Nghiên cứu quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng của một số tỉnh khu vực Tây Bắc

Kết luận Hoàn thiện công tác QLNN đối với phát triển DLCĐ là yêu cầu quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả phát triển DLCĐ trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay. Bài báo đã phân tích thực trạng QLNN đối với phát triển DLCĐ và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện QLNN đối với phát triển DLCĐ ở một số tỉnh khu vực Tây Bắc. Những giải pháp được đề xuất liên quan đến đổi mới công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch nói chung và phát triển DLCĐ nói riêng; hoàn thiện các chính sách, quy định liên quan đến phát triển DLCĐ và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động phát triển DLCĐ. Tất cả các giải pháp này cần được thực hiện đồng bộ và có giai đoạn. Tuy nhiên, thực tế phát triển DLCĐ nói chung và QLNN đối với phát triển DLCĐ nói riêng những năm qua ở vùng cho thấy, muốn DLCĐ phát triển, bên cạnh việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động QLNN, bản thân cộng đồng cũng cần ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình trong việc tham gia vào hoạt động du lịch. Bên cạnh việc tham gia vào hoạt động du lịch để nâng cao đời sống, cộng đồng phải cùng với cơ quan QLNN bảo vệ được văn hoá bản địa - giá trị cốt lõi của cộng đồng, bởi nếu không bảo vệ được các giá trị này, DLCĐ cũng không thể phát triển theo đúng ý nghĩa của nó.

pdf13 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 397 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng của một số tỉnh khu vực Tây Bắc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
26 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG CỦA MỘT SỐ TỈNH KHU VỰC TÂY BẮC Trần Thu Phương* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 3/4/2020 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/10/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/10/2020 Tóm tắt: Phát triển du lịch cộng đồng là chủ đề hiện đang được nhiều nhà nghiên cứu và quản lý quan tâm. Ở Việt Nam, du lịch cộng đồng đã được phát triển cách đây nhiều năm và ngày càng được khuyến khích phát triển. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng, đặc biệt ở cấp tỉnh, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Mặc dù đã có một số nghiên cứu trong và ngoài nước về chủ đề này, tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có nghiên cứu tổng thể nào về hoạt động quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng ở khu vực Tây Bắc. Mục tiêu của bài báo là đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng ở môt số tỉnh khu vực Tây Bắc trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý phát triển du lịch cộng đồng ở khu vực này. Những giải pháp được đề xuất liên quan đến đổi mới công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch cộng đồng; hoàn thiện các chính sách, quy định liên quan đến phát triển du lịch cộng đồng và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động phát triển du lịch cộng đồng. Từ khóa: Quản lý nhà nước, Du lịch cộng đồng, khu vực Tây Bắc. * Khoa Du lịch - Trường Đại học Mở Hà Nội 1. Đặt vấn đề Khu vực Tây Bắc trong nghiên cứu này bao gồm 4 tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình. Diện tích tự nhiên của vùng là 3.741,6 km2 chiếm 11,3% diện tích cả nước. Dân số năm 2019 là 2.701.402 người, chiếm 2,8% dân số cả nước. Theo phân vùng trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Tây Bắc thuộc vùng du lịch trung du, miền núi Bắc Bộ. Đây là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng, có tiềm năng lợi thế to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội (KTXH), quốc phòng - an ninh của khu vực Bắc Bộ và của cả nước. Tây Bắc cũng là nơi hội tụ nhiều tiềm năng du lịch đặc sắc với các đặc trưng cơ bản về đất nước và con người Việt Nam. Đây chính là đặc điểm quan trọng hấp dẫn khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Cùng với sự phát triển du lịch của cả nước, những năm gần đây, hoạt động du lịch nói chung và du lịch cộng đồng Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 72 (10/2020) 26-38 27Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion (DLCĐ) nói riêng ở Tây Bắc đã có nhiều khởi sắc, thể hiện ở sự tăng trưởng của các chỉ tiêu phát triển du lịch, hệ thống sản phẩm du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Có thể khẳng định rằng việc phát triển du lịch cộng đồng ở Tây Bắc những năm qua đã có nhiều tác động tích cực, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm nguồn sinh kế mới và thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, phát triển DLCĐ Tây Bắc cũng đã bộc lộ những hạn chế căn bản như vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa bản địa trong điều kiện khai thác phục vụ du lịch vẫn còn hạn chế. Nhiều sản phẩm DLCĐ Tây Bắc mang tính đại trà, ít có điểm nhấn để thể hiện bản sắc độc đáo của cộng đồng địa phương dẫn đến việc không tạo được điểm nhấn để thu hút khách. Các điểm DLCĐ có mô hình hoạt động tương đối giống nhau, phát triển dựa trên cơ sở nhân rộng các mô hình thí điểm trước đó. Sự kế thừa và rút kinh nghiệm từ mô hình hoạt động du lịch trước, sẽ giúp các mô hình du lịch sau phát triển hơn, tuy nhiên, nhiều nơi vẫn còn mang tính dập khuôn, chưa chú ý nhiều đến công tác khảo sát, đánh giá thực trạng tiềm năng du lịch của địa phương. Bên cạnh đó, điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều điểm DLCĐ chưa thực sự đảm bảo để đáp ứng phục vụ khách du lịch, đặc biệt là khách từ các quốc gia phát triển. Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên có thể là các nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan có thể là do cơ sở hạ tầng kết nối đến các điểm du lịch còn khó khăn dẫn đến du khách khó tiếp cận, thiếu chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Điều này cũng đã được chỉ ra ở nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đối với khu vực Tây Bắc và các khu vực có điều kiện tương đồng [9-13]. Nguyên nhân chủ quan đó là phát triển DLCĐ thiếu chiến lược cho toàn vùng, nhận thức chưa đầy đủ về DLCĐ dẫn đến hoạch định sai về chính sách. Nhiều nguyên nhân khác cũng được nhận diện như thiếu nghiên cứu để phát hiện bản sắc văn hóa dân tộc đặc trưng của địa phương để xây dựng các sản phẩm DLCĐ, thiếu sự quan tâm bảo vệ tài nguyên du lịch - yếu tố quan trọng để hình thành sản phẩm du lịch nói chung và DLCĐ nói riêng, thiếu sự cân bằng giữa phát triển các ngành kinh tế với du lịch, chưa có sự hỗ trợ thỏa đáng của Nhà nước trong việc tuyên truyền quảng bá, trong việc đào tạo bồi nguồn nhân lực trong hoạt động DLCĐ... Nhìn chung, phần lớn các nguyên nhân nêu trên đều liên quan mật thiết đến vai trò quản lý nhà nước (QLNN) về DLCĐ tại khu vực. Cho đến nay, mặc dù có nhiều nghiên cứu liên quan đến phát triển du lịch cộng đồng ở khu vực Tây Bắc [1, 2, 8]..., tuy nhiên, chưa thấy có nghiên cứu nào cả ở trong và ngoài nước về hoạt động QLNN đối với phát triển DLCĐ ở khu vực này. Nghiên cứu này tập trung đánh giá vai trò, trách nhiệm của QLNN đối với phát triển DLCĐ, phân tích những thành công, hạn chế cũng như đề xuất những giải pháp hoàn thiện QLNN đối với phát triển DLCĐ của một số tỉnh khu vực Tây Bắc (Hòa Bình, Sơn La và Điện Biên). 2. Cơ sở lý thuyết, số liệu và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý thuyết Hiện nay có nhiều khái niệm DLCĐ khác nhau, trong nghiên cứu này, khái 28 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion niệm về DLCĐ được hiểu là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi (Luật Du lịch 2017). Nhiều nghiên cứu về DLCĐ đã chỉ ra, để đảm bảo phát triển bền vững DLCĐ, cần có sự tham gia của tất cả các bên liên quan, trong đó nhà nước đóng vai trò quan trọng. Nhà nước là chủ thể chí nh trong quá trì nh hoạ ch đị nh, thự c thi chiế n lư ợ c, quy hoạ ch, kế hoạ ch, chí nh sá ch, phá p luậ t về phát triển du lịch nói chung và phát triển DLCĐ nói riêng. Đâ y là vai trò gắ n liề n vớ i chứ c nă ng thuộ c về bả n chấ t củ a nhà nư ớ c. Trong nghiên cứu này, QLNN đối với phát triển DLCĐ được hiểu là quá trình nhà nước sử dụng các công cụ quản lý của mình để tác động lên quá trình phát triển DLCĐ nhằm đạt được các mục tiêu phát triển du lịch đã đặt ra. Nội dung QLNN đối với phát triển DLCĐ được thể hiện qua các nội dung chính như: Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển DLCĐ; Triển khai ban hành và thực hiện các chính sách về phát triển DLCĐ; Phát triển nguồn nhân lực cho DLCĐ; Bộ máy quản lý nhà nước về DLCĐ... * Số liệu và phương pháp nghiên cứu Nguồn dữ liệu phục vụ nghiên cứu bao gồm số liệu thứ cấp và số liệu sơ cấp. Các số liệu thứ cấp bao gồm các văn bản, báo cáo, các đề án, dự án, số liệu thống kê... liên quan đến phát triển DLCĐ ở cơ quan QLNN về du lịch ở TW và ở các tỉnh khu vực Tây Bắc. Các số liệu sơ cấp được thu thập qua điều tra xã hội học đối với các nhóm đối tượng: các chuyên gia, cộng đồng dân cư và khách du lịch , bao gồm: hiện trạng hạ tầng giao thông, các giá trị tài nguyên du lịch, nhân lực du lịch, quảng bá du lịch, môi trường du lịch; Các chinh sách hỗ trợ của địa phương cho các đối tượng tham gia phát triển DLCĐ; Đánh giá cụ thể và tổng thể về hoạt động QLNN về phát triển DLCĐ. Việc điều tra xã hội học được thực hiện qua các bảng hỏi, theo hai hình thức là phiếu điều tra trực tiếp bằng văn bản và phiếu điều tra theo hình thức trực tuyến. Thời gian thực hiện điều tra được bắt đầu từ tháng 3 năm 2020. Kết quả, đến hết tháng 7/2020, tác giả nhận được 450 trả lời đối với phiếu điều tra khách du lịch, trong đó có 400 lượt trả lời đối với Hòa Bình, 288 lượt trả lời đối với Sơn La và 207 lượt trả lời đối với Điện Biên (mỗi khách có thể đánh giá cho nhiều tỉnh). Tại thời điểm điều tra Việt Nam không đón khách quốc tế do dịch Covid-19 nên toàn bộ 450 người trả lời phiếu khách du lịch là khách nội địa. Đối với các phiếu điều tra khác, đến hết tháng 7, tác giả nhận được 115 lượt trả lời đối với phiếu điều tra chuyên gia, 120 phiếu điều tra cộng đồng (50 phiếu ở Hòa Bình, 50 phiếu ở Sơn La và 20 phiếu ở Điện Biên). 3. Hoạt động quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng tại một số tỉnh khu vực Tây Bắc 3.1. Khái quát tình hình phát triển du lịch cộng đồng tại một số tỉnh khu vực Tây Bắc Với lợi thế về các điều kiện tự nhiên và sự đa dạng về phong tục tập quán các dân tộc, DLCĐ là loại hình du lịch được quan tâm trong phát triển du lịch của các tỉnh khu vực Tây Bắc. Tính đến năm 2019, tổng số điểm DLCĐ ở 3 tỉnh Hòa Bình, Sơn La và Điện Biên là 42 (Hòa Bình: 22, Sơn La: 10 29Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion và Điện Biên: 10) với tổng số hộ tham gia hoạt động DLCĐ khoảng 290 hộ (Hòa Bình 174, Sơn La 63 và Điện Biên 53). Một số điểm du lịch tiêu biểu là Giang Mỗ, bản Văn, bản Lác, bản Tòng, xóm Ải (Hòa Bình); bản Hua Tạt, Bản Bó, bản Hụm, Ngọc Chiến (Sơn La); Noong Bua, Co Mỵ, Ten, Uva, Pe Luông, Phiêng Lơi, Him Lam 2 (Điện Biên). Về khá ch du lị ch, số lượng khách đến các điểm DLCĐ ngày càng gia tăng. Sự gia tăng về lượng khách đến các điểm DLCĐ đã mang lại nguồn thu nhất định cho cộng đồng và đóng góp vào tăng trưởng tổng thu du lịch của các địa phương. Theo báo cáo của các địa phương, tổng doanh thu từ DLCĐ của Hòa Bình năm 2019 là 415 tỷ đồng (chiếm 20% tổng thu du lịch của tỉnh) với mức tăng trung bình khoảng 30%/năm trong giai đoạn 2015-2019. Ở các địa phương khác cũng có sự tăng trưởng về khách, doanh thu và việc làm liên quan đến DLCĐ (xem bảng 1). Bảng 1- Số lượt khách và doanh thu từ du lịch cộng đồng của các tỉnh Tây Bắc giai đoạn 2015-2019 Tỉnh Chỉ tiêu 2015 2016 2017 2018 2019 Hòa Bình Khách DLCĐ (nghìn lượt) 298 315 359 395 471 Tổng thu từ DLCĐ (tỷ đồng) 148 192 231 303 415 Số cơ sở lưu trú cộng đồng (cơ sở) 105 114 130 142 157 Số lao động (người) 210 228 330 417 628 Sơn La Khách DLCĐ (nghìn lượt) 120 180 240 240 250 Tổng thu từ DLCĐ (tỷ đồng) 2 2,2 4 6 10 Số cơ sở lưu trú cộng đồng (cơ sở) 36 40 47 50 50 Số lao động (người) 180 250 250 270 380 Điện Biên Khách DLCĐ (nghìn lượt) 8,20 9,15 8,02 12,07 14,48 Tổng thu từ DLCĐ (tỷ đồng) 1 1,8 2 2,4 2,5 Số cơ sở lưu trú cộng đồng (cơ sở) 17 20 25 26 26 Số lao động (người) 170 200 280 220 225 Lai Châu Khách DLCĐ (nghìn lượt) 0,57 0,65 0,88 0,80 1,00 Tổng thu từ DLCĐ (tỷ đồng) 0,8 0,7 0,7 1 1,5 Số cơ sở lưu trú cộng đồng (cơ sở) 16 17 15 18 20 Số lao động (người) 170 120 150 150 180 Nguồn: Các Sở VHTTDL các tỉnh Tây Bắc Nhìn chung, Tây Bắc đã và đang khai thác được những thế mạnh để phát triển DLCĐ. Số lượng khách đến với các bản cộng đồng tăng dần lên. DLCĐ đã góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo nguồn sinh kế mới cho người dân vùng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, phát triển DLCĐ Tây Bắc cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, liên quan đến chất lượng sản phẩm du lịch, vệ sinh môi trường ở các điểm du lịch cộng đồng, chất lượng nhân lực DLCĐ... Kết quả điều tra khách du lịch cho thấy, tầm quan trọng của các yếu tố môi trường tự nhiên (nước thải, rác thải...) được đánh giá ở mức 4,2/5, trong khi giá trị thực tế được đánh giá khoảng 3,5/5 ở cả 3 địa phương Tây Bắc; kiến thức, kỹ năng của người dân tham gia hoạt động du lịch được đánh giá khá thấp (Hòa Bình: 3,44/5, Sơn La: 3,3/5 và Điện Biên: 3,1/5). Với những hạn chế nêu trên, nhìn chung mức độ hài lòng của khách DLCĐ ở cả 3 địa phương khu vực Tây Bắc là 30 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion chưa cao (Hòa Bình: 3,72; Sơn La: 3,69 và Điện Biên: 3,56). Những mặt tích cực, những hạn chế và những biểu hiện không bền vững của phát triển DLCĐ nêu trên là kết quả của các hoạt động QLNN đối với phát triển DLCĐ, được xem xét cụ thể ở nội dung sau. 3.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng của một số tỉnh khu vực Tây Bắc, Việt Nam - X ây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch liên quan đến phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh Ở các tỉnh khu vực Tây Bắc, các nội dung về phát triển DLCĐ thường được lồng ghép trong quy hoạch phát triển du lịch của địa phương. Cho đến nay, cả 3 tỉnh Hòa Bình, Sơn La và Điện Biên đều có Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch. Các quy hoạch này có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển du lịch ở các địa phương [3-6]. Năm 2014, tỉnh Hòa Bình đã xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2014-2020, tầm nhìn đến năm 2030. Quy hoạch được phê duyệt theo quyết định số 2060/QĐ-UBND ngày 11/12/2014. Một trong những quan điểm phát triển du lịch đưa ra trong quy hoạch là chú trọng phát triển du lịch văn hóa, khai thác có hiệu quả giá trị các di sản văn hóa và bản sắc văn hóa các dân tộc, đặc biệt là dân tộc Mường để nâng cao tính đặc thù, độc đáo cho các sản phẩm du lịch. Đây được xem là một trong những định hướng quan trọng để phát triển DLCĐ ở Hòa Bình. Nội dung về phát triển DLCĐ được thể hiện cụ thể trong quy hoạch như: Bảo tồn các xóm, bản còn lưu giữ được bản sắc văn hóa độc đáo các dân tộc trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, xây dựng thành các sản phẩm du lịch phục vụ đón khách. Lựa chọn xây dựng các xóm, bản hấp dẫn thu hút khách du lịch, mang lại thu nhập ổn định cho người dân...Trên cơ sở các Quy hoạch được phê duyệt, Hòa Bình đã tiến hành xây dựng và ban hành các kế hoạch để triển khai. Đến nay, đã có 100% các huyện, thành phố đã phê duyệt và triển khai Đề án phát triển du lịch của địa phương đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Quy hoạch phát triển Điểm du lịch quốc gia Mai Châu đến năm 2030 đã được phê duyệt theo quyết định số 1728/ QĐ-UBND ngày 04/7/2016)... Ở Sơn La, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Sơn La giai đoạn 2007- 2015 và định hướng đến năm 2020 được xây dựng vào 2007. Sau đó, Quy hoạch này đã được điều chỉnh vào năm 2014. Phát triển DLCĐ là một trong những nội dung ưu tiên trong định hướng phát triển du lịch của tỉnh. Theo đó, DLCĐ được định hướng phát triển ở 18 xã trên địa bàn 6 huyện, thành phố (Mộc Châu, Vân Hồ, thành phố Sơn La, Quỳnh Nhai, Mường La, Phù Yên). Trên cơ sở quy hoạch được phê duyệt, Sơn La đã lập kế hoạch triển khai mà một trong số các nội dung là xây dựng các quy hoạch một số khu vực trọng điểm phát triển du lịch, trong đó có DLCĐ của tỉnh như Quy hoạch phát triển du lịch Vùng lòng hồ thủy điện Sơn La đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó xác định phát triển DLCĐ tại bản Lướt (xã Ngọc Chiến), bản Quyền, bản Bon (xã Mường Chiên, huyện Quỳnh Nhai). Ở Điện Biên, năm 2008, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Điện Biên 31Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion giai đoạn đến năm 2020 được xây dựng (được phê duyệt theo quyết định số 150/ QĐ-UBND ngày 30/1/2008). Mặc dù đã hơn 10 năm, đến nay, vẫn chưa có bản điều chỉnh hoặc quy hoạch mới nào được xây dựng. Điều đáng tiếc trong bản quy hoạch này là không đưa vào các nội dung cũng như những mục tiêu cụ thể về phát triển DLCĐ. Các loại hình và sản phẩm du lịch ưu tiên, tổ chức không gian du lịch đều không chú ý đến DLCĐ. Tuy nhiên, để định hướng phát triển du lịch của tỉnh, Điện Biên đã ban hành Nghị quyết và Chương trình phát triển du lịch tỉnh Điện Biên đến đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong đó đã có một số nội dung liên quan đến phát triển DLCĐ như đề xuất ban hành một số cơ chế hỗ trợ về đất đai, tín dụng, đào tạo nguồn nhân lực, khuyến khích phát triển DLCĐ; đầu tư xây dựng các Bản văn hóa du lịch có chất lượng cao phục vụ khách du lịch lưu trú và tham quan. Tính từ giai đoạn 2015 đến nay, Điên Biên đã có 13 dự án đầu tư phát triển du lịch nói chung và phát triển DLCĐ nói riêng với tổng số vốn là 71 tỷ đồng, trong đó khoảng 40 tỷ đồng là đầu tư hạ tầng. Hình 1 - Kết quả khảo sát về xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch liên quan đến phát triển du lịch cộng đồng ở Tây Bắc Nguồn: Điều tra xã hội học của tác giả Việc xây dựng các quy hoạch và triển khai các kế hoạch phát triển du lịch ở các địa phương cho thấy sự chủ động trong hoạt động QLNN của chính quyền địa phương. Các quy hoạch được xây dựng là công cụ quản lý giúp các địa phương trong việc quản lý, đầu tư và kiểm soát các hoạt động phát triển du lịch. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, nội dung của các quy hoạch du lịch chưa chú trọng tới việc cụ thể hóa mục tiêu, định hướng phát triển của DLCĐ trong tổ chức không gian phát triển 32 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion du lịch nhằm phát huy lợi thế của từng địa phương. Việc phân định nội dung giữa chiến lược - quy hoạch - kế hoạch chưa được thể hiện rõ trong quy hoạch du lịch dẫn đến việc lập và triển khai kế hoạch phát triển du lịch nói chung và DLCĐ nói riêng còn nhiều chồng chéo, thiếu thống nhất với chiến lược và quy hoạch, nhất là trong đầu tư các dự án phát triển du lịch nói chung và DLCĐ nói riêng. Kết quả khảo sát các chuyên gia về xây dựng và triển khai các đề án, quy hoạch liên quan đến phát triển du lịch cộng đồng ở các địa phương (hình 1) cho thấy các nội dung được chấm điểm cao nhất là A, B, D ở Hòa Bình cũng chưa đạt mức tốt. Bên cạnh đó, cả 7 nội dung liên quan ở Hòa Bình đều được chấm điểm cao hơn 2 địa phương còn lại. - Triển khai ban hành và thực hiện các chính sách về phát triển du lịch cộng đồng Để thúc đẩy sự phát triển của DLCĐ, các địa phương Tây Bắc đã chủ động ban hành định hướng chính sách, thể hiện ở các Nghị quyết của Tỉnh ủy, UBND, HĐND tỉnh. Theo đó, ngoài các chính sách gián tiếp liên quan đến hỗ trợ phát triển du lịch nói chung (hạ tầng, xúc tiến quảng bá...) trong đó có DLCĐ, các văn bản nêu trên đều nhấn mạnh nội dung tạo hành lang pháp lý cho việc hỗ trợ phát triển DLCĐ để cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Cụ thể hóa các Nghị quyết nêu trên, chính sách hỗ trợ trực tiếp phát triển DLCĐ trên địa bàn tỉnh Sơn La đã được ban hành theo Nghị quyết số 22/2016/ NQ-HĐND ngày 14 tháng 12 năm 2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh Sơn La với các mức hỗ trợ cụ thể cho các bản, các hộ gia đình tham gia phát triển DLCĐ. Tính đến tháng 12/2019, Sơn La đã hỗ trợ cho 7 bản DLCĐ và 23 hộ gia đình tham gia kinh doanh DLCĐ. Sự hỗ trợ này thể hiện quan tâm và nỗ lực của tỉnh đối với phát triển DLCĐ, tuy nhiên, sau 3 năm triển khai, mới giải ngân được 600 triệu đồng, bằng 10% nhu cầu của người dân. Số lượng bản và hộ gia đình được hỗ trợ còn ít, chỉ chiếm khoảng 25% so với tổng số bản, hộ gia đình được định hướng phát triển DLCĐ nêu trong Quy hoạch. Theo kết quả rà soát của Sở VHTTDL Sơn La [7], nguyên nhân chính là do mức hỗ trợ cho một bản và hỗ trợ cho hộ gia đình là quá thấp, không đủ để triển khai thực hiện các hạng mục theo quy định nên không thu hút được người dân tham gia. Thủ tục giải ngân nhiều thang nấc, nhiều văn bản, tốn nhiều thời gian khiến các bản và các hộ gia đình không tiếp cận được nguồn vốn vay. Tại Điện Biên, chính sách hỗ trợ phát triển DLCĐ được đưa ra trong Quyết định số 1128/QĐ-UBND ngày 20/9/2010 về phê duyệt đề án Xây dựng Bản văn hóa Dân tộc để phát triển Du lịch tỉnh Điện Biên đến năm 2015. Theo đó, đề án hỗ trợ đầu tư mới 10 bản và nâng cấp 8 bản phục vụ đón khách du lịch. Nội dung hỗ trợ bao gồm hỗ trợ, xây dựng hoặc cải tạo một số hạng mục để có khả năng phục vụ khách du lịch. Tổng kinh phí đầu tư là 11 tỷ đồng, trong đó dành 415 triệu đồng cho tuyên truyền, quảng bá về các bản du lịch này. Sau thời gian triển khai (2010-2015), các chính sách nêu trên nhìn chung đã giúp phát triển DLCĐ và qua đó đời sống người dân ở nhiều bản được cải thiện, góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc. Mặc dù 33Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion “Đề án tiếp tục bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc tỉnh Điện Biên gắn với phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2016- 2020, định hướng đến năm 2025” hướng tới tiếp tục hỗ trợ bảo tồn 3- 5 bản văn hóa - du lịch, tuy nhiên, do thiếu nguồn lực hỗ trợ nên hiện nay nhiều bản đã không còn đón khách du lịch do trang thiết bị, hạ tầng xuống cấp trong khi nguồn thu từ du lịch chưa đủ để hỗ trợ ngược lại. Tỉnh Hòa Bình không ban hành chính sách cụ thể nào hỗ trợ trực tiếp cho phát triển DLCĐ, tuy nhiên, các hoạt động hỗ trợ các trang thiết bị (cho đội văn nghệ và các hộ dân làm du lịch cộng đồng) vẫn thường xuyên được tổ chức, giúp các hộ đăng ký làm DLCĐ có điều kiện bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mường và đủ điều kiện cơ sở vật chất để phát triển DLCĐ. Kết quả khảo sát các chuyên gia về các nội dung liên quan đến xây dựng và ban hành chính sách phát triển DLCĐ ở một số tỉnh khu vực Tây Bắc được trình bày trên bảng 2. Theo đó, ở cả 6 nội dung, Hòa Bình vẫn là địa phương được đánh giá cao nhất và Điện Biên là địa phương được đánh giá thấp nhất. Đặc biệt, khả năng, mức độ bố trí về nguồn lực cho thực thi chính sách phát triển DLCĐ ở Điện Biên được đánh giá rất thấp (2.76/5). Bảng 2 - Kết quả khảo sát về xây dựng và ban hành chính sách phát triển DLCĐ ở một số tỉnh khu vực Tây Bắc TT Nội dung Hòa Bình Sơn La Điện Biên 1 Mức độ đầy đủ (đối tượng hưởng thụ, lĩnh vực cần hỗ trợ...) của các chính sách 3.53 3.3 3.14 2 Mức độ rõ ràng cụ thể của các chính sách 3.34 3.16 3.08 3 Sự phù hợp của các chính sách với nhu cầu của các đối tượng hưởng thụ (hộ gia đình, doanh nghiệp, bán hàng...) 3.32 3.08 3.00 4 Khả năng, mức độ bố trí về nguồn lực cho thực thi chính sách 3.16 3.00 2.76 5 Sự phù hợp của các chính sách phát triển DLCĐ ở địa phương với các chính sách quốc gia về phát triển DLCĐ 3.5 3.32 3.24 6 Sự gắn kết hoặc được lồng ghép của các chính sách, quy định về phát triển DLCĐ với các chính sách phát triển KTXH khác của địa phương. 3.47 3.3 3.14 Ngu ồn: Điều tra xã hội học của tác giả - Công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực, xúc tiến và hợp tá c phát triển du lịch cộng đồng Song song với việc đầu tư phát triển về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, các tỉnh Tây Bắc cũng chú trọng đến công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực liên quan đến phát triển DLCĐ. Định hướng về phát triển nguồn nhân lực liên quan đến phát triển DLCĐ được đề cập trong các Nghị quyết của Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân; Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, các kế hoạch phát triển du lịch... ở tất cả các địa phương Tây Bắc. Triển khai thực hiện định hướng và chính sách cụ thể trên, báo cáo của các tỉnh Tây Bắc cho thấy, các tỉnh Tây Bắc đã tổ chức nhiều lớp tập huấn kỹ năng nghề cho các hộ kinh doanh DLCĐ. Giai đoạn 2015-2019, trung bình mỗi năm, mỗi tỉnh Tây Bắc tổ chức từ 1-2 lớp tập huấn 34 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion lớn (70-100 người tham gia) và 2-3 lớp tập huấn nhỏ về kỹ năng nghề cho các hộ kinh doanh tại các địa bàn có phát triển DLCĐ. Thực hiện chính sách hỗ trợ cho phát triển DLCĐ, trong 3 năm 2016-2019, Sơn La đã tổ chức 05 lớp kỹ năng nghề du lịch cho các bản DLCĐ với tổng cộng 75 học viên, Hòa Bình tổ chức khoảng 10 lớp và Điện Biên là 5 lớp. Nội dung tập huấn chủ yếu là các kỹ năng nghề như kỹ năng nghiệp vụ lễ tân; Thuyết minh viên du lịch; Hướng dẫn viên du lịch; Vận hành cơ sở lưu trú nhỏ; Nghiệp vụ buồng, đặt, giữ buồng; Chế biến món ăn... Cán bộ giảng dạy là các giảng viên tại các Trường Đại học trong khu vực Tây Bắc, Hà Nội và các chuyên gia từ các tổ chức khác. Đối với các cán bộ QLNN về du lịch, để nâng cao trình độ, năng lực tham mưu quản lý, các tỉnh Tây Bắc cũng đã chủ động kết hợp nhiều hình thức đào tạo, cả tại chỗ và gửi đi tham gia các lớp đào tạo ngắn hạn, các hội nghị, hội thảo chuyên ngành du lịch và trực tiếp về phát triển DLCĐ. Bảng 3 - Kết quả khảo sát về công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du lịch cộng đồng ở một số tỉnh khu vực Tây Bắc TT Nội dung Hòa Bình Sơn La Điện Biên 1 Các nội dung hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực DLCĐ thể hiện trong các chính sách của địa phương 3.47 3.16 3.14 2 Mức độ phù hợp với thực tế địa phương của các hình thức tổ chức, nội dung đào tạo, tập huấn kỹ năng làm du lịch cho cộng đồng 3.37 3.22 3.22 3 Mức độ thường xuyên của việc tổ chức đào tạo, tập huấn về DLCĐ 3.16 3.05 3.03 4 Mức độ chính xác, đầy đủ của các số liệu thống kê, đánh giá chất lượng nguồn nhân lực DLCĐ của cơ quan QLNN 3.00 2.81 2.78 Nguồn: Điều tra xã hội học của tác giả Nhìn chung, những năm qua, các tỉnh Tây Bắc đã chủ động trong việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực liên quan đến phát triển DLCĐ. Kết quả khảo sát các chuyên gia về công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực DLCĐ ở một số tỉnh khu vực Tây Bắc được trình bày trên bảng 3, theo đó, điểm đánh giá thấp nhất thuộc về nội dung cung cấp số liệu thống kê, đánh giá chất lượng nguồn nhân lực DLCĐ của cơ quan QLNN. - Bộ máy quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng Cũng như các địa phương khác trên cả nước, trong vòng 15 năm trở lại đây, bộ máy tổ chức quản lý du lịch của các địa phương khu vực Tây Bắc có sự biến động nhất định. Năm 2008, các tỉnh trong vùng đã thành lập Sở VHTTDL trên cơ sở hợp nhất Sở Văn hóa Thông tin, Sở Thể dục thể thao, bộ phận quản lý du lịch thuộc Sở Thương mại - Du lịch, bộ phận Gia đình của Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em. Đến năm 2017, các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong vùng lại tiếp tục tiến hành đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy các cấp, bao gồm cả khối QLNN và đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng thu gọn đầu mối, hợp nhất một số phòng ban, đơn vị. Ở tất cả các Sở VHTTDL các tỉnh Tây Bắc, bộ phận tham mưu chuyên môn về du lịch là Phòng Quản lý du lịch và bộ phận thanh tra, kiểm tra chuyên ngành du lịch thuộc chức năng của Thanh 35Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion tra Sở. Các Phòng Quản lý du lịch có chức năng tham mưu giúp Giám đốc Sở trong công tác quản lý Nhà nước đối với tất cả các hoạt động trong lĩnh vực du lịch. Về nhân lực, Phòng Quản lý Du lịch của các Sở VHTTDL chỉ có từ 5-7 cán bộ. Có thể thấy, với chức năng và nhiệm vụ như vậy, nhân lực của các Phòng Quản lý du lịch là rất mỏng nhưng lại phải đảm nhận nhiều mảng công việc khác nhau nên việc triển khai các nhiệm vụ còn nhiều khó khăn. Nhìn chung, cũng như nhiều địa phương khác trên cả nước, sự không ổn định về bộ máy tham mưu quản lý du lịch trong thời gian qua đã ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của ngành du lịch nói chung và DLCĐ nói riêng ở các địa phương khu vực Tây Bắc. Công tác QLNN về DLCĐ phần lớn mới chỉ dừng lại ở việc quản lý con số, tầm nhìn dài hạn trong phát triển du lịch còn có những hạn chế nhất định. Phát triển DLCĐ có đặc thù riêng, liên quan đến nhiều yếu tố, đặc biệt là trao quyền tự chủ cho cộng đồng, do vậ y dù bộ máy QLNN được tổ chức ở dạng nào, chấ t lư ợ ng độ i ngũ cá n bộ trong ngà nh du lị ch ở các địa phương này cầ n phả i đư ợ c tă ng cư ờ ng hơn nữa. Kết quả đánh giá của các chuyên gia về các nội dung liên quan đến Bộ máy quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng được trình bày trên bảng 4. Theo đó, các nội dung được đánh giá không chênh lệch nhiều đối với 3 địa phương. Bảng 4 - Kết quả khảo sát các nội dung liên quan đến bộ máy QLNN đối với phát triển du lịch cộng đồng ở một số tỉnh khu vực Tây Bắc TT Nội dung Hòa Bình Sơn La Điện Biên 1 Sự phù hợp của cơ cấu bộ máy QLNN về du lịch địa phương hiện nay với yêu cầu quản lý phát triển DLCĐ 3.13 2.92 2.97 2 Năng lực của bộ máy QLNN về du lịch đáp ứng yêu cầu quản lý phát triển DLCĐ 3.00 2.86 2.97 3 Mức độ phối hợp giữa các Sở, Ngành... ở địa phương trong quản lý phát triển DLCĐ 3.00 2.95 2.86 4 Mức độ phối hợp giữa các cơ quan QLNN ở địa phương và TW trong quản lý phát triển DLCĐ 3.21 3.14 3.05 Nguồn: Điều tra xã hội học của tác giả - Đánh giá chung về th ực trạng quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng ở một số tỉnh khu vực Tây Bắc Trong giai đoạn vừa qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn song công tác QLNN đối với phát triển DLCĐ ở các tỉnh Tây Bắc đã có bước chuyển biến tích cực, đạt được những thành công đáng kể. Nhận thức về phát triển du lịch nói chung và DLCĐ nói riêng đã được nâng cao. Các địa phương đã tích cực tổ chức hướng dẫn triển khai các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về DLCĐ, chỉ đạo xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện bước đầu có hiệu quả các cơ chế, chính sách, đề án, dự án phát triển DLCĐ ở các địa phương. Công tác xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển du lịch, trong đó có các nội dung về phát triển DLCĐ đã được chú trọng. Các quy hoạch, kế hoạch này mặc dù còn nhiều khiếm khuyết, tuy nhiên, nhìn chung phù hợp với thực tế địa phương, là tiền đề quan trọng để thu hút đầu tư và triển khai các dự án về DLCĐ. Các địa phương cũng đã nỗ lực kiện toàn và nâng cao năng lực bộ máy để thực hiện tốt công tác QLNN đối với phát triển DLCĐ trên địa bàn, tích cực triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho phát triển DLCĐ được quan tâm 36 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion và tăng cường, đã tạo điều kiện để các hộ gia đình, nhân lực trong các doanh nghiệp nâng cao kĩ năng làm du lịch. Bên cạnh những mặt tích cực đạt được, QLNN đối với phát triển DLCĐ tại một số tỉnh Tây Bắc trong thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Việc cụ thể hoá và ban hành các cơ chế, chính sách để quản lý phát triển DLCĐ còn chưa kịp thời, chưa đầy đủ; nội dung chính sách, mức hỗ trợ thể hiện trong chính sách chưa phù hợp với điều kiện thực tế nên chưa thu hút được các thành phần kinh tế tham gia phát triển DLCĐ. Các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể về phát triển DLCĐ còn chưa đầy đủ, dẫn đến khó khăn cho việc triển khai, đánh giá và thống kê các kết quả về phát triển DLCĐ làm cơ sở cho hoạch định và điều chỉnh chính sách phát triển DLCĐ theo từng giai đoạn. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực DLCĐ cả ở cấp QLNN và lao động tại doanh nghiệp ở các địa phương còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Liên kết phát triển du lịch nội vùng và liên kết ngoại vùng còn nhiều bất cập, các tỉnh trong vùng còn tập trung nhiều cho mục tiêu tăng trưởng và phát triển du lịch riêng từng tỉnh mà chưa chú trọng đúng mức việc liên kết và khai thác lợi thế chung của khu vực, thiếu sự hợp tác nội vùng trong xây dựng và triển khai chiến lược, quy hoạch, đề án về phát triển DLCĐ. Nguyên nhân của các hạn chế trên đến từ nhiều phía, song về phía chính quyền các tỉnh do các nguyên nhân chủ yếu sau: (1) Nhận thức về phát triển du lịch cộng đồng, vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong chỉ đạo, điều hành phát triển DLCĐ của địa phương chưa đầy đủ; (2) Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành ở các địa phương trong xây dựng và quản lý quy hoạch, đề án có liên quan đến DLCĐ; xây dựng và phân bổ nguồn lực đầu tư, kiểm tra đánh giá của một số chính sách liên quan đến phát triển DLCĐ chưa chặt chẽ nên không tận dụng được thế mạnh của mỗi cơ quan, ngành trong việc xây dựng và triển khai các quy hoạch, đề án về phát triển DLCĐ (3) Thiếu sự phối hợp hiệu quả giữa chính quyền các tỉnh trong vùng trong quản lý phát triển du lịch cộng đồng phát triển du lịch dẫn đến tình trạng đầu tư chồng chéo, không hiệu quả và chưa phát huy được thế mạnh của từng địa phương trong vùng. 4. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng của một số tỉnh khu vực Tây Bắc, Việt Nam Trên cơ sở bối cảnh hiện nay, các quy định trong Luật Du lịch 2017, Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và các định hướng về phát triển du lịch, DLCĐ của các địa phương; căn cứ vào điều kiện thực tế tại các tỉnh khu vực Tây Bắc, để phát triển DLCĐ, từng bước khắc phục các hạn chế, yếu kém và nguyên nhân gây ra các hạn chế trong quản lý nhà nước của các tỉnh trong vùng với phát triển DLCĐ cần thiết thực hiện các quan điểm và giải pháp sau: Trước hết về quan điểm, việc hoàn thiện quản lý đối với phát triển DLCĐ ở từng địa phương phải được thực hiện theo các quan điểm sau: 1) Hoàn thiện QLNN đối với phát triển DLCĐ gắn liền với đổi mới nhận thức và đổi mới tư duy về vai trò của DLCĐ trong bức tranh tổng thể về phát triển du lịch địa phương; 2) Hoàn thiện QLNN đối với phát triển DLCĐ để khai thác tối ưu tiềm năng du lịch, thúc đẩy phát triển bền vững DLCĐ; góp phần nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo và 37Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion phát triển KTXH của địa phương nói riêng và của cả khu vực Tây Bắc nói chung; 3) Hoàn thiện QLNN đối với phát triển DLCĐ để nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về du lịch nói chung và về DLCĐ nói riêng trong bối cảnh du lịch Việt Nam được định hướng phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn và những tác động hiện tại, tương lai của CMCN 4.0; 4) Hoàn thiện QLNN đối với phát triển DLCĐ phải trên cơ sở tham khảo, vận dụng các kinh nghiệm trong công tác QLNN đối với DLCĐ trong nước và trên thế giới. Hai là, tiếp tục nâng cao nhận thức của tất cả các chủ thể tham gia hoạt động du lịch, trong đó có cộng đồng địa phương về phát triển DLCĐ, đặc biệt nhận thức về vai trò của DLCĐ trong việc nâng cao đời sống người dân, bảo vệ các giá trị văn hóa của các dân tộc dưới những tác động tiêu cực của du lịch. Ba là , hoàn thiện quy hoạch, đề án liên quan đến phát triển DLCĐ gắn với đổi mới về nội dung và biện pháp triển khai. Rà soát, xây dựng mới hoặc điều chỉnh các quy hoạch, đề án có liên quan đến phát triển du lịch nói chung và DLCĐ nói riêng của cả lãnh thổ khu vực Tây Bắc và của từng địa phương trong vùng theo hướng đảm bảo các nguyên tắc của phát triển DLCĐ, phù hợp với nhu cầu của thị trường, xu hướng phát triển của DLCĐ và đặc điểm đặc thù của địa phương. Bốn là, rà soát, bổ sung và hoàn thiện các chính sách, quy định liên quan đến phát triển DLCĐ theo hướng phù hợp với thực tế địa phương, bảo đảm phát triển DLCĐ bền vững. Lồng ghép các quy định, chính sách về phát triển DLCĐ trong các chính sách về phát triển nông thôn mới và các chính sách hỗ trợ khác của Nhà nước trên địa bàn. Chú trọng công tác đánh giá tác động của các chính sách hỗ trợ phát triển DLCĐ, tác động của các quy định về quản lý hoạt động DLCĐ để ban hành hoặc điều chỉnh cho hiệu quả hơn và phù hợp hơn với đặc thù từng địa phương. Năm là, tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch; tạo điều kiện về cơ chế, chính sách để khuyến khích, thu hút nguồn lực đầu tư phát triển DLCĐ trên địa bàn; Sáu là, chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ tại các điểm DLCĐ đã và đang khai thác. Quản lý chặt chẽ tài nguyên du lịch, xây dựng quy hoạch chi tiết, kế hoạch có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo hình thành, khai thác các sản phẩm du lịch hợp lý, có tính độc đáo, nâng cao giá trị sản phẩm DLCĐ tạo lợi thế cạnh tranh thu hút khách. Bảy là, đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá du lịch gắn với thị trường, tăng cường liên kết các tỉnh Tây Bắc trong xúc tiến quảng bá du lịch nói chung và DLCĐ nói riêng. Tám là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy QLNN đối với hoạt động du lịch nói chung và phát triển DLCĐ nói riêng tại Tây Bắc nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong công tác QLNN đối với phát triển DLCĐ. Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ QLNN du lịch, về quản lý phát triển DLCĐ... đáp ứng với nhu cầu trong tình hình mới. Tiếp tục rà soát và ban hành các chính sách liên quan đến công tác tập huấn, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực DLCĐ nhằm nâng cao chất lượng nhân lực. 5. Kết luận Hoàn thiện công tác QLNN đối với phát triển DLCĐ là yêu cầu quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả phát triển DLCĐ trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay. Bài báo đã phân 38 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion tích thực trạng QLNN đối với phát triển DLCĐ và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện QLNN đối với phát triển DLCĐ ở một số tỉnh khu vực Tây Bắc. Những giải pháp được đề xuất liên quan đến đổi mới công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch nói chung và phát triển DLCĐ nói riêng; hoàn thiện các chính sách, quy định liên quan đến phát triển DLCĐ và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động phát triển DLCĐ... Tất cả các giải pháp này cần được thực hiện đồng bộ và có giai đoạn. Tuy nhiên, thực tế phát triển DLCĐ nói chung và QLNN đối với phát triển DLCĐ nói riêng những năm qua ở vùng cho thấy, muốn DLCĐ phát triển, bên cạnh việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động QLNN, bản thân cộng đồng cũng cần ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình trong việc tham gia vào hoạt động du lịch. Bên cạnh việc tham gia vào hoạt động du lịch để nâng cao đời sống, cộng đồng phải cùng với cơ quan QLNN bảo vệ được văn hoá bản địa - giá trị cốt lõi của cộng đồng, bởi nếu không bảo vệ được các giá trị này, DLCĐ cũng không thể phát triển theo đúng ý nghĩa của nó. Tài l iệu tham khảo: 1. Đỗ Thuý Mùi (2016), Tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng theo hướng bền vững ở vùng Tây Bắc: Thực trạng và những giải pháp, Trường Đại học Tây Bắc. 2. Khương Thị Hồng Nhung (2016), Thực hiện chính sách phát triển du lịch bền vững từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội. 3. Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Điện Biên (2008), Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch tỉnh Điện Biên giai đoạn đến năm 2020. 4. Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Hoà Bình (2014), Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2014-2020, tầm nhìn đến năm 2030. 5. Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Hoà Bình (2017), Định hướng, giải pháp xây dựng và phát triển bền vững loại hình du lịch cộng đồng vùng Tây Bắc. 6. Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Sơn La (2014), Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Sơn La đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 7. Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Sơn La (2019), Báo cáo kết quả triển khai xây dựng chính sách phát triển du lịch cộng đồng và định hướng phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh Sơn La đến năm 2020. 8. Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2018), Chí nh sá ch phá t triể n Du lị ch cộng đồ ng và đà o tạ o nguồ n nhâ n lự c phụ c vụ cho phá t triể n du lị ch cộng đồ ng tạ i Việt Nam., Kỷ yếu hội thảo, Mai Châu, Hòa Bình. 9. Dangi, Tek B. and Jamal, Tazim (2016), An integrated approach to “sustainable community-based tourism, Sustainability, Switzerland. Pp. 8 - 15 10. Ghapar, Amman Abd, Othman, Nor Ain, and Jamal, Salamiah (2015), The Role of Government on Community Resilient in the Homestay Industry in Malaysia, Tourism, Leisure and Global Change. Vol. 2, pp. 8-10. 11. Giampiccoli, Andrea, Jugmohan, Sean, and Mtapuri, Oliver (2015), Chara cteristics and Policies of Community- Based Tourism in the Case of Jamaica, Caucasus Journal of Social Sciences - Business and Economics pp. 45-70. 12. Harwood, Sharon (2010), Planning for Community Based Tourism in a Remote Location, Sustainability. Vol. 2, pp. 1909-1923. 13. Ministry Of Tourism and Entertainment - Jamaica (2015), National Community Tourism Policy and Strategy. Địa chỉ tác giả: Khoa Du lịch, Trường Đại học Mở Hà Nội Email: phuongtt@hou.edu.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_quan_ly_nha_nuoc_doi_voi_phat_trien_du_lich_cong.pdf
Tài liệu liên quan