Luận văn Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu góp phần phát triển kinh tế Lào để làm thạc sỹ của mình trong khoá học tại Việt Nam

Hoàn thiện chớnh sỏch thuế nhập khẩu gúp phần phỏt triển kinh tế Lào để làm luận văn thạc sỹ của mỡnh trong khoỏ học tại Việt NamMỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong xu thế toàn cầu húa kinh tế hiện nay, Cộng hũa Dõn chủ Nhõn dõn Lào đang từng bước chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cú sự quản lý của Nhà nước. Nhằm theo kịp với trỡnh độ phát triển của các quốc gia lớn và để chuyển đổi nền kinh tế hiệu quả, hoàn thiện và minh bạch chính sách thuế trong công tác nhập khẩu là một nội dung cực kỳ quan trọng. Chính sách thuế nhập khẩu có hoàn thiện mới thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại quốc tế phỏt triển. Kinh tế thương mại quốc tế phát triển sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trang bị kỹ thuật phục vụ quá trỡnh cụng nghiệp húa - hiện đại húa đất nước. Như vậy, hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu là một đũi hỏi đang rất cần thiết và tất yếu tại Cộng hũa Dõn chủ Nhõn dõn Lào. Chớnh vỡ vậy, tụi đó lựa chọn đề tài: Hoàn thiện chớnh sỏch thuế nhập khẩu gúp phần phỏt triển kinh tế Lào để làm luận văn thạc sỹ của mỡnh trong khoỏ học tại Việt Nam. 2. Mục đích nghiên cứu: - Nghiờn cứu những vấn đề lý luận cơ bản về chớnh sỏch thuế nhập khẩu tại Cộng hũa Dõn chủ Nhõn dõn Lào. - Phân tích, đánh giá thực trạng chớnh sỏch thuế nhập khẩu tại Cộng hũa Dõn chủ Nhõn dõn Lào. - Đề xuất cỏc giải phỏp nhằm hoàn thiện chớnh sỏch thuế nhập khẩu tại Cộng hũa Dõn chủ Nhõn dõn Lào. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: nghiờn cứu chớnh sỏch thuế nhập khẩu. - Phạm vi nghiờn cứu: tại Cộng hũa Dõn chủ Nhõn dõn Lào, trong khoảng thời gian từ năm 2000 – 2006. 4. Phương pháp nghiên cứu: Trờn cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trỡnh nghiờn cứu là: phương pháp thu thập, thống kê, tổng hợp số liệu, so sánh và phân tích kinh tế. 5. Những đóng góp của luận văn: - Hệ thống húa những vấn đề cơ bản về chính sách thuế nhập khẩu. - Phõn tớch thực trạng chớnh sách thuế nhập khẩu tại CHDCND Lào, từ đó tỡm ra những mặt mạnh, điểm yếu và nguyên nhân hạn chế của chính sỏch thuế nhập khẩu tại CHDCND Lào. - Đưa ra một số giải phỏp nhằm hoàn thiện chớnh sỏch thuế nhập khẩu gúp phần phỏt triển kinh tế Lào. 6. Kết cấu của luận văn: Kết cấu luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Chính sách thuế nhập khẩu và tác động của nó đến sự phát triển nền kinh tế. Chương 2: Thực trạng chớnh sỏch thuế nhập khẩu của Lào từ năm 2000 đến nay. Chương 3: Giải phỏp hoàn thiện chớnh sỏch thuế nhập khẩu tại CHDCND Lào.

doc88 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1760 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu góp phần phát triển kinh tế Lào để làm thạc sỹ của mình trong khoá học tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập khẩu một lần theo bài phân tích kinh tế và kế hoạch cần thiết có sự thừa nhận của các ngành liên quan hoặc ban kế hoạch và đầu tư. Đầu tư với sự nhập khẩu tiếp theo phải nộp thuế theo Luật thuế và thuế má. Chính sách miễn thuế, thuế tiêu dùng và thuế số doanh nghiệp nhập khẩu các phương tiện phục vụ cho sản xuất và dịch vụ trực tiếp. 2.2.3. - Những hạn chế chính sách thuế nhập khẩu của Lào hiện nay: Trước yêu cầu của tình hình mới phải tạo ra được nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là bố trí lại cơ cấu kinh tế, tăng cường mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế đối ngoại song phương và địa phương với các nước, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu. Do đó, thuế nhập khẩu đã bộc lộ những hạn chế sau: Một là, thuế nhập khẩu của Lào hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu. Điều nay được thể hiện trên các mặt sau: - Thuế nhập khẩu hiện nay với chức năng bảo vệ cho sản xuất trong nước đã thường xuyên được điều chỉnh thuế suất cho phù hợp với những mặt hàng trong nước đã sảu được. Do đó đã góp phần hỗ trợ tích cực cho sản xuất trong thời kỳ đầu phát triển. Nhưng điều này cũng đã tạo ra những lêch lạc trong định hướng đầu tư trong nước, đặc biệt là trong thu hút đầu tư nước ngoài. Trong những năm qua, đầu tư nước ngoài đã được thu hút vào những ngành sản xuất ra các sản phẩm có mức thuế bảo hộ cao, phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong nước chứ không nhằm chủ yếu vào xuất khẩu. Do tổ chức quản lý, điều hành xuất nhập khẩu còn nhiều yếu kém, nên có tình trạng khoảng 50% sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không xuất khẩu, mà cung ứng vào thị trường nội địa và đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước trong việc tiêu thụ sản phẩm. Do đó chưa thực sự góp phần tăng tiềm lực xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Lào và đẩy nhanh được khả năng thâm nhập thị trường thế giới của hàng Lào, gây lãng phí trong sử dụng nguồn vốn này. Trong điều kiện thục hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, hội nhập với các nền kinh tế thế giới và khu vực, chức năng bảo vệ sản xuất trong nước của thuế nhập khẩu cần được thay đổi văn bản với thời kỳ trước đây. Cũng như nhiều nước trên thế giới đã sử dụng thuế nhập khẩu để bảo vệ cho sản xuất trong nước đối với mọi ngành sản xuất trong nước. Trong điều kiện hội nhập chúng tôi cho rằng cần xác định rõ quan điểm thuế nhập khẩu lựa chọn để bảo vệ, hỗ trợ những ngành sản xuất có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu trong khu vực cũng như trên thế giới. Thuế nhập khẩu phải góp phần tích cực vào việc bố trí lại cơ cấu, định hướng phát triển các ngành kinh tế phù hợp với mục tiêu đã đề ra. - Thuế nhập khẩu hiện nay có chức năng hướng dẫn tiêu dùng trong nước và tạo nguồn thu quan trọng cho NSNN nên mức thuế của nhũng mặt hàng tiêu dùng này đã được để ở mức cao. Từ biểu thuế và thuế suất hiện hành ta thấy, chính sách thuế nhập khẩu của Lào còn nặng về mục tiêu thủ, chưa chú ý đúng mức đến mục tiêu khuyến khích và quản lý nhập khẩu. Mức thuế nhập khẩu cao cũng là một khó khăn trong việc phải tính toán thực hiện giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết giảm thuế với các nước và các tổ chức kinh tế như Hoa kỳ, ASEAN… Theo chúng tôi, chức năng hướng dẫn tiêu dùng và động viên nguồn thu chủ yếu cho ngân sách không phải là chức năng của thuế nhập khẩu.Vì vậy, cần được chuyển cho loại thuế có chức năng này là thuế tiêu thụ đặc biệt. Biểu thuế nhập khẩu hiện nay có quá nhiều mức. Quy định này có ưu điểm là bảo hộ đến từng doanh nghiệp hoặc từng nhóm doanh nghiệp sản xuất nhưng lại làm cho biểu thuế quá phức tạp gây khó khăn trong quản lý thuế nhập khẩu, đặc biệt làm cho biểu thuế mất tính trung lập. Từ đó tạo ra sức ỳ của các doanh nghiệp trong cải tiến công nghệ, đổi mới thiết bị, không phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng NDCM Lào. Những hạn chế nêu trên là những điểm tồn tại chủ yếu của chính sách thuế nhập khẩu. Hịên nay so với yêu cầu thuế phải là một công cụ góp phần định hướng và hỗ trợ cho các ngành kinh tế thực hiện mục tiêu nông nghiệp hóa hướng về xuất khẩu mà đảng chdcnd Lào đã đề ra. Đây chính là những lý do cơ bản để đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung Luật thuế nhập khẩu hiện hành. Hai là, chính sách thuế nhập khẩu của Lào chưa đảm bảo được sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Với sự tham gia đa thành phần trong hoạt đồng nhập khẩu hiện nay, không chỉ gồm chủ yếu là các xú nghiệp quốc doanh, tổ chức nhà nước như trước đây mà gồm cả tư nhân, đặc biệt là sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào hoạt động nhập khẩu đã tăng lên một cách nhanh chóng. Song chính sách thuế nhập khẩu của Lào chưa được hoàn thiện thích ứng với tình hình này. Cho đến nay, sự khác biệt về các chế độ nhập khẩu giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp ngoài nước còn rất lớn. Chẳng hạn, đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài việc nhập khẩu máy móc, thiết bị để hình thành doanh nghiệp được miễn thuế. Còn đối với các doanh nghiệp trong nước, nhập khẩu máy móc, thiết bị để hình thành doanh nghiệp lại phải đóng thuế. Như vậy, các doanh nghiệp trong nước vốn thì không lớn, khả năng cạnh tranh yếu lại phải đóng thuế. Đây là mâu thuẫn cần xem xét, giải quyết càng sớm càng tốt. Hiện nay, chủ yếu thực hiện hoạt động nhập khẩu do các doanh nghiệp nhà nước trực tiếp đảm nhận, các doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế khác chủ yếu làm đạo lý cho doanh nghiệp Nhà nước trong hoạt đọng nhập khẩu. Đây cũng là vấn đề bức xúc cần được giải quyết trong chính sách nhập khẩu. Ba là, chính sách thuế nhập khẩu của Lào chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời với việc mà Lào đã và đang chuẩn bị tham gia các tổ chức mậu dịch khu vực và thế giới, chính sách thuế nhập khẩu cũng đã bộc lộ những điểm tồn tại cần phải sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu vừa tăng cường, nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động nhập khẩu, phù hợp với thực tế của Lào, thông lệ quốc tế vừa tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, khuyến khích tối đa xuất khẩu. Những tồn tại đó là: Theo Luật thuế hiện hành, thuế suất đối với hàng nhập khẩu gồm thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi. Thuế suất ưu đãi được áp dụng cho hàng XNK với các nước có ký kết điều khỏan ưu đãi trong quan hệ buôn bán với Lào với điều kiện phải ghi rõ từng mặt hàng với số lượng cụ thể và mức thuế ưu đãi được xác định theo từng nước cụ thể. Hiện nay lào đã ký kết Hiệp định thương mại với nhiều nước, trong đó đều có điều khỏan giành cho nhau ưu đãi tối huệ quốc về thuế nhập khẩu nhưng không ghi rõ từng mặt hàng với số lượng cụ thể. Vì vậy trên thực tế chưa áp dụng được thuế suất ưu đãi với bất cứ nước nào. Quy định về thuế suất ưu đãi tính song phương như vậy là không phù hợp với thông lệ quốc tế về thuế suất ưu đãi tối huệ quốc. Theo quy định của GATT thì ưu đãi tối huệ quốc là việc một nước giành cho nước khác ưu đãi, trừ những ưu đãi khu vực hoặc ưu đãi mà các nước có chung biên giới giành cho nhau. Việc Lào gia nhập ASEAN và sắp tới là APEC, WTO đều đòi hỏi phải có quy định này để tạo thuận lợi cho việc thực hiện các cam kết quốc tế cũng như được hưởng ưu đãi từ những cam kết này. Hiện nay với ASEAN Lào đã ký Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung và đã ký với cộng đồng châu âu nghị định thư về giảm thuế nhập khẩu đối với một số nhóm mặt hàng dệt may. Như vậy, với các khối nước này ngoài hai mức thuế nhập khẩu nêu trên cần phải hình thành một mức thuế nữa, đó là mức thuế ưu đãi đặc biệt. Thực tế của hoạt động nhập khẩu vừa qua đã có tình trạng hàng hóa của các nước khác bán phá giá vào Lào hoặc hàng xuất khẩu của Lào bị nước khác áp dụng chính sách phân biệt đối xử khi nhập khẩu vào nước đó nhưng chúng ta chưa có được các biện pháp đối phó phù hợp, thoả đáng vì luật thuế nhập khẩu chưa có quy định này. Biện pháp duy nhất mà chúng ta có thể áp dung được là nâng mức thuế nhập khẩu của hàng đó lên. Nhưng vì mức thuế của biểu thuế chung nên mức thuế này cũng được áp dụng chung cho các nước khác, do đó vừa không thể hiện được chính sách của lào đối với những hành động cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại, vừa ảnh hưởng đến nhập khẩu của Lào với các nước khác. Luật thuế nhập khẩu hiện hành quy định giá tính thuế là giá CIF đối với hàng nhập khẩu, đồng thời cũng quy định áp dụng giá tính thuế tối thiểu đối với trường hợp hàng xuất khẩu có giá ghi trên hợp đồng quá thấp hoặc trường hợp hàng nhập khẩu phi mậu dịch không có giá mua, chống trốn lậu thuế qua giá nhưng cũng đã gây ra những trở ngại, tiêu cực trong sản xuất và kinh doanh nhập khẩu do tính thuế được quy định quá chi tiết cho từng mặt hàng chỉ có sự khác biệt nhỏ, nhưng lại không đầy đủ cho tất cả các mặt hàng nhập khẩu phải áp dụng giá tính thuế tối thiểu và đối với một số mặt hàng giá tính thuế được giao cho hải quan tỉnh, thành phố quy định thì lại không đồng nhất ở các cửa khẩu. Ngoài ra việc áp dụng giá tính thuế tối thiểu như hiện nay, chưa phù hợp với quy định quốc tế mà Lào đã và sẽ phải cam kết thực hiện khi gia nhập ASEAN cũng như trong Hiệp định thương mại với Hoa kỳ. Đó là quy định của Hiệp định xác định trị giá hải quan theo GATT. Theo quy định của Hiệp định này thì trị giá hải quan, tức là giá tính thuế sẽ là giá mua bán theo hợp đồng trong điều kiện mua bán thông thường với những quy định thực chất mỗi quan hệ giữa người bán và người mua và các điều kiện so sánh giá khác nếu không thể xác định được giá mua bán thực của hàng hóa trong điều kiện thông thường. Việc miễn thuế nhập khẩu đối với hàng chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục, đào tạo trong thời gian qua đã cho thấy thực tế rất khó xác định hàng nhập khẩu chuyên dùng cho những đối tượng này. Bởi vì trừ một số mặt hàng đặc biệt như vũ khí, khí tài quân sự còn phần lớn các mặt hàng khác đều có thể dùng cho cả những đối tượng khác, làm cho thủ tục xét miễn thuế phúc tạp nhưng vẫn không đảm bảo được sự chính xác, chặt chẽ, dễ dẫn đến lợi dụng trốn thuế. Chính sách bảo hộ mậu dịch thông qua các công cụ và biện pháp thuế , phi thuế quan và những qui định tiêu chuẩn kỹ thuật được sử dụng chưa hiệu quả trong việc điều tiết và quản lý các hoạt động nhập khẩu. Tình trạng đánh thuế cao hoặc quá cao đối với các mặt hàng nhập khẩu, việc buôn lỏng trong tổ chức quản lý, điều hành nhập khẩu đã làm cho các hàng hóa nước ngoài tràn vào lấn át hàng trong nước, đẩy xu hướng buôn lậu, trốn thuế gia tăng, làm cho hàng hóa sản xuất trong nước không thể cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài (trong đó có hàng nhập lậu) và gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp. Hiện nay, vấn đề buôn lậu trở nên nghiêm trọng và gây tác hại lớn về nhiều mặt đối với nền kinh tế, nhất là ở các cửa khẩu biên giới Lào – Thái Lan. Theo số liệu của Tổng cục thuế, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2001. Lực lượng quản lý thị trường đã kiểm tra 40000 vụ buôn bán và đã xử lý 37000 vụ trong đó có 33000 vụ buôn lậu, gần 100 vụ san xuất kinh doanh hàng giả, hàng chất lượng kém, thu nộp ngân sách 3007 tỷ KIP, hỗ trợ ngành thuế trưng thu gần 1350 tỷ KIP, khoảng 1720 tỷ bao xe ôtô ngoại nhập lậu, gỗ, hàng trăm tấn động vật hoang đã, quý hiếm…Đặc biệt là tình hình buôn lậu chất nổ, vũ khí, thuốc phiện ở tỉnh Phông sa li, Bo keo, Sa văn na khệt… Như vậy, chúng ta có thể đi tới nhận xét: Thuế nhập khẩu là thuế có tầm quan trọng đối với các nước đang phát triển trong đó có Lào. Thông qua thuế nhập khẩu mà nhà nước thực hiện điều tiết sản xuất và tiêu dùng, tăng thu ngân sách. Hội nhập kinh tế đặt ra yêu cầu mới đối với chính sách thuế nhập khẩu, đòi hỏi Lào phải nới lỏng đi đến giảm thiểu hàng rào thuế quan và phi thuế quan để cho hàng hóa Lào trong khối tự do lưu thông trên thị trường của các nước thành viên. Trước yêu cầu đó chính sách thuế nhập khẩu phải thay đổi, hoàn thiện nhiều mặt như: giảm số mức thuế suất và mức thuế cao nhất theo quy định chung của khói kinh tế, giảm thuế suất đối với những nguyên liệu đầu vào, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất trong nước, tạo sức mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp, phân biệt đối xử và chống lại thình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong nhập khẩu với hàng hóa nước ngoài… Thực tế những năm đổi mới vừa qua Lào đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng và từng bước hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu. Điều đó đã góp phần tích cực thúc đẩy xuất nhập khẩu, tăng thu ngân sách, điều tiết tiêu dùng. Tuy vậy, trong lĩnh vực chính sách này còn nhiều điều chưa phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện hội nhập, chưa bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, chưa phù hợp với chiến lược thúc đẩy xuất khẩu, mức thu còn cao và biểu thuế quá nhiều thuế suất làm phức tạp quá trình thực hiện. Thêm vào đó, những bất cập trong tổ chức thực thi đang làm giảm hiệu quả hoạt đông nhập khẩu. Tất cả những hạn chế của chính sách thuế nhập khẩu hiện hành đang gây trở ngại ách tắc cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Vì vậy, để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, điều tiết nhập khẩu, trong điều kiện hội nhập với các nền kinh tế khu vực và thế giới, cần thiết phải bổ sung, hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở CHDCND Lào. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP HÒAN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU TẠI CHDCND LÀO 3.1. Những phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện thuế nhập khẩu của Lào 3.1.1 - Chính sách thuế nhập khẩu phải phù hợp với mục tiêu xây dựng nền kinh tế. Chính sách thuế nhập khẩu phải phù hợp với mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa , với chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, chính sách thuế nhập khẩu của thời kỳ này sẽ phải đạt được yêu cầu là công cụ định hướng và hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế của Lào được xác định là có lợi thế cạnh tranh trong thương mại khu vực và thế giới, bảo vệ có chọn lọc, hợp lý, không còn là công cụ bảo vệ sản xuất trong nước chung chung như trước đây. Thuế nhập khẩu cũng sẽ không còn có chức năng hướng dẫn tiêu dùng và tăng thu cho ngân sách, mà chức năng này sẽ được chuyển cho thuế TTĐB. Phù hợp với mục tiêu này, biểu thuế nhập khẩu cần chia theo các cấp độ bảo hộ của từng loại hàng hóa. Nhưng hàng hóa được bảo hộ ở mức cao nhất sẽ là những hàng hoá chúng ta đang và sẽ có lợi thế cạnh tranh với các nước. Những hàng hóa không cần bảo hộ là những hàng hóa chưa sản xuất được ở trong nước. Tuỳ theo mức độ khả năng cạnh tranh khác nhau mà các hàng hóa còn lại sẽ được chia cấp độ bảo hộ tiếp theo. Các cấp độ bảo hộ phải đảm bảo phù hợp với những cam kết quốc tế. Việc thiết kế bỉêu thuế đơn giản ít mức thuế xuất, tạo thuận lợi cho quản lý thuế cũng như làm cho biểu thuế có tính trung lập khuyến khích các doanh nghiệp cải tiến công nghệ, đổi mới trang thiết bị nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế trong giai đoạn tới. 3.1.2 - Chính sách thuế nhập khẩu phải đảm bảo nguồn thu ngân sách. Phù hợp với mục tiêu này chính sách thuế nhập khẩu cần sửa đổi, bổ sung những quy định về giá tính thuế, kê khai, nộp thuế, thời hạn nộp thuế một cách rõ ràng, chặt chữ tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng xác định được nghĩa vụ thuế của mình và thực hiện việc nộp thuế đầy đủ nghiêm túc theo đúng Luật định. Đồng thời phải tiếp tục hoàn thiện việc tổ chức, quản lý thực hiện chính sách thuế nhập khẩu, giảm thiếu những phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động nhập khẩu, góp phần tăng thu NSNN và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của quốc gia. 3.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của CHDCND Lào: Xuất phát từ phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu cần được sửa đổi hoàn thiện về những nội dụng sau đây: 3.2.1- Giá tính thuế: Điều quan trọng trong chính sách, Luật thuế nhập khẩu là căn cứ tính thuế và thuế suất. Căn cứ tính thuế nhập khẩu hiện hành là dựa vào: 1. Số lượng từng mặt hàng ghi trong tờ khai hàng nhập khẩu 2. Giá tính thuế 3. Thuế suất của từng mặt hàng Hiện nay chúng ta quy định giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu nhập, kể cả chi phí vận tải, phí bảo hiểm theo hợp đồng. Trong trường hợp hàng nhập khẩu theo phương thức khác hoặc giá ghi trong hợp đồng quá thấp so với giá mua thực tế tại cửa khẩu thì giá tính thuế là do chính phủ quy định. Ở đây có một số điểm cần trao đổi để tiếp tục hoàn thiện: Một là, trong điều kiện hội nhập về giá tính thuế cần phù hợp với Hiệp định xác định trị giá Hải quan theo tổ chức Thương mại quốc tế (WTO). Hai là, vấn đề còn gây tranh cãi nhiều hiện nay là sự chênh lệch giá hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa tại cửa khẩu. Theo Luật hiện hành nếu giá ghi trên hợp đồng quá thấp so với giá mua thực tế tại cửa khẩu thì giá tính thuế là giá do chính phủ quy định. Chính phủ quy định như vậy gây ra khó khăn trong hoạt động thực tế nhập khẩu, dẫn đến những tuỳ tiện trong việc thi hành Luật thuế nhập khẩu đối với những mặt hàng thuộc loại này. 3.2.2 - Về biểu thuế và thuế suất: Cùng với giá tính thuế, thì biểu thuế và thuế suất là những nội dung rất căn bản của căn cứ tính thuế nhập khẩu. Mục tiêu, nguyên tắc xây dựng biểu thuế nhập khẩu trong thời gian tới theo chúng ta, cần đáp ứng được những vấn đề sau đây: - Thuế nhập khẩu phải bảo hộ hợp lý cho sản xuất trong nước, khuyến khích nội địa hóa các sản phẩm Lào có lợi thế. - Vừa đảm bảo phù hợp với các yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, vừa đảm bảo lợi ích quốc gia trong việc thực hiện các cam kết thương mại và đầu tư nước ngoài - Phải đảm bảo đơn giản, thuận tiện cho quản lý thuế. Với những mục tiêu, nguyên tắc đó, việc hoàn thiện thuế nhập khẩu cần hướng vào những nội dung sau đây: 1. Giảm bớt số mức thuế nhập khẩu và mức thuế cao nhất Để phù hợp với yêu cầu hội nhập chúng ta phải giảm dần mức thuế cao nhất và giảm số lượng mức thuế. Về lâu dài mức thuế phù hợp với yêu cầu AFTA là 0-5%, nhưng trước mắt chúng tôi phải giảm dần, song đối với các mặt hàng Nhà nước Lào không có tiềm năng lợi thế và chưa có khả năng sản xuất trong những năm sắp tới, những mặt hàng là nguyên liệu vật tư quan trọng và chủ yếu cho sản xuất của các ngành có thế mạnh cạnh tranh và xuất khẩu hoặc là thiết bị đặc biệt chuyên dùng cho các ngành quốc phòng, an ninh, y tế, giao thông, nông nghiệp cần xây dựng các mức thuế nhập khẩu thấp hơn mức bảo hộ. trong những năm trước mắt, để phù hợp với điều kiện nước Lào nên quy định khoảng 3 mức thuế là 0%, 3% và 5%. Lâu dài có thể giảm xuống 1 đến 2 mức thuế. Các mặt hàng dự kiến có thay đổi mức thuế suất thuế nhập khẩu thuộc 3 nội dung sau: Các mặt hàng có thay đổi theo hướng tăng mức thuế suất thuế nhập khẩu: thuộc nội dung này là các mặt hàng Lào có thể mạnh cạnh tranh và xuất khẩu được, cần quy định mức thuế nhập khẩu cao để hỗ trợ tối đa cho sản xuất trong nước mà hiện nay mức thuế nhập khẩu quy định còn thấp nên chưa khuyến khích đầu tư sản xuất các mặt hàng này tại Lào, ví dụ: các mặt hàng: thịt nội của động vật dùng làm thực phẩm sữa và sản phẩm sữa, máy móc thiết bị điện tử… Các mặt hàng có thay đổi theo hướng giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu bao gồm: các mặt hàng giảm thuế nhập khẩu để tăng thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc chuyển sang thu thuế tiêu thụ đặc biệt, ví dụ như các mặt hàng: ôtô, xăng, đầu video chạy bằng đĩa hình. Các mặt hàng giảm thuế nhập khẩu do mức thuế nhập khẩu hiện hành quy định cao quá mức cần thiết. Đây là các mặt hàng Lào chưa đủ mạnh để cạnh tranh và xuất khẩu hoặc sản xuất trong nước còn nhỏ bé, thủ công, phân tán. Ví dụ: gạch chịu lửa; đồ kỹ nghệ, mỹ nghệ cằng vàng bạc, vải mẽ, giấy nền sản xuất, giấy nhôm … Các mặt hàng có thay đổi (tăng, giảm) mức thuế suất thuế nhập khẩu do thực hiện rút gọn số lượng mực thuế suất. 2. Biểu thuế và thuế suất nhập khẩu phải phù hợp với các quy định quốc tế mà nước Lào đã và sẽ cam kết thực hiện. Để áp dụng trong những trường hợp khác nhau tùy thuộc vào mức độ quan hệ thương mại giữa Lào với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, phù hợp với các quy định quốc tế mà nước Lào cam kết, chính sách thuế nên quy định 3 loại thuế suất đối với hàng nhập khẩu đó là thuế suất phổ thông, thuế suất ưu đãi chung và thuế suất ưu đãi đặc biệt. Thuế suất phổ thông áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước không có thỏa thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Lào. Thuế suất ưu đãi chung áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước có thỏa thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với nước Lào. Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước mà nước Lào và nước đó có thoả thuận ưu đãi về thuế nhập khảu theo thể chế khu vực thương mại tự do hoặc thương mại biên giới. Với tinh thần như vậy, thuế suất phổ thông cao hơn thuế suất ưu đãi chung và thuế suất ưu đãi chung cao hơn thuế suất ưu đãi đặc biệt: Có nghĩa là thuế suất phổ thông nhỏ hơn thuế suất ưu đãi chung và thuế suất ưu đãi chung nhỏ hơn thuế suất ưu đãi đặc biệt 3. Cần xác định rõ mức thuế nhập khẩu tạm thời cho các loại hàng hóa đặc biệt. Trong Luật thuế hiện hành chúng ta chưa có quy định về mức thuế tạm thời đối với một số loại hàng hóa nhập khẩu mà giá bán của nước xuất khẩu quá thấp so với giá thành của hàng hóa nhằm gây rối hoặc có tính chất đe dọa sự phát triển sản xuất của chúng ta. Vì vậy, cần thiết phẩi có quy định về thuế suất tạm thời nhằm chống lại tình trạng bán phá giá, hoặc trợ giá để nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Có thể nêu lên 3 trường nợp áp dụng các mức thuế nhập khẩu tạm thời sau đây: Một là, hàng hóa nhập khẩu mà giá bán của nước xuất khẩu thấp hơn mức giá bán thông thường và việc nhập khẩu hàng hóa này đe dọa hoặc làm tổn thương ngành công nghệp trong nước có sản xuất hàng hóa tương tự; hoặc việc nhập khẩu hàng hóa này có thể cản trở sự thành lập ngành công nghệp trong nước sản xuất hàng hoá tương tự. Trong trường hợp này chúng ta áp dụng mức thuế suất chống bán phá giá. Mức thuế này được tính ở mức cao. Hai là, những hàng hóa được các nước xuất khẩu đảm bảo dành cho sự trợ cấp, do đó giá bán hàng nhập khẩu vào nước Lào thấp hơn với giá thực tế ở các nước đó. Thêm vào đó việc nhập những hàng hóa này là nguyên nhân đe dọa hoặc làm tổn thương ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa tương tự hoặc gây cản trở cho sự thành lập ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá tương tự của Lào. Trong trường họp này chúng ta cần phải áp dụng mức thuế chống trợ cấp. Ba là, đối với những hàng hóa nhập khẩu mà nước đó áp dụng sự phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu hoặc những biện pháp đới xử khác đối với hàng hóa sản xuất ở Lào. Trong các trường hợp này, cần áp dụng mức thuế đối kháng. Như vậy, các mức thuế nhập khẩu tạm thời là những biện pháp đối phó linh hoạt, tạm thời đối với những hành động cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế. Việc áp dụng mức thuế này tạo điều kiện bảo hộ cho việc phát triển các ngành công nghiệp đang sản xuất hàng hoá tương tự hoặc tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá tương tự ra đời và phát triển. 3.2.3 - Về vấn đề miễn thuế, giảm thuế Nước CHDCND Lào đang mở cửa thị trường, thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển, trong chính sách thuế nhập khẩu, Lào đã có quy định xét miễn, giảm thuế cho một số trường hợp. Chẳng hạn như Luật thuế nhập khẩu hiện hành đã quy định miễn thuế những trường hợp sau: 1. Hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo. 2. Hàng nhập khẩu của xí nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài và của bên ngoài hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh trong từng trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư. 3. Hàng là quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân nước ngoài cho tổ chức, cá nhân lào và ngược lại, trong mức quy định của chính phủ. Việc quy định như vậy là cần thiết song chưa thật cụ thể vì “trong trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư” là rất khó đo lường. Vì vậy, chúng ta cho rằng trong việc quy định miễn thuế nhập khẩu cần ghi rõ hơn đối với những hàng hóa liên quan tới khuyến khích đầu tư nước ngoài, phục vụ liên doanh liên kết. Ở đây, theo chúng tôi, nhà nước nên quy định miễn thuế cụ thể đối với những trường hợp sau đây: - Hàng hóa là thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ nhập khẩu vào Lào để tạo tài sản cố định của doanh nghệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc để tạo tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc mở rộng quy mô dự án đầu tư và phương tiện vận chuyển nhập khẩu phục vụ đưa đón công nhân làm việc. - Hàng hóa là máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải do các nhà thầu nước ngoài hoặc các nhà đầu tư nước ngoài mang vào Lào để phục vụ thi công công trình dự án ở Lào và được tái xuất khẩu khi hoàn thành công trình theo thời hạn đã đăng ký với nhà nước cũng cần được xét miễn thuế nhập khẩu. Một trong những vướng mắc khác hiện nay của thủ tục miễn, giảm thuế là vấn đề hoàn thuế. Trong việc hướng dẫn thực hiện có quy định rõ vấn đề này, song trong quá trình thực hiện vẫn còn gây nhiều khó khăn, phiền hà đối với những người trực tiếp nhập khẩu. Để nhận được số thuế hoàn người ta phải mất nhiều thời gian và qua nhiều thủ tục phiền hà. Vì vậy việc thủ tục hoàn thuế cần đơn giản hơn cho người được hoàn thuế nhập khẩu. 3.2.4 - Thực hiện đồng bộ thuế nhập khẩu với thuế tiêu thụ đặc biệt và các sắc thuế khác. Cho đến nay, do trình độ phát triển của nền kinh tế Lào ở mức độ còn thấp, các ngành kinh tế chưa đạt được trình độ phát triển đồng đều thể hiện ở những mức độ khác nhau về hiệu quả sản xuất và tỷ lệ lợi nhuận, đòi hỏi phải có những mức độ khác nhau về sự trợ giúp của nhà nước, về bảo hộ, về điều tiết. Trong điều kiện như vậy, chính sách thuế bị chi phối và chưa thể tính toán các mức thuế suất dựa trên mức lợi nhuận bình quân trong các ngành. Chẳng hạn đối với thuế lợi tức, chúng ta áp dụng các mức thuế suất khác nhau cho các ngành sản xuất trong nước. Việc tham gia vào quá trình hội nhập đòi hỏi chúng tôi phải xây dựng một hệ thống thuế trung lập thể hiện rõ nhất ở việc đơn giản hóa các mức thuế để có thể tạo điều kiện phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh lớn, có thể đạt được hiệu quả sản xuất cao, có khả năng cạnh tranh được với hàng hoá các nước. Một hệ thống thuế trung lập và rõ ràng sẽ tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư trong nước. Việc đơn giản hoá các mức thuế suất này cần được thực hiện cụ thể đối với từng sắc thuế như sau: Đối với thuế nhập khẩu, như đã chỉ ra ở trên, cần giảm số lượng các mức thuế suất khác nhau trong biểu thuế hiện hành từ 11 mức xuống còn khoảng 5 mức trong năm 1998. Việc đơn giản hóa biểu thuế này sẽ tạo điều kiện quản lý thuế tốt hơn. Đồng thời với việc giảm mức thuế, chúng tôi đã đề nghị giảm dần các thuế suất. Việc đó tất nhiên ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách. Do vậy, cần nhanh chóng mở rộng diện chịu thuế TTĐB, áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp… Phương án mở rộng diện chịu thuế TTĐB cũng là phù hợp với thông lệ chính sách thuế đối với thông lệ chính sách thuế đối với hàng nhập khẩu của các nước ASEAN. Đa số các nước ASEAN đều áp dụng cả 2 loại thuế đối với hàng nhập khẩu: thuế nhập khẩu, thuế TTĐB. Phương án này cũng phù hợp với khuyến nghị cải cách thuế của Lào mà IMF đưa ra trong điều kiện Lào giảm dần các mức thuế nhập khẩu để phù hợp với xu hướng tiến tới tự do hoá thương mại. Trên thực tế trong thời gian qua chúng ta đã bước đầu thực hiện có kết quả cải cách thuế theo hướng này. 3.2.5 - Xóa bỏ những phân biệt trong chính sách thuế nhập khẩu, đảm bảo sự bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Phù hợp với mục tiêu này, trong việc xây dựng chính sách thuế nhập khẩu cần quán triệt nguyên tắc là tạo điều kiện để mọi thành phần kinh tế trực tiếp tham gia hoạt động nhập khẩu. Như đã nói hiện nay thực hiện trực tiếp hoạt động nhập khẩu chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước. Các đơn vị kinh doanh tư nhân, các hộ cá thể, các thành phần kinh tế khác chủ yếu làm đại lý hoặc thực hiện ủy thác trong lĩnh vực này. Có hai nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Một là, các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh chủ yếu là những đơn vị kinh doanh nhỏ.Vì vậy khả năng tài chính không cho phép các doanh nghiệp này thực hiện những hợp đồng nhập khẩu nhu cầu về vốn lớn. Hai là, chính sách kinh tế của Lào, trên thực tế mới chỉ xử lý các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực kinh tế quốc doanh, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp hộ gia đình thì nhà nước chưa có chính sách kinh tế nói chung, chính sách nhập khẩu nói riêng để điều tiết, quản lý, tạo điều kiện để họ phát triển. Chính vì vậy, việc sửa đổi, hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu phải tính đến sự tham gia của mọi thành phần kinh tế vào hoạt động này. Các doanh nghiệp quốc doanh cũng như các doanh nghiệp khác, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp vốn đầu tư trong nước phải được bình đẳng, thực hiện những quy định và chịu sự điều tiết thống nhất của thuế nhập khẩu. 3.3. Các giải pháp bổ trợ: 3.3.1 - Nhất quán thực hiện chiến lược phát triển, hoàn thiện chính sách kinh tế, sớm xây dựng lộ trình hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Trước hết, cần nhất quán trong việc thực hiện chiến lược phát triển của Lào trong giai đoạn hiện nay. Theo chúng tôi, trong điều kiện cụ thể của mình, Lào cần kiên trì lựa chọn chiến lược phát triển theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những hàng hóa có lợi thế so sánh. Hiện nay, về danh nghĩa, chúng ta thừa nhận chiến lược phát triển này. Song trong thực tế, các cơ chế, chính sách thực hiện còn thiên về thay thế nhập khẩu và thực hiện công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên công nghiệp nặng, chưa khai thác hết lợi thế so sánh của Lào để thúc đẩy xuất khẩu. Vì vậy, để hoàn thiện chính sách thuế XNK phải phù hợp với điều kiện mới, cần phải có sự nhất quán trong việc đưa ra các cơ chế chính sách nhằm thực hiện chiến lược phát triển đã được lựa chọn. Để hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu, một vấn đề quan trọng khác hiện nay là phải sớm hoàn thiện chính sách ngoại thương. Bên cạnh những vấn đề về hạn ngạch, trợ cấp nhập khẩu, chính sách tỷ giá, quản lý cán cân thanh toán và cán cân thương mại, điểm mấu chốt là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tự do mậu dịch và bảo hộ. Ở đây, phải làm rõ lĩnh vực nào tự do, lĩnh vực nào phải bảo hộ. Theo kinh nghiệm quốc tế, để chính sách bảo hộ phát huy tác dụng tích cực, chỉ trừ sản xuất nông nghiệp, còn các ngành chế tạo khác, việc thực hiện chính sách bảo hộ phải có thời hạn. Việc chính phủ quy định thời hạn để nhắc nhở các chủ doanh nghiệp rằng, nhà nước bảo hộ để doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài, mức độ bảo hộ cũng được điều chỉnh dần từ cao xuống thấp và đi đến chấm dút bảo hộ. Hiện tạo trong chính sách của Lào chưa đặt ra vấn đề này. Thêm vào đó vấn đề không kém phần quan trọng là phải có cơ chế, chính sách để mọi thành phần kinh tế được tham gia bình đẳng vào hoạt động thương mại nhập khẩu. Việc hoàn thiện thuế nhập khẩu trong điều kiện quốc tế hoá mạnh mẽ, đòi hỏi chúng ta sớm xác định lộ trình chủ động chuẩn bị các điều kiện để hộn nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như AFTA, ASEAN…hiện nay, vấn đề này còn chưa được chuẩn bị chú đáo, kể cả đối với các cơ quan hoạch định chính sách vĩ mô cũng như đối với các doanh nghiệp. @ Nhóm giải pháp hỗ trợ cho việc xác định đúng trị giá tính thuế: Với quy tắc xác định giá tính thuế theo trị giá thực như hiện nay, trong hệ thống thanh toán ở Lào chưa hiện đại, ý thức tuân thủ pháp luật của người dân còn kém thì sẽ không tránh khỏi tình trạng các doanh nghiệp sẽ cố tình khai thấp trị giá thực, gây thất thu về thuế cho NSNN. Vì vậy, để chính sách thuế nhập khẩu phù hợp với yêu cầu của hội nhập và thực sự phát huy tác dụng trong tình hình thực tiễn, đặc biệt là để Hiệp định trị giá GATT thực hiện có hiệu quả, tránh tình trạng gian lận qua giá cần có một số giải pháp bổ trợ sau: - Xây dựng hệ thống thông tin doanh nghiệp. Hệ thống thông tin về doanh nghiệp cho biết “Lịch sự” hoạt động của doanh nghiệp, là căn cứ quan trọng để nhận định khai báo trị giá của doanh nghiệp có trung thực hay không. Từ đó, cơ quan hải quan có thể ra quyết định sẽ xem xét trị giá do doanh nghiệp đó khai báo theo mức độ nào là hợp lý. - Xây dựng dịch vụ tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế (ĐTNT). Ngoài việc tuyên truyền, giáo dục về pháp luật thuế cho tất cả các tầng lớp công chúng và các ĐTNT, bộ phận tuyên truyền hỗ trợ còn phải giải pháp tất cả các vướng mắc về thủ tục, chính sách thuế để các ĐTNT thực hiện đúng luật, tuyên truyền phổ biến các quy định về xác định trị giá cho cộng đồng doanh nghiệp. Quan trọng hơn, cơ quan thuế cần sớm xây dựng trang Web để cung cấp cho các doanh nghiệp những thông tin cần thiết khác để giúp doanh nghiệp tránh được rủi ro, thiệt hại trong quá trình sản xuất kinh doanh. - Tăng cường đào tạo và tuyển dụng có chọn lọc đội ngũ cán bộ thuế Hải quan. Cần đào tạo theo hướng chuyên môn hóa sâu theo từng chức năng công việc, trang bị kiến thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn, đảm bảo cán bộ có năng lực tốt trong việc đánh giá, phân tính khả năng thực thi của chính sách thuế làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách cũng như đề xuất các biện pháp quản lý thuế nhập khẩu. Đào tạo lực lượng cán bộ thực sự giỏi, cán bộ đầu ngành, nhiều kinh nghiệm quản lý để đảm đương công việc mũi nhọn, cụ thể: + Nâng cấp chương trình và hệ thống giáo trình, tài liệu đào tạo, bảo đả, nâng cao chất lượng cả về kiến thức chuyên môn và kiến thức sư phạm; tài liệu, giáo trình đào tạo phải cập nhật, dễ hiểu, dễ tra cứu và có thể tự học. + Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đào tạo giỏi cả về chuyên môn nghiệp vụ thuế nhập khẩu và về ngoại ngữ, thu hút các cán bộ giỏi đầu ngành vào công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. + Nâng cấp trường Cao đẳng Hải quan thành Học viện Hải quan, ngoài nhiệm vụ đào tạo cơ bản, đào tạo chuyên sâu, đào tạo nâng cao đối với các cán bộ Hải quan còn đào tạo cho các cán bộ ngoài ngành Hải quan. - Tăng cường họat động thanh tra, kiểm tra. Cần tập trung kiểm tra những đối tượng có quy mô lớn, có lý lịch kinh doanh không tốt, họat động trong những lý lịch, ngành nghề có khả nănggian lận, vi phạm cao. Tăng cường kiểm tra trị giá ngay tại thời điểm làm thủ tục nhập khẩu và kiểm tra sau giải phóng hàng. Cơ quan hải quan được phíp kiểm tra, đối chiếu khải báo của doanh nghiệp khi nhập khẩu với những số liệu lưu trữ trong hệ thống sổ sách kế toán của doanh nghiệp. Với nghiệp vụ này, những gian lận của doanh nghiệp sẽ bị phát hiện. Mặt khác, kiểm tra sau giải phóng hàng được thực hiện trong thời hạn 5 năm kể từ ngày nhập khẩu. Điều đó cho phép cơ quan Hải quan có thể thu thập đầy đủ số liệu, chứng cứ để đấu tranh với gian lận thương mại qua giá. Kết quả của kiểm tra sau thông quan sẽ là cơ sở xử lý gian lận theo quy định của pháp luật. Khung hình phạt và cách xử lý thích đáng là điều quan trọng để ngăn chặn các hành vi sai phạm và có tác dụng răn đe để tạo ra ý thức và thói quen tốt cho các đối tượng trong việc chấp hành pháp luật thuế. - Xây dựng cơ sở dữ liệu giá. Cơ sở dữ liệu giá sẽ cho biết trị giá thực của mặt hàng nhập khẩu nằm trong khoảng nào, cho biết trị giá của cùng một loại hàng hóa do cùng một doanh nghiệp nhập khẩu được khai báo như thế nào… Từ đó cho phép cơ quan hải quan nhận định chính xác tính trung thực của khai báo, cũng như là nơi cung cấp dữ liệu để xác định đúng trị giá hải quan cho hàng hóa trong điều kiện hải quan là người xác định trị giá. - Tăng cường hợp tác giữa cơ quan hải quan và cộng đồng doanh nghiệp. Một trong những nguồn thông tin quan trọng về gian lận thương mại qua giá mà cơ quan hải quan có thể có được chính là từ cộng đồng doanh nghiệp. Xét trên diện rộng, mọi hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp đều nhằm hướng tới một môi trường cạnh tranh lành mạnh, mà trong đó lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp có từ chính năng lực của doanh nghiệp. Chính vì vậy, bằng sự hợp tác của cộng đồng doanh nghiệp, một mặt cơ quan hải quan sẽ thu thập được những thông tin, dữ liệu, bằng chứng về các hành vi gian lận thương mại qua giá, một mặt nâng cao ý thức của doanh nghiệp về việc tuân thủ các quy định xác định trị giá. - Tăng cường hiệu lực của Chế độ kế tóan doanh nghiệp. Về nguyên tắc, chế độ kế tóan hiện nay đã quy định rất rõ các phương pháp hạch toán, kế tóan của doanh nghiệp, việc lưu trữ chứng từ, sổ sách kế toán… Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều doanh nghệp thực hiện hai bộ sổ kế toán. Một là để hạch toán thực sự hoạt động kinh doanh, một là để xuất trình với cơ quan quản lý. Do vậy, vấn đề tiếp cận được với hệ thống sổ sách phản ánh hoạt động kinh doanh thực sự. Mặt khác, trong trường hợp doanh nghiệp không tuân thủ chế độ quản lý hồ sơ, sổ sách kế toán thì cần phải có chế tài cụ thể để xử lý. Có như vậy mới đảm bảo hiệu quả thực sự của công tác kiểm tra tại doanh nghiệp. 3.3.2 - Công tác phân cấp quản lý thuế: Việc quản lý thuế thuộc vào Bộ Tài chính, Cục, Ban, Ngành… Theo công tác phân cấp quản lý thuế tại CHDCND Lào, mọi ngành có nhiệm vụ khác nhau nhằm kiện toàn bộ máy quản lý phục vụ việc chuyển đổi phương thức từ quản lý theo sắc thuế, theo đối tượng sang quản lý theo chức năng, nhằm bảo đảm tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá cao, từ đó nâng cao hiệu quả công tác. 3.3.3 - Đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ thuế về mọi mặt. Đây là điều kiện quyết định để quản lý thuế ngày càng được hoàn thiện và đạt hiệu quả hơn. Quản lý thuế truyền thống dần dần được cải tiến theo hướng mở rộng để bao quát các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh mới nên phương hướng phát triển nghiệp vụ quản lý thuế luôn cải tiến và thiết kế phù hợp với quản lý thuế theo xu hướng hiện đại hơn. Vì vậy, yêu cầu: - Đội ngũ cán bộ ngành thuế giỏi về chuyên môn nghiệp vụ thuế, giỏi về kế toán, thành thạo kỹ năng làm việc, kỹ năng quản lý, có trình độ tin học và ngoại ngữ, có phẩm chất đạo đức tốt và có tinh thần phục vụ nhân dân, đất nước. Cán bộ lãnh đạo phải có trách nhiệm đảm đương công việc trọng tâm của cơ quan thuế và các lĩnh vực quản lý thuế phức tạp, đồng thời đáp ứng yêu cầu của công tác đào tạo cán bộ trong qua trình hội nhập khu vực. - Cán bộ thuế được đào tạo theo hướng chuyên môn hóa sâu theo từng chức năng công việc, đồng thời được trang bị kiến thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn, bảo đảm cán bộ có khả năng tốt trong việc phân tích, đánh giá khả năng thực thi của chính sách thuế làm cơ sở cho hoạch định chính sách thuế cũng như đề xuất các biện pháp quản lý thuế. - Đội ngũ cán bộ lãnh đạo có trình độ, năng lực chỉ đạo điều hành, có phẩm chất đạo đức tốt, có khả năng đoàn kết tập hợp anh em. Để thực hiện các điều kiện này, phải thực hiện các nộ dung sau: - Thành lập trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ làm nhiệm vụ tổ chức các khoá đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ trong ngành nhằm nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ thuế. - Xây dựng chương trình và giáo trình đào tạo chuyên ngành thuế cho từng ngạch công chức, từng loại công chức thống nhất trong cả nước. - Giành nguồn kinh phí thích đáng cho công tác đào tạo theo hướng chuyên sâu, bao gồm cả đào tạo trong nước và nước ngoài. 3.3.4. Hoàn thiện tổ chức bộ máy cơ quan thuế: Bộ tài chính tại Lào đã hoàn thiện, cải cách và hiện đại hóa để công tác quản lý có hiệu quả cao nhất để các luật thuế được thực thi một cách tốt nhất, thất thu về thuế giảm thuế nhập khẩu đến mức thấp nhất. Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người nộp thuế và đảm bảo cho các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội, các cơ quan đảng, nhà nước và mọi cá nhân trong xã hội có hiểu biết cơ bản về thuế, đặc biệt là tính nhân văn của công tác thuế – thuế của dân, do dân và phục vụ lợi ích của nhân dân – thuế là trách nhiệm của mọi thành viên trong xã hội để tạo ra sự đồng tình nhất trí cao, phối hợp, hỗ trợ cơ quan thuế hoành thành nhiệm vụ. Hiện đại hoá ngành thuế cả về cơ chế quản lý, công nghệ quản lý, cả về bộ máy và con người. Phải quản lý theo phương pháp tiên tiến, khoa học, theo các chuẩn mực quốc tế; phải đưa công nghệ hiện đại vào tất cả các khẩu để nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Cán bộ thuế phải giỏi về kỹ năng quản lý hoạt động, thành thạo sử dụng các công nghệ, tiến bộ tin học, phải có kiến thức sâu rộng, phục vụ tốt cho công việc. 3.3.5 - Đổi mới công tác tổ chức, quản lý thi hành chính sách thuế nhập khẩu của Lào. Những nội dung về chính sách thuế nhập khẩu nêu trên không thể thực hiện tốt nếu công tác tổ chức, kiểm tra việc thi hành các chính sách, luật pháp về thuế nhập khẩu không được đổi mới, hoàn thiện. liên quan đến vấn đề này chúng tôi cho rằng cần giải quyết đồng bộ những vấn đề sau đây: Một là, trong việc xây dựng luật thuế nhập khẩu, cần giảm tối đa việc giao cho các bộ chức năng đưa ra những quy định hướng dẫn thực hiện Luật. Trong thực tế, nhiều vấn đề quá chi tiết, Luật không thể quy định quá cụ thể được, vì vậy thường phải có các văn bản dưới luật để cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành. Song, kinh nghiệm chỉ ra là, việc giao quá nhiều quyền cho các bộ, ban, ngành chức năng đưa ra các quy định để cụ thể hóa Luật là nguyên nhân của sự vận dụng và thực thi không đúng tinh thần luật pháp, làm khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, trong việc sửa đổi và ban hành chính sách, Luật pháp về thuế nhập khẩu, cần cố giắng để cụ thể hóa trong các văn bản luật, hạn chế tối đa việc giao cho các bộ, ban, ngành chức năng đưa ra các quy định hướng dẫn để đảm bảo chuẩn mực rõ ràng cho người thực hiện. Trong điều kiện cần có các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, cần ban hành kịp thời sau khi luật được công bố, tránh tình trạng kéo dài thời gian từ khi luật được ban hành đến khi có văn bản hướng dẫn thực hiện. Hai là, việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu một cách thường xuyên, kịp thời là cần thiết, để phù hợp với tình hình thay đổi của thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trong việc thay đổi đó, cần có thời gian tạo bước đệm cho các doanh nghiệp để tránh những thiệt hại do thay đổi chính sách của nhà nước gây ra cho doanh nghiệp. Ba là, đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính nói chung và cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế nói riêng nhằm phát huy hiệu quả của chính sách thuế nhập khẩu góp phần đẩy mạnh kinh tế đối ngọai của Lào trong thời kỳ mới. Trong thực tế, nhiều chính sách của nhà nước Lào ban hành đúng. Song do vận hành của bộ máy hành chính các cấp giải quyết không kịp thời, thủ tục phiền hà, hoặc do một bộ phận cán bộ yếu về tổ chức thực hiện nên đã gây ra trở ngại cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, việc cải cách bộ máy hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ thực thi chính sách là vấn đề bức xúc đảm bảo cho chủ trương, chính sách được thực hiện một cách nghiêm túc. Liên quan chặt chẽ tới vấn đề này là việc tăng cường bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ nhận thức, khả năng vận dụng và tổ chức thực hiện Luật pháp của các cán bộ ngành thuế và ngành hải quan. Có chương trình đào thao và đào thao lại đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường đang vận hành và phát triển. KẾT LUẬN Trong điều kiện chuyển sang chiến lược mở cửa và hội nhập với các nền kinh tế khu vực và thế giới, chính sách thuế nhập khẩu của nước CHDCND Lào có vai trò rất quan trọng. Việc nghiên cứu để có kiến nghị hoàn thịên lĩnh vaực này là rất bức xúc. 1. Đề tài đã làm rõ vài trò của thuế nhập khẩu đối với nền kinh tế CHDCND Lào trên cơ sở phân tích, so sánh về thuế nhập khẩu và các ngành quan trọng trong sự phát triển kinh tế Lào. 2. Phân tích nhân tố tác động tới quá trình điều chỉnh chính sách thuế nhập khẩu, đề tài đã đề cập đến những vấn đề về chíên lược phát triển kinh tế… 3. Đề tài khái quát thực trạng chính sách thuế nhập khẩu Lào trong quá trình sửa đổi, hòan thiện, nêu lên những mặt tích cực, những bất cập của chính sách thuế nhập khẩu hiện hành. Để tài nhấn mạnh những hạn chế của chính sách thuế nhập khẩu hiện nay là chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu. Chưa phù hợp với yêu cầu hội nhập, chưa đảm bảo thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; tổ chức thực hiện chính sách thuế nhập khẩu còn nhiều yếu kém. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS. Nguyễn Thị Bất (2002), Quản lý thuế, Nxb Thống kê, tr 13-15 2. Bộ Công nghiệp và Thương mại Lào (2006), Tình hình XNK của Lào, tại Viêng Chăn. 3. Bộ Công nghiệp và Thương mại Lào (2006), Nhập khẩ hàng hóa của Lào từ các nước ASEAN, tại Viêng Chăn. 4. Bộ Công nghiệp và Thương mại Lào (2006), Thị trưỡng xuất khẩu của Lào, tại Viêng Chăn. 5. Bộ Công nghiệp và Thương mại Lào (2006), Kế họach và thu nhập thực tế về thuế nhập khẩu của Lào, tại Viêng Chăn. 6. Bộ tài chính (2007), Hỏi đáp về thuế nhập khẩu và Các văn bản pháp luật về thuế, Tổng cục Thuế tại Viêng Chăn. 7. GS. Võ Đình Hảo (2006), “Các công cụ tài chính trong kinh tế thị trường, Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Thông tin chuyên đề, Hà Nội. 8. PTS. Bạch Minh Huyền số 20 (tháng 9-10/1997), Chính sách thuế trong điều kiện hội nhập. Tạp chí Kinh tế và Phát triển. 9. Luật thuế nhập khẩu (ngày 25/7/1990) do Quốc hội của Lào thông qua. 10. Nguyễn Văn Ninh: Tăng trưởng Kinh tế và Thu ngân sách nhà nước. Tổng cục trưởng TCT. 11. Quyết định số 469/QH và số 426/QH (1995), Ban hành quy chế xác định giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu tại Viêng Chăn. 12. Tạp chí Thuế Nhà nước (tháng 10/2006), số đặc sản 40 năm khoa Ngân hàng và Tài chính, Hà Nội. 13. Ủy ban Kế họach và Đầu từ Lào (2005), Số lượng hàng hóa nhập khẩu của Lào trong định hướng của AFTA, tại Viêng Chăn. 14. Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư Lào (2005), Tài liệu sự hợp tác với ASEAN, Viêng Chăn. 15. www.laotrade.com 16. www.moc.gov.lao MỤC LỤC MỞ ĐẦU .1 CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ 3 1.1. Khái niệm, chức năng và vai trò của thuế nhập khẩu 3 1.1.1 – Khái niệm 3 1.1.2 - Bản chất 4 1.1.3 - Vai trò của thuế nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường 6 1.2. Chính sách thuế nhập khẩu 9 1.2.1 - Nội dung cơ bản của chính sách thuế nhập khẩu 9 1.2.2 - Vị trí của chính sách thuế nhập khẩu 12 1.3. Tác động của chính sách thuế nhập khẩu đến hoạt động kinh tế 13 1.3.1 - Thuế tác động tăng đến tăng trưởng kinh tế 13 1.3.2 - Thuế tác động tăng thu ngân sách 14 1.4. Cải cách chính sách thuế nhập khẩu của các nước và bài học kinh nghiệm cho Lào 14 1.4.1 - Cải cách chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam 14 1.4.1.1 – Chính sách tổ chức quản lý họat động nhập khẩu 14 1.4.1.2 – Mục tiêu và Nội dung cơ bản của chính sách thuế nhập khẩu 15 1.4.1.3 - Nhận xét về sự hình thành và quá trình hoạn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam 17 1.4.2 - Cải cách chính sách thuế nhập khẩu của Trung Quốc 18 1.4.2.1 - Bối cảnh kinh tế của Trung Quốc khi tiến hành cải cách thuế 18 1.4.2.2 - Mục tiêu và nội dung cơ bản của cải cách thuế nhập khẩu của Trung Quốc 19 1.4.2.3 - Thành tựu và tồn tại của cải cách thuế nhập khẩu Trung Quốc 22 1.4.3 - Tham khảo chính sách thuế nhập khẩu của các nước ASEAN 23 1.4.4 - Bài học kinh nghiệm cho CHDCND Lào 26 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU CỦA LÀO TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY 30 2.1. Nhân tố trong nước tác động tới quá trình điều chỉnh chính sách thuế nhập khẩu của Lào 30 2.1.1 - Chiến lược phát triển kinh tế tác động tới quá trình điều chỉnh chính sách thuế nhập khẩu của Lào 30 2.1.2 - Hội nhập kinh tế và ảnh hưởng của nó tới chính sách thuế nhập khẩu của lào 31 2.1.3 - Tác động của afta đối với nguồn thu ngân sách Lào 34 2.2. Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu của Lào từ năm 2000 đến nay 37 2.2.1 - Khái quát về tình hình nhập khẩu của Lào 37 2.2.2 - Chính sách thuế nhập khẩu của Lào từ năm 2000 đến nay 44 2.2.2.1 - Thu ngân sách từ thuế nhập khẩu 44 2.2.2.2 - Nội dung chính sách thuế nhập khẩu của Lào 45 2.2.3 - Những hạn chế của chính sách thuế nhập khẩu. 55 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HÒAN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU TẠI CHDCND LÀO 63 3.1. Những phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện thuế nhập khẩu của Lào 63 3.1.1 - Chính sách thuế nhập khẩu phải phù hợp với mục tiêu xây dựng nền kinh tế 63 3.1.2 - Chính sách thuế nhập khẩu phải đảm bảo nguồn thu ngân sách 64 3.2. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Lào 64 3.2.1 - Về giá tính thuế 64 3.2.2 - Về biểu thuế và thuế suất 65 3.2.3 - Về vấn đề miễn thuế, giảm thuế 68 3.2.4 - Xoá bỏ những phân biệt trong chính sách thuế nhập khẩu, đảm bảo sự bình đẳng trong mọi thành phần kinh tế 70 3.2.5 - Chính sách thuế nhập khẩu phải tạo thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện mới, đồng thời bảo đảm quản lý tốt hoạt động nhập khẩu và đảm bảo nguồn thu ngân sách từ nhập khẩu 71 3.3. Các giải pháp bổ trợ 72 3.3.1 - Nhất quán thực hiện chiến lược phát triển, hoàn thiện chính sách kinh tế, sớm xây dựng lộ trình hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực 72 3.3.2 - Công tác phân cấp quản lý thúê 76 3.3.3 - Đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ thuế về mọi mặt 76 3.3.4 - Hoàn thiện tổ chức bộ máy cơ quan thuế 77 3.3.5 - Đổi mới công tác tổ chức, quản lý thi hành chính sách thuế nhập khẩu của Lào 78 KẾT LUẬN 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 CHDCND Lào Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào NSNN Ngân sách Nhà nớc XNK Xuất nhập khẩu NK Nhập khẩu CEPT Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung APEC Hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á GATT Hiệp định chung về thuế quan và thơng mại AFTA Hiệp định thương mại tự do các nước Đông Nam Á QH Quốc hội HS Hệ thống Điều hoà MFN Quy chế tối huệ quốc IMF Quỹ tiền tệ quốc tê WTO Tổ chức Thương mại thế giới WCO Tổ chức Hải quan thế giới C/O Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa TTĐB Tiêu thụ đặc biệt GTGT Giá trị gia tăng GDP Thu nhập Quốc dân USD Đồng đô la Mỹ ODA Hỗ trợ chính thức VAT Giá trị gia tăng EU Liên minh Châu Âu NDCM Nhân dân cách mạng DANH MỤC BẢNG Trang Bảng 2.1: Tình hình XNK của Lào từ năm 2000-2005 38 Bảng 2.2: Nhập khẩu của Lào từ các nước Châu Á 39 Bảng 2.3: Hàng hóa nhập khẩu của Lào từ các nước ASEAN 40 Bảng 2.4: Số lượng hàng hóa nhập khẩu của Lào trong định - hướng của AFTA 41 Bảng 2.5: Thị trường XK của Lào từ năm 2000-2006 43 Bảng 2.6: Kế hoạch và thu nhập thực tế về thuế NK của Lào 44

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11374.DOC