công ty đó khi nhìn lên trời” đây là một thực tế bức xúc. Quyền tự do kinh doanh tuy là của mọi người nhưng tự do phải trong khuôn khổ pháp luật không được coi thường cơ quan đăng ký kinh doanh. Không được lợi dụng sự thông thoáng của nhà nước để lập những công ty mà để lừa đảo gây rối loạn nền kinh tế. Thứ 8, chưa có quy định thống nhất về đăng ký kinh doanh với mọi loại hình doanh nghiệp. Về những doanh nghiệp liên quan đến đăng ký kinh doanh thì Luật Doanh Nghiệp được Quốc Hội thông qua năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ được áp dụng với 4 loại hình doanh nghiệp đó là: doanh nghiệp tư nhân,công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần. Có những loại hình doanh nghiệp khác như :hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước thì đăng ký kinh doanh theo những văn bản riêng. Những quy định cho những loại hình doanh nghiệp khác nhau là rất khác nhau và một đăng ký kinh doanh theo luật này thì không thể áp dụng đăng ký kinh doanh theo luật khác. Do vậy có thể nói rằng từ khi thực hiện luật doanh nghiệp thì mặt bằng đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp vốn đã khập khiễng lại càng khập khiễng hơn. Theo quy đinh hiện hành thì có 3 cơ quan đồng thời làm nhiệm vụ cấp đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp: Sở kế hoach và đầu tư đối với doanh nghiệp nhà nước, liên hiệp hợp tác xã, uỷ ban nhân dân huyện đối với các hợp tác xã, hộ kinh doanh, phòng đăng ký kinh doanh đối với 4 loại hình doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp. Tuy nhiên điều này cũng gây khó khăn cho việc đăng ký kinh doanh nhưng vẫn có thể khắc phục được. Điều đáng nói hơn là việc áp dụng một số quy định cụ thể trong quá trình xem xét cấp Luật Doanh Nghiệp hay đối với tất các loại doanh nghiệp khác. Nhưng quy định về vốn đầu tư đối với hợp tác xã và doanh nghiệp nhà nước có được bãi bỏ không... Những vấn đề chưa đồng bộ trên chưa được giải quyết thoả đáng sẽ làm cho các thành phần kinh tế không được bình đẳng ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Các vấn đề nêu trên chủ yếu liên quan đến luật pháp còn thực tế cho thấy rằng vấn đề ở nước ta không chỉ được luật pháp mà còn do chính những mặt hạn chế từ con người. Đầu tiên đó là các cán bộ công chức sức ỳ còn rất lớn, họ có trình độ còn yếu nên khi luật ra đời họ thụ động chờ quyết định của cấp trên cụ thể hoá luật, triển khai thực hiện chậm và kết quả chưa đạt yêu cầu. Chưa thoát khỏi được phương thức quản lý quan liêu, bao cấp, cửa quyền. Không nhữngcán bộ mà ngay cả bản thân các doanh nghiệp họ chỉ thấy được sự thông thoáng luật nhưng lại không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ những nghĩa vụ của mình như: Công khai hoá những thông tin ban đầu về doanh nghiệp thực hiện các quyền cơ bản của các nhà đầu tư, thiết lập cơ cấu tổ chức quản lý, cơ chế hoạt động và ra quyết định các cơ quan quản lý doanh nghiệp theo đúng quy định của Luật Doanh Nghiệp ... Một số không nhỏ doanh nghiệp mới thành lập không thực hiện những nghĩa vụ đơn giản nhất của mình như không đăng báo về việc thành lập, khônh treo biển hiệu nơi đăng ký trụ sở chính, tên của doanhnghiệp trên biển hiêi viết sai so với quy định thì soạn thảo và thông qua điều lệ công ty, còn có hiện tượng giả mạo chữ ký, đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật hoặc một thành viên, cổ đông đa số đã tự ý thay đổi, bổ xung ngành nghề kinh doanh, thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện mà không báo cáo để hội đồng thành viên, hội đồng quản trị xem xét, quyết định theo đúng quy định của pháp luật. Còn các doanh nghiệp đã thành lập và hoạt động trước năm 2000 thì chưa thay đổi lại điều lệ đảm bảo đủ các quyền cơ bản của thành viên, cổ đông thiết lập cơ cấu và năng cao hiệu lực giám sát nội bộ doanh nghiệp cho phù hợp với luật doanh nghiệp. Vì vậy, cơ chế giám sát nội bộ doanh nghiệp chưa được chặt chẽ như quy định của luật. Trong cơ chế giám sát nội bộ như vậy, những người đầu tư nắm phần vốn góp lớn nắm nhiều cổ phần hoặc người điều hành hoạt động kinh doanh có thể lạm dụng quyền và vị thế được giao phục vụ lợi ích riêng hoặc tự ý đưa ra quyết định trong đoa có những quyết định chủ quan, nâng vôna mạo hiểm. Cả hai hậu quả nêu trên đã có thể đưa doanh nghiệp đến nguy cơ sụp đổ gây thiệt hại lớn đến lợi ích của người đầu tư và người liên quan. Những người đầu tư thì lại tương đối nhiều người thờ ơ với Luật Doanh Nghiệp chỉ chú ý đến việc gửi tiền vào ngân hàng, kinh doanh bất động sản hoặc om tiền lại trong nhà không đầu tư. Chưa có một xu hướng muốn kinh doanh, muốn làm giàu tự đầu tư để sản xuất chưa sử dụng quyền tự do kinh doanh của mình. Đấy chủ yếu là vấn đề tâm lý do ảnh hưởng của lối tư duy kiểu kinh tế tự nhiên,kinh tế nhỏ. Vấn đề tâm lý trên gây cản trở cho sự phát triển kinh tế cũng như cản trở việc đưa quyền tự do kinh doanh , quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh vào cuộc sống. IV) Kiến nghị : Một trong những mục tiêu của Luật Doanh Nghiệp là tiếp tục duy trì và thúc đẩy quá trình chuyển đổi nền kinh tế cùng với nó là đẩy mạnh quyền tự do kinh doanh biến nó thực sự trở thành một quyền cơ bản của con người. Để đạt được mục tiêu này thì cần tiến hành một số công việc cụ thể sau: Thứ 1, đẩy nhanh quá trình xây dựng pháp luật, hoàn thành việc rà soát lại hệ thống pháp luật để bãi bỏ những vấn đề pháp luật không có hiệu lực, bất cập đồng thời bổ xung những văn bản pháp luật còn thiếu đặc biệt là những văn bản liên quan đến Luật Doanh Nghiệp. Trong đó phải xây dựng một chương trình xây dựng pháp luật quy định rõ thời gian ban hành, cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo, ban hành. Thứ 2, tích cực chỉ đạo việc thực hiện đầy đủ triệt để Luật Doanh Nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành đồng thời tuyên truyền sâu rộng để mọi tầng lớp nhân dân hiểu được luật doanh nghiệp. đặc biệt là tầng lớp doanh nhân. Xuất phát từ thực tế của những tháng thực hiện luật doanh nghiệp, số cơ quan nhà nước đã thực hiện không đúng không đủ những quy định của luật doanh nghiệp và nhưngx văn bản hướng dẫn thi hành luật một phần vì chưa đủ văn bản hướng dẫn nhưng chủ yếu là so trinhf độ còn hạn chế và cố tình làm sai do vậy đây là vấn đề cần làm ngay. Vấn đề tuyên truyền pháp luật cũng rất quan trọng, luật đã có và rất thông thoáng nhưng để quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh thực sự đi vào cuộc sống thì không thể không có một hình thức tuyên truyền một cách hiệu quả. ở nước ta hiện nay trình độ nhận thức pháp luật còn tương đối yếu. Hoạt động của mọi người bị ảnh hưởng nhiều bởi phong tục tập quán và những thói quen do vậy vấn đề ở đây là tuyên truyền pháp luật. Nhà nước phải chỉ đạo cho các phương tiện thông tin đại chúng tích cực hơn nữa trong việc tuyên truyền pháp luật, đặc biệt là báo đài phát thanh và truyền hình. Trong các phương tiện thông tin đại chúng nước ta thì có lẽ chương trình truyền hình được mọi người yêu thích nhất xong thực tế cho thấy truyền hình nước ta chưa tuyên truyền pháp luật nhiều, chưa có nhiều chương trình tuyên truyền Không những dùng những phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta còn có thể tổ chức một cuộc thi tìm hiều về Luật Doanh Nghiệp . Pháp luật đặc biệt là Luật Doanh Nghiệp chưa đi hoàn toàn vào cuộc sống một phần cũng do đội ngũ cán bộ của ta còn tương đối yếu đặc biệt là những kiến thức về kinh doanh, quản lý kinh tế. Tuy trong những năm vừa qua các cán bộ của ta được đầu tư khá nhiều để đi học nâng cao trình độ nhưng có những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan đã khiến cho việc bồi dướng đạt kết quả chưa cao do vậy trong tình hình hiện nay chúng ta phải tiến hành rà soát lại đội ngũ cán bộ xem xét và quy định xem những người nào có đủ khả năng để nâng cao trình độ, còn lại sẽ giải quyết để về nghỉ hưu, cùng lúc đó tăng cường sử dụng tầng lớp trí thức trẻ đặc biệt là cử nhân kinh tế. Cùng với đó Thủ Tướng nên có những văn bản yêu cầu Bộ giáo dục và đào tạo nên có những biện pháp mạnh tay hơn để chấn chỉnh tình trạng học tại chức, văn bằng hai. Quyền tự do kinh doanh và quyền lụa chọn ngành nghề kinh doanh cũng không có tác dụng gì nếu không có các doanh nhân. Doanh nhân và kinh tế thị trường cùng ra đời, cùng trưởng thành. Không có doanh nhân thực thụ thì không có thị trường, đồng thời cung trong quá trình hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân, để có được quyền tự do kinh doanh và quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh để phát triển taọ môi trường cho doanh nghiệp thì cần thực hiện một số biện pháp sau: Thứ 1, đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế: Thực tế chỉ thấy rõ, thể chế nào doanh nhân ấy. Một thể chế kinh tế hợp lòng dân phù hợp với thực trạng của đất nước và quy luật phát triển của thời đại sẽ có tác dụng thúc đẩy to lớn đối với sự phát triển của một nước thúc đẩy hình thành tầng lớp doanh nhân thực thụ, nếu không cũng có thể có tác dụng ngược lại: kìm hãm sản xuất, kéo theo xã hội chậm pháp triển, đồng thời gây Thứ 2, điều chỉnh vai trò và trách nhiệm của nhà nước. Nhà nước phải là nhà nước phục vụ và những công chức trong bộ máy nhà nước dứt khoát không thể là người đứng trên doanh nghiệp, có quyền ban phát cho doanh nghiệp, đầy quyền “cho” hoặc “không cho” như trong cơ chế xin cho tràn lan trước đây. Sự chuyển biến này hiện nay chưa được nhận thức rõ ràng trong nhiều công chức, nhân viên bộ máy công quyền. Cho nên điều chỉnh lại vai trò và trách nhiệm của nhà nước đối với doanh nghiệp phải bắt đầu từ đổi mới nhận thức, từ đó mà điều chỉnh xắp xếp lại bộ máy và điều chỉnh hành vi của công chức đi đôi với việc thực thi kỷ luật hành chính thật nghiêm. Doanh nghiệp là những người làm ra của cải cho xã hội, nộp thuế để nuôi bộ máy nhà nước, đến lượt mình, bộ máy phải phục vụ lại doanh nghiệp đó là lẽ phải và mong muốn của nhà nước. Cần khắc phục thái độ của số công chức luôn nhìn doanh nhân với con mắt dè chừng, như những kẻ đã hoặc sẽ phạm tội, phải cảnh giác. Thứ 3, điều chỉnh thái độ của xã hội. Truyền thống xã hội không tôn trọng kinh doanh coi thường giới thương nhân được củng cố thêm trong cơ chế KHH tập trung quan liêu, đến nay vẫn còn ảnh hường khá nặng nề trong nhân dân. Đó là yếu tố hạn chế kinh doanh và hình thành tầng lớp doanh nhân. Vì vậy, rất cần tạo dựng môi trường xã hội, khuyến khích kinh doanh làm giàu tôn trọng doanh nhân giỏi, phân biệt những doanh nhân kinh doanh đúng pháp luật với những người kiếm tiền đưa vào lừa đảo, móc ngoặc trà đạp đạo đức kinh doanh. Cần thiết đổi mới quan điểm về kinh doanh, về “bóc lột”cũng như có nhận thức mới về doanh nhân trong điều kiện hiện nay. mà chủ doanh nghiêph thu được không chỉ gồm phần thu về theo tài sản vốn kinh doanh, mà còn phần thù lao cho lao động quản lý, cho những rủi ro gặp phải trong kinh doanh lao đông quản lí đã thực sự trở thành loại lao động phức tạp đòi hỏi sự tích luỹ chất xám và cường độ tư duy rất cao không hề đơn giản nếu muốn cho hàng hoá của mình đủ sức cạnh tranh trên thị trường rất cần được trả công xứng đáng. Rủi ro cũng không ít khi mà các yếu tố của thị trường chưa được hoàn chỉnh cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, nếu không có phần bù đắp cho những rủi ro chủ doanh nghiệp sé thiếu hàng hoá trong kinh doanh. Hơn nữa ở nước ta, cũng không thể coi hoạt động của doanh nhân đơn thuần vì mục đích lợi nhuận, mà còn thấy ở đây lòng yêu nước, tính cộng đồng của lớp doanh nhân mới. Trong số những chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp của thời đại mới, có không ít người từng làm cán bộ nhà nước, cán bộ doàn thể hoặc chiến sĩ quân đội nhiều người trưởng thành trong xã hội mới. Doanh nhân nước ta không chỉ nghĩ làm giàu cho bản thân và gia đình mà họ còn có ý thức khá sâu sắc về nhiệm vụ đối với đất nước như trong quan hệ với người lao động trong doanh nghiệp. Họ nhức nhối đau xót khi thấy đất nước có nhiều tiềm năng mà kinh tế chịu cảnh tụt hậu so với các nước xung quanh nhân dân sống quá lâu trong cảnh nghèo nàn và lạc hậu trước những tiến bộ nhanh chóng của khu vực và thế giới. Cần tạo ra sự nhìn nhận đúng đắn về doanh nhân. Tình trạng một số doanh nhân làm ăn không chính đáng là có thật, khẳng định tình trạng đó có thể được giảm bớt và khắc phục khi thị trường được tạo lập hoàn chỉnh đồng bộ, rõ ràng công khai, đặc biệt là đội ngũ công chức thực sự trong sạch, vững vàng, không có sự câu kết tiếp tay của những phần tử xấu trong bộ máy công quyền như hải quan thuế vụ. Nhà nước cần có cơ chế bảo vệ doanh nhân, khắc phục xu hướng hình sự hoá các quan hệ dân sự đang gây rối cho không ít doanh nghiệp tâm trạng không dám mạnh dạn sáng tạo, không giám chịu rủi ro. Cầm khuyến khích các hiệp hội doanh nghiệp, các loại hình câu lạc bộ, hình thành những tổ chức xã hội dân sự tự nguyện của bản thân doanh nghiệp ở đó, doanh nghiệp cùng nhau trao đổi thông tin bàn bạc giúp đỡ nhau trong kinh doanh cũng như bảo vệ quyền lợi hơpj pháp của doanh nghiệp. Nêu cao và phát huy tinh thần kinh doanh, khuyến khích các hoạt động kinh doanh trong xã hội, khuyến khích lớp trẻ đi vào kinh doanh. Hiện nay vẫn còn tâm lý học cho giỏi, đi làm cán bộ (làm quan) để có địa vị vững chắc, bổng lộc hơn người, nếu đi lầm thì vào doanh nghiệp nhà nước là nơi có nhiều ưu ái, làm việc ở đó chắc chắn hơn là vào doanh nghiệp dân doanh. Cần coi các hoạt động kinh doanh tạo ra nhiều của cải cho xã hội, tạo ra nhiều lợi nhuận không phải là cái gì xấu xa, mà lợi nhuận chính là nguồn gốc hạnh phúc của mỗi người và sự giàu có của toàn xã hội, từ đó doanh nhân cần được xã hội quý trọng sự tôn trọng thực sự đối với họ không chỉ trên lời nói mà phải được thể hiện qua các việc làm cụ thể qua các giải pháp hà khắc phục phiền hà, tận tình hướng dẫn giúp đỡ họ kinh doanh. Kết luận Qua 15 năm đổi mới quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh ngày càng được củng cố trong cả lý luận và thực tiễn. Cùng với sự phát triển từ “luật doanh nghiệp tư nhân “ ,”luật công ty” đến “ luật doanh nghiệp” thì quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh từ chỗ bị hạn chế nhiều đến chỗ được mở rộng hơn và ngày càng được hoàn thiện. là một sinh viên kinh tế, việc nắm rõ vấn đề quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh không chỉ là nghiên cứu thông thường mà nó có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, nó giúp ta có cách nhìn đúng đắn hơn về tự do kinh doanh, quyền của nhà kinh doanh có sự lựa chọn ngành nghề phù hợp , đúng pháp luật. Sau một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu tôi đã hoàn thành đề tài ”Quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh” . Danh mục tài liệu tham khảo 1.Luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân(21/12/1991. 2.Luật doanh nghiệp (12/6/1999). 3.Hiến pháp (1992). 4. Công báo. 5. Tạp chí dân chủ pháp luật. 6. Thời báo kinh tế sài gòn. 7.Tạp chí nghiên cứa kinh tế. 8. Giáo trình Luật kinh tế (Đại học luật). 9.Văn kiện đại hội Đảng IX . 10. Tổng kết 10 tháng thực hiện Luật doanh nghiệp. ---------------------------------------- Mục lục Lời nói đầu Nội dung I: Những vấn đề lý luận chung. 1/ Nền kinh tế thị trường và quyền tự do kinh doanh. 2/ Thế nào là quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh. II: Quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh trong “luật doanh nghiệp tư nhân” và “luật công ty”. 1/ Những vấn đề pháp lý. 2/ Thực trạng. III: Quyền tự do kinh doanh và quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh trong” luật doanh nghiệp”. 1/ Tính tất yếu của sự ra đời luật doanh nghiệp. 2/ Những vấn đề pháp lý mới. 3/ Thực trạng. IV: Kiến nghị. Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV069.doc
Tài liệu liên quan