Phân tích qua thăm khám và tư vấn thông
qua phân chia 5 nhóm phương pháp điều trị sẽ
mang lại một số lợi ích sau đây: vết mổ đường
ngang nhỏ hơn, rạch vẽ ban đầu ra sao là phẫu
thuật như vậy, khi nâng vạt da mỡ bụng
không làm chảy máu nhiều, loại trừ tai chó
bằng hút mỡ, không cần phải rạch rộng thêm
vết mổ ở hai bên hông, loại trừ sự không đồng
nhất về độ dày giữa vạt da mỡ bụng trên và
dưới, vùng thượng vị nhìn phẳng đẹp hơn, có
thể hút mỡ thêm các vùng lân cận như hông và
đùi tạo eo bụng thon hơn kết hợp khân cân cơ
chéo vùng bụng.
Trước đây có nhiều tác giả cho rằng khi hút
mỡ vùng thượng vị là không an toàn, nhưng
trong nghiên cứu của chúng tôi không nhận
thấy tổn thương mạch máu của vạt, nhưng có 8
ca hoại tử viền mép da ngay trung tâm mép vạt
không đáng kể (có khả năng là do hút phải lớp
mỡ nông, xuyên vượt qua lớp cân Scarpa) hoặc
bóc tách lấn chạm vào bờ sườn 2 bên.
Bóc tách vạt da bụng trên rốn đến mũi ức là
cần thiết để khâu cột cân cơ thẳng bụng bị nhão
hoặc để khâu không căng với vạt da thành bụng
dưới. Điều quan trọng để an toàn cho vạt da
bụng là đừng bóc tách hai bên đến tới bờ xương
sườn để bảo vệ các nhánh xiên tạo nên một
mạng mạch cung xiên nuôi vạt bụng trên cuống
rốn và không cắt bỏ lớp mỡ thừa ở vạt da bụng
trên quá lớp cân cơ Scarpa(9,11). Kiểm soát được
điều này sẽ bảo tồn mạch máu cho vạt da bụng
rất tốt và bảo đảm an toàn cho phẫu thuật cắt bỏ
da mỡ thừa vùng bụng rộng rãi.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu nhận định qua 102 trường hợp phẫu thuật tạo hình thành bụng an toàn tại bệnh viện chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 179
BƯỚC ĐẦU NHẬN ĐỊNH QUA 102 TRƯỜNG HỢP PHẪU THUẬT
TẠO HÌNH THÀNH BỤNG AN TOÀN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Đỗ Quang Hùng*, Lê Hành*, Đại Diệp Lan Thanh*
TÓM TẮT
Giới thiệu: Xem xét những thuận lợi của phẫu thuật hút mỡ nhằm chuẩn hóa các phương pháp phẫu thuật
tạo hình thành bụng cho mọi đối tượng bệnh nhân. Tất cả các bản phân loại đều dựa vào các kết quả thăm khám
và xem xét đánh giá dựa vào 3 yếu tố chính gây biến dạng thành bụng, đó là lượng mỡ thừa, lượng da thừa, mức
độ lỏng lẻo và vòm cong của cân cơ thành bụng.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bao gồm 102 bệnh nhân, tuổi từ 22-66. Thời gian theo dõi từ sau
mổ đến 2 tháng. Tất cả bệnh nhân đến tư vấn về biến dạng thành bụng đơn thuần hoặc có thành bụng nhão trên
rốn, có vết rạn da bụng sau sinh trên, dưới rốn hoặc cả trên dưới rốn, có da mỡ thừa chảy xệ bụng dưới. Các
bệnh nhân trong nghiên cứu là các bệnh nhân đã có mỡ thừa và da thừa.
Kết quả: Bệnh nhân hài lòng sau mổ 91/102 (89,2%). Các biến chứng hay gặp trong nghiên cứu là có hoại
tử da vùng trung tâm mép vạt từ 3-18 cm2: 8/102 ca, đau kéo dài vùng quanh rốn 1/102 ca trong 3 tháng đầu do
co kéo vết mổ, tụ dịch huyết thanh 11/102 ca trong 4 tuần đầu. Nhiễm khuẩn nhẹ vết mổ 7/102 ca, dị ứng đỏ và
phồng rộp vết mổ do đắp gạc tẩm dung dịch Betadine 5% 1 ca.
Kết luận: Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ cắt da mỡ thừa vùng bụng có kèm hút mỡ hoặc có tạo hình miệng
rốn mới là một phẫu thuật thật sự an toàn và có ích cho bệnh nhân có nhu cầu.
Từ khóa: phẫu thuật tạo hình thành bụng, hút mỡ, cắt da mỡ thừa vùng bụng.
ABSTRACT
PRELIMINARY REPORT ON SAFETY ABDOMINOPLASTY IN 102 PATIENTS AT CHO RAY
HOSPITAL
Do Quang Hung, Le Hanh, Dai Diep Lan Thanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 179 - 188
Introduction: The ideal abdomen is formed by a proper relationship between the musculofascial system, the
subcutaneous adipose tissue and the quantity of skin. The surgeon’s responsibility in abdominoplasty is to
provide a flatter and narrower abdomen. The abdominoplasty including dermolipectomy, liposuction and
musculofascial abdominal wall layer. The three primary components of the abdominal deformity help to define the
severity of the problem and to select the appropriate treatment. The classifications is based on the results of
examination of the three main components of abdominal deformity. It is important to study the anatomy of
abdominal wall and the blood supply of each part of it and to elevate the upper flap in an inverted V-fashion to
preserve the lateral blood supply coming from segmental perforators, intercostal, subcostal and lumbar arteries.
Liposuction cannula should not also go in the costal margin to preserve the lateral blood supply.
Methods: The study was done on 102 patients their ages ranged from 22 and 66 years. All patients
complained of abdominal deformity. Patients included in the study were those having excess fat and excess skin.
We classified our abdominoplasty candidates into five classes. After completing the liposuction we start the
* Khoa Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS. Đỗ Quang Hùng ĐT: 0903718442 email: tmv_thuha@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 180
abdominoplasty. A lower abdominal excision and flap elevation usually by the electrocautery till the xyphoid
process with minimal elevation of the lateral supra-umbilical region. Undermining is done in an inverted V
fashion, preserving the blood supply coming to the upper flap from the segmental perforators. Separation of the
umbilicus from the flap is a part of flap elevation. Plication of the rectus sheath and excision of the excess skin is
done. New position of the umbilicus is then done. The last step is closure in two layers after putting a suction
drain. Light dressing is used. The suction drains are removed 2-3 days postoperation. Sutures removed 14 days
following the operation. Abdominal binder is worn for 3 months. Regular follow-up on an outpatient basis was
done every week for one month to detect early complications.
Results: The study was done on 102 patients complaining of abdominal deformities in the form of bulging,
redundancy, or abdominal lipodystrophy. The flap elevation was easier (due to thinner flap after liposuction) with
less bleeding. Patient satisfaction was achieved in 91 patients (89.2%). The complications met in the study were
in the form of central flap loss in 8 patient (from 3-18cm2), persistent anaesthesia of the central infraumbilical
region in one 1 patient and11 patients with seroma. Minor wound infection occurred in 7 patients. The case of
central flap loss was managed by surgical debridement and secondary sutures. The patients with seroma were
treated by frequent aspiration drainage and compression
Conclusion: It is safe and beneficial to do combined liposuction and abdominoplasty in huge cases with
excess fat, excess skin and musculofascial laxity of the abdominal wall.
Key words: abdominoplasty, liposuction, dermolipectomy.
MỞ ĐẦU
Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ thành bụng là
nói đến khá nhiều loại phương pháp phẫu thuật
vùng bụng khác nhau như từ hút mỡ đơn thuần
đến cắt da mỡ vùng bụng, có hoặc không kèm
hút mỡ vùng bụng hoặc có tái tạo miệng rốn và
khâu cân cơ thành bụng(1,2,14). Dáng bụng đẹp ở
người phụ nữ phải hài hòa mối tương quan giữa
các hệ thống cơ xương, mô mỡ dưới da và chất
lượng da. Vì thế khi phẫu thuật tái tạo thành
bụng đòi hỏi phục hồi toàn bộ các lớp(10,15). Dáng
bụng đẹp phải là bụng săn chắc và có eo hẹp
được công nhận từ cổ xưa(3,4,13). Nên bác sĩ phẫu
thuật thẩm mỹ tạo hình thành bụng sẽ có trách
nhiệm tạo ra một vùng bụng phẳng săn chắc,
loại bỏ các nếp rạn da, chống nhão và túi phình
thành bụng bằng khâu củng cố cân cơ thành
bụng và tạo một dáng eo thon lý tưởng của vòng
2 nhưng sẹo được dấu kín đáo trong nếp quần
tắm và vết mổ càng ngắn càng tốt đáp ứng yêu
cầu bệnh nhân và cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Phẫu thuật tạo hình thành bụng có khả năng
điều chỉnh tổn thương da vùng bụng dưới, làm
lỏng lẻo và bằng phẳng vùng bụng trên, lấy bỏ
đi da thừa và mỡ thừa hoặc ổ phình vùng bụng
bị lão hóa và thoái triển. Vì thế điều quan trọng
phải xác định các biến dạng của vùng bụng ở
những cá nhân riêng biệt(11). Do đó, có 3 yếu tố
cơ bản gây biến dạng thành bụng: chất lượng
da, mức độ mỡ tích tụ và hệ thống cân cơ thành
bụng. Ba yếu tố này xác lập mức độ biến dạng
thành bụng trầm trọng ra sao và có phương
pháp điều trị thích hợp.
Ban đầu, phẫu thuật thành bụng cơ bản là
điều chỉnh chức năng thành bụng liên quan đến
thoát vị rốn dãn nhão cân cơ thành bụng trước,
sau này thêm cắt da mỡ thành bụng nhằm lấy đi
phần da mỡ thừa chảy xệ hay lòng thòng vùng
bụng dưới. Đến những năm 1960 phát triển
thành một phương pháp phẫu thuật thành bụng
cổ điển bằng một số đường mổ thấp ngang
bụng kèm bóc tách rộng và khâu cột cơ(7,8).
Thời kỳ này bóc tách quá rộng rãi và đường
mổ rạch rộng qua 2 bên để giải quyết phần da
thừa 2 bên. Vào những năm 1980 với sự phát
triển của thủ thuật hút mỡ đã mở ra một kỷ
nguyên mới và một phương pháp biến đổi tận
gốc, thường xuyên giúp đạt đến một phương
pháp phẫu thuật tạo dáng khá hoàn chỉnh. Hút
mỡ đã trở thành nền tảng trong việc khôi phục
hình dáng đẹp cho bệnh nhân có thành bụng bị
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 181
biến dạng. Và hút mỡ cũng được xem là phẫu
thuật để lại sẹo nhỏ và ít xâm lấn(7,9,11).
Xem xét những thuận lợi của phẫu thuật hút
mỡ nhằm chuẩn hóa các phương pháp phẫu
thuật tạo hình thành bụng cho mọi đối tượng
bệnh nhân(4,5). Vì thế cần phân tích lại nguồn gốc
căn bản của hút mỡ ngày nay và cắt da mỡ thừa
cổ điển vùng bụng trước đây. Nhiều tác giả đã
đề nghị một số bản phân loại phẫu thuật tạo
hình thành bụng. Tất cả các bảng phân loại đều
dựa vào các kết quả thăm khám và xem xét
đánh giá dựa vào 3 yếu tố chính gây biến dạng
thành bụng, đó là lượng mỡ thừa, lượng da
thừa, mức độ lỏng lẻo và vòm cong của cân cơ
thành bụng.
Vào năm 1995. Eaves đã phân chia đối tượng
bệnh nhân cho phẫu thuật thành bụng thành 3
nhóm sau đây(13,15):
Nhóm 1: Da thừa ít gần như bình thường,
Mỡ thừa nhẹ đến vừa, Cân cơ bụng bình thường
Nhóm 2: Da thừa ít gần như bình thường,
Mỡ thừa nhẹ đến vừa, Bất thường cân cơ bụng
Nhóm 3: Da thừa vùa đến nhiều, Mỡ thừa
vừa đến nhiều, Cân cơ bụng bình thường hoặc
bất thường.
Da thừa Mỡ thừa Cân cơ thành bụng
Bình thường-
Thừa ít
Thừa ít-
Thừa vừa
Bình thường
Bình thường-
Thừa ít
Thừa ít-
Thừa vừa
Bất thường
Thừa vừa-
Thừa nhiều
Thừa vừa-
Thừa nhiều
Bình thường
hoặc bất thường
Bệnh nhân nhóm 1 đáp ứng tốt với hút mỡ
đơn thuần, da thừa tự co lại do tính chất đàn hồi
của da và vết sẹo nhỏ do đường rạch da nhỏ vừa
đủ để đưa ống hút mỡ xuống bên dưới da. Bệnh
nhân nhóm 2 thường phẫu thuật tạo hình thành
bụng tối thiểu bằng cắt bỏ một phần da mỡ thừa
vùng bụng dưới, khâu cột cân cơ thành bụng
trên rốn, có thể sử dụng nội soi hỗ trợ. Bệnh
nhân nhóm 3 cần phẫu thuật mở chuẩn hóa cắt
da mỡ thừa kèm khâu cột thêm cân cơ thành
bụng, có thể hỗ trợ thêm hút mỡ.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả và lợi ích của hút mỡ và
phẫu thuật cắt da mỡ thừa vùng bụng có tái tạo
thành bụng và dời rốn với cắt da mỡ thừa và
khâu cân cơ thành bụng. Tùy theo khám xét ban
đầu và qua tư vấn trực tiếp bệnh nhân, chúng
tôi chia bệnh nhân làm 5 nhóm điều trị để
nghiên cứu:
Nhóm 1: Hút mỡ đơn thuần
Nhóm 2: Cắt da mỡ thừa vùng bụng, không
dời rốn.
Nhóm 3: Hút mỡ và cắt da mỡ thừa vùng
bụng, không dời rốn.
Nhóm 4: Cắt da mỡ thửa vùng bụng, có dời
rốn.
Nhóm 5: Hút mỡ và cắt da mỡ thừa vùng
bụng, có dời rốn
Điều quan trọng là nghiên cứu về giải phẫu
thành bụng và nguồn cung cấp máu ở mỗi khu
vực da vùng bụng. Xem hình vẽ sơ đồ cung cấp
máu, chúng ta nhận thấy điều cần thiết để nâng
vạt da bụng trên khi mổ đường ngang là phải
bảo tồn nguồn cung cấp máu thành bụng hai
bên xuất phát từ mạng mạch máu từ nhánh
cung xiên, liên sườn, hạ sườn và nhánh lưng.
Khi hút mỡ bụng, đầu ống hút không nên đi về
hướng thành bụng bên và không lên trên, chỉ
khống chế dưới lớp cân Scarpa (nghĩa là không
hướng về bờ xương sườn để bảo tồn hệ thống
cung cấp máu từ thành bụng bên).
PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu bao gồm 102 bệnh nhân, tuổi từ
22-66. Thời gian theo dõi từ sau mổ đến 2 tháng.
Tất cả BN đến tư vấn về biến dạng thành bụng
đơn thuần hoặc có thành bụng nhão trên rốn, có
vết rạn da bụng sau sinh trên, dưới rốn hoặc cả
trên dưới rốn, có da mỡ thừa chảy xệ bụng dưới.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu là các bệnh
nhân đã có mỡ thừa và da thừa. Bệnh nhân
chúng tôi chia làm 5 nhóm tùy theo mức độ biến
dạng thành bụng và quyết định cuối cùng của
bệnh nhân sau khi bác sĩ tư vấn.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 182
Bệnh nhân nhóm 1: nhận phương pháp điều
trị hút mỡ đơn thuần thường có biến dạng thành
bụng dạng vòm, hoặc phình vùng thượng vị
nhưng chất lượng da còn săn chắc tốt, không rạn
da, không chảy xệ.
Bệnh nhân nhóm 2 nhận phương pháp điều
trị bằng cắt da mỡ thừa không dời rốn, thường
bệnh nhân nhóm này có chảy xệ da mỡ thừa
vùng bụng dưới, hoặc có nếp rạn da sau sinh tập
trung chủ yếu vùng bụng dưới và trên xương
vệ, thành bụng trên không có tích tụ mỡ nhiều,
không gây biến dạng vòm thành bụng.
Bệnh nhân nhóm 3: nhận phương pháp điều
trị bằng việc kết hợp hút mỡ thừa vùng hông
bụng và vùng bụng trên kèm cắt da mỡ thừa
vùng bụng dưới có tính chất chảy xệ và nhiều
nếp rạn da tập trung vùng quanh dưới rốn.
Bệnh nhân nhóm 4: nhận phương pháp điều
trị bằng cắt da mỡ thừa vùng bụng dưới theo
đường ngang bụng trên rốn hoặc ngang rốn bao
gồm nhiều nếp rạn da hoặc da chảy xệ, có nhão
thành bụng nên phải khâu cân cơ dài từ mũi ức
đến vệ, kèm tạo hình miệng rốn mới ở vạt da
bụng trên.
Bệnh nhân nhóm 5: là những bệnh nhân có
da bụng nhão trầm trọng, mỡ thừa nhiều ở
nhiều vị trí vùng bụng, nhão hệ thống cân cơ
thành bụng trên và dưới. Nhóm này phải kết
hợp hút mỡ thừa vùng bụng trên, hông bụng 2
bên, dưới sườn (sát trong vùng thượng vị) và
mỡ trên vệ. Sau đó cắt da mỡ thừa vùng bụng ở
đường ngang trên rốn, bóc tách vạt bụng trên
đến mũi ức theo hình V ngược, tạo hình miệng
lỗ rốn theo hình Y kép và M kép, hoặc cắt rời lỗ
rốn dạng tròn, tạo miệng rốn bằng đường mổ
gạch ngang dài 2,5-3cm. Khâu phục hồi cân cơ
thành bụng (cơ thẳng bụng và cơ chéo).
Tiêu chuẩn lọai trừ
BN có bệnh lý toàn thân như bệnh thiếu
máu cơ tim, bệnh thuyên tắc phổi. BN có sẹo
vùng bụng, có đường mổ thoát vị thành bụng.
Ghi nhận tiền sử bệnh đầy đủ, chuẩn bị
trước mổ, chụp hình.
Vẽ đánh dấu trước mổ vùng hút mỡ bụng
dự định hút, khi hút mỡ nên thường xuyên ứng
dụng phương pháp véo da (pinching test) để
đánh giá lượng mỡ đã được lấy đi khi hút và sự
cân đối giữa càc vùng đã hút mỡ.
Bệnh nhân được gây mê nội khí quản hoặc
mê mặt nạ thanh quản, tư thế nằm ngửa.
Đầu tiên nên hút mỡ trước, hút mỡ được
xem như là cơ bản làm phẳng vùng bụng,
vùng hút mỡ được đánh dấu trước mổ bao
gồm: hông, thượng vị, và toàn bộ thành bụng
trên ngay vùng sẽ được cắt tại trung tâm (cẩn
thận vùng bờ sườn và hạ sườn 2 bên). Vùng
trên xương vệ cũng hút mỏng để tránh sự
không đồng nhất giữa vạt da bụng trên và vạt
da bụng dưới rốn. sau đó tiến hành cắt da mỡ
thừa vùng bụng.
Chúng tôi dùng kỹ thuật hút ướt bằng cách
dùng kim bơm nhiều lỗ dài 25cm dưới áp lực
dương đổ đầy dung dịch nước muối đẳng
trương 0,9% có pha adrenaline (1:100.000) vào
trong mô mỡ dự định hút. Kỹ thuật này đã tạo
ra một vùng săn chắc và sưng to lên ở vùng đã
được đánh dấu cho hút mỡ chính xác hơn và
giảm biến chứng chảy máu vùng da bụng sau
mổ. Làm đường rạch da nhỏ kín đáo ở rốn, trên
mu, vùng da sẽ được cắt da mỡ thừa, hoặc
đường bụng ngang thấp nằm tương ứng với
quần tắm. Thường dùng ống hút số 5, điều
khiển ống hút mỡ theo hướng từ trên da ngay
vùng vạt da mỡ thừa sẽ cắt bỏ xuống dưới cân
cơ, dưới lớp cân Scarpa để hút lớp mỡ sâu, bảo
tồn lớp mỡ nông nhằm chống tổn thương trung
bì da cho vạt da còn lại. Dùng cảm giác bàn tay
và thử nghiệm véo da (pinch test) có thể phán
đoán số lượng mỡ đã được hút và độ dày của
vạt da cũng như kiểm tra sự đồng đều. Tránh
hút mỡ kiểu đan chéo hình chữ thập, nên hút
theo đường nan hoa.
Sau khi hoàn tất phần hút mỡ, chúng tôi bắt
đầu cắt da mỡ thừa qua đường nếp lằn bụng
dưới ngang bụng và cắt đường ngang trên,
dùng đốt điện để cắt vạt da mỡ bụng dưới dự
định bỏ và bóc tách từ bên T sang P của bệnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 183
nhân, cầm máu kỹ vùng mổ. Sau đó tiến hành
bóc tách rốn tự do khỏi vạt da bụng trên, tiếp tục
bóc tách vạt da bụng trên từ rốn lên trên theo
hình V ngược đến ngay mũi ức đã được đánh
dấu trước đó ở tư thế đứng, nhưng nâng tối
thiểu vùng trên rốn cạnh hai bên thành bụng để
tránh tổn thương các nhánh xiên là nguồn mạch
chính cho vạt da thành bụng trên.
Bóc tách vạt da bụng trên rốn được làm theo
kiển hình V đảo ngược, bóc tách sát lớp cân cơ
thẳng bụng và cầm máu kỹ bằng đốt điện. Bóc
tách bảo đảm giữ vạt xa bờ xương sườn để bảo
tồn mạch máu cung cấp cho vạt bụng trên đến
từ các nhánh động mạch cung xiên từ thành
bụng bên. Đây là bước quan trọng nhất về kỹ
thuật bóc tách vạt da mỡ bụng trên, do vậy sau
khi hút, tiếp theo là bóc tách nâng vạt bụng trên
là khá quan trọng để bảo tồn hệ thống cung cấp
máu cho vạt bụng trên từ thành bụng bên. Nếu
không có hút mỡ trước đó, sau khi nâng vạt da
bụng trên có thể cắt bỏ bớt lớp mỡ dưới cân
Scarpa nhằm tạo vạt da mỏng bớt và tránh
phình vùng bụng trên sau mổ (áp dụng cho
nhóm 4).
Bóc tách cuống rốn khỏi vạt là một phần
trong quá trình nâng vạt da bụng trên. Khâu cột
bao cơ thẳng bụng bằng Prolene 1.0. Cắt phần
da thừa và mỡ thừa ở vạt bụng trên đảm bảo
không căng quá khi khâu (thường chúng tôi
dùng chỉ nylon 3.0 khâu ướm thử không có trợ
giúp của phụ tá). Khâu ướm tạm vạt vào bên
dưới bằng nylon 2.0, kế đó xác định lại vị trí mới
của miệng rốn đổ ra vạt da bụng trên. Để tạo
miệng rốn bằng cách rạch da kiểu hai hình bầu
dục theo chiều ngang, lột da chừa một phần
trung bì da rồi rạch dọc, bóc tách rộng. Hoặc
chúng tôi tạo miệng rốn theo phương pháp kiểu
hình Y kép (miệng rốn mới trên vạt da bụng
trên) và kiểu hình M kép (cắt tách rời cuống rốn
ở vị trí miệng rốn cũ). Khâu trung bì cuống rốn
vào cân cơ thẳng bụng ở góc 6 và 12 giớ. Khâu
cuống rốn vào vạt bụng trên một lớp bằng chỉ
Prolene 4.0 xen kẻ 6.0. Cuối cùng khâu kín vạt
da bụng trên vào bên dưới 2 lớp, lớp trong bằng
chỉ tiêu Vicryl 3.0 và khâu da bằng Prolene 4.0
xen kẽ 6.0. Sau khi đặt 4 ống dẫn lưu kín bằng
ống nuôi ăn số 10 với áp lực âm bằng ống tiêm
50cc, có cắt thêm lỗ dẫn lưu đến số 10 ở bốn
vùng thành bụng: trên rốn bên P, bên T và 2 bên
hông. Băng nhẹ lớp gạc hoặc dùng gain bụng
băng ép nhẹ lên thành bụng ngay sau mổ, theo
dõi lượng dịch từ ống dẫn lưu.
Sau mổ chuyển khoa Hồi sức cấp cứu theo
dõi sát để tránh tình trạng thuyên tắc tĩnh mạch
sâu. Thường rút 4 ống dẫn lưu sau 2-3 ngày sau
mổ hoặc khi nào dịch màu nâu loãng dần dưới
30ml/24 giờ. Cắt chỉ thành bụng sau mổ 12-14
ngày. Mang gain bụng trong vòng 3 tháng, theo
dõi mỗi tuần trong tháng đầu để phát hiện sớm
biến chứng như tụ dịch huyết thanh, nhiễm
khuẩn (nhất là trong 2 tháng đầu theo dõi thành
bụng cực kỳ quan trọng phát hiện kịp thời tụ
dịch và phù nề, viêm tấy thành bụng và vết mổ,
nếu không xử trí sớm sẽ gây hoại tử mép vạt da,
viêm tấy và bung vết mổ do áp lực dịch tăng
dưới vạt), sau đó theo dõi mỗi tháng trong vòng
6 tháng. Nên chụp hình và đo cân nặng, vòng
bụng mỗi lần tái khám để so sánh.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua nghiên cứu 102 bệnh nhân có than
phiền về hình dáng và biến dạng thành bụng
trong vòng 3 năm 2007-2010 ở nhiều mức độ từ
phình to thành bụng, thừa da mỡ, hoặc không
đồng nhất vòng bụng đơn thuần hoặc có kết
hợp nhão thành bụng trên, trong đó có 99 bệnh
nhân nữ, 3 bệnh nhân nam.
Nhóm 1: Có 25 bệnh nhân, trong đó có 2 nam,
tuổi trung bình 46 tuổi (từ 26 đến 66 tuổi), lượng
mỡ hút ra khoảng 1,0 lít đến 4,5 lít), trung bình 2,6
lít, thời gian nằm viện khoảng 3 ngày (từ 2 đến 11
ngày). Có 1 ca mổ kết hợp đặt túi ngực qua đường
quầng vú, 1 ca treo cung mày và tạo hình quầng
vú, có 5 ca kèm hút mỡ vùng khác.
Nhóm 2: Có 13 bệnh nhân, tuổi trung bình
42 (từ 29 đến 66 tuổi). Mảng da mỡ thừa cân
nặng trung bình 2,5 kg (từ 1,8 đến 3,3kg), với
thời gian nằm viện 4-8 ngày. Đa phần trong
nhóm này đã sinh 2 con.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 184
Nhóm 3: Có 21 bệnh nhân. Tuổi trung bình
là 42 (từ 22 đến 66 tuổi). Hút mỡ kết hợp có
lượng mỡ từ 1,0 đến 5 lít (trung bình 2,5 lít). Đa
số bệnh nhân có vết sẹo mổ bắt con (7ca), thời
gian nằm viện 2 đến 9 ngày (trung bình 6 ngày),
kết hợp hút mỡ vùng khác có 2 ca (ở đùi và cánh
tay) và 1 ca có mổ kết hợp tạo hình môi bé.
Nhóm 4: 35 bệnh nhân, 1 bệnh nhân nam,
tuổi trung bình 41 tuổi (từ 23 đến 59 tuổi), thời
gian nằm viện trung bình 6 ngày (từ 3 đến 34
ngày). 1 bệnh nhân nam có thành bụng to, sau
khi cắt da mỡ vùng bụng cân nặng khoảng 7,5
kg. Có biến chứng hoại tử vạt da bụng vùng
trung tâm rộng, sau đó được cắt bỏ da mỡ hoại
tử khô, khâu tái tạo lại thành bụng thành công
tốt. Bệnh nhân này giảm xuống 18 kg sau đợt
mổ cắt da mỡ thừa lượng lớn có dời rốn và xuất
viện ngày thứ 34. Có 2 bệnh nhân hút mỡ thêm
vùng đùi và cánh tay.
Nhóm 5: Có 08 bệnh nhân, tuổi từ 28 đến 52
(trung bình 42 tuổi), hút mỡ kèm theo từ 0,3 lít
đến 3 lít (trung bình 1,7 lít), phần da mỡ thừa cắt
bỏ vùng bụng cân nặng từ 1,8 đến 2,5 kg.
Nguyên nhân đa sản có 3-4 con, có bệnh nhân
sinh con to đến 4,5kg hoặc sinh đôi nên gây biến
dạng lớn thành bụng.
Nhìn chung qua nghiên cứu các nhóm,
lượng mỡ hút ra trung bình khoảng 2500cc. Vạt
da thành bụng trên nâng lên dễ dàng sau hút
mỡ thừa chỉ còn dãy xơ bên dưới vạt và ít chảy
máu, nhưng chảy máu nhiều khi cắt đốt trực
tiếp, sát theo cân cơ thẳng bụng. Sau mổ vòng
bụng giảm rõ rệt, chỗ phình to thường bằng
phẳng sau mổ. Không có biến chứng nặng sau
mổ và trong mổ.
Bệnh nhân hài lòng sau mổ 91/102 (89,2%).
Các biến chứng hay gặp trong nghiên cứu là có
hoại tử da vùng trung tâm mép vạt từ 3-18 cm2:
8/102 ca, đau kéo dài vùng quanh rốn 1/102 ca
trong 3 tháng đầu do co kéo vết mổ, tụ dịch
huyết thanh 11/102 ca trong 4 tuần đầu. Nhiễm
khuẩn nhẹ vết mổ 7/102 ca, dị ứng đỏ và phồng
rộp vết mổ do đắp gạc tẩm dung dịch Betadine
5% 1 ca. Mẫu da thừa kiểu tai chó chưa xử lý
triệt để khi mổ 4 ca. Có 1 ca hoại tử vạt da diện
rộng ngay trung tâm vạt sau khi cắt bỏ khoảng
7,5 kg vùng da mỡ vùng bụng.
Hoại tử vạt da bụng trên ở dọc giữa trung
tâm thành bụng được cắt lọc làm sạch và khâu
kín một lớp bằng Prolene 2.0 – 3.0 một lớp, thay
băng mỗi ngày 6 ca, còn 2 ca sau khi cắt bỏ hoại
tử da và làm sạch, thay băng mỗi ngày, khâu da
kỳ hai. 4 ca có mẫu thừa da 2 bên thành bụng
được cắt bỏ tai chó và lấy thêm một phần mỡ
dưới da, khâu da 1 lớp bằng chỉ Prolen 4.0 hoặc
5.0. Không có biến chứng trầm trọng nào trong
nhóm nghiên cứu. Tai chó 2 bên chủ yếu là
nhóm chỉ cắt da mỡ thừa đơn thuần không kèm
hút mỡ.
Bảng biến chứng sau mổ
Số
TT
Biến chứng Số BN Tỉ lệ% Ghi chú
1 hoại tử da vùng
giữa trung tâm mép
vạt từ 3-18 cm2
8 7,84 Trong năm 2007,
đầu 2008
2 đau kéo dài vùng
cuống rốn
1 0,98
3 tụ dịch huyết thanh 11 10,78 Xuất hiện muộn
tuần thứ 2 sau
mổ, bụng căng,rỉ
dịch vết mổ nơi
rút ống
4 Tai chó 2 bên 4 3,92 Nhóm không hút
mỡ
5 dị ứng đỏ và phồng
rộp vết mổ
1 0,98 do đắp gạc tẩm
dung dịch
Betadine 5%
6 viêm đỏ nhẹ vùng
mổ
7 6,86 Thường thấy nơi
đặt ống dẫn lưu
7 hoại tử vạt da mỡ
rộng
1 0,98 Vạt da mỡ cắt
rộng nhiều
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 185
Vùng A: Không nên hút mỡ để tránh tổn
thương các nhánh cung xiên.
Vùng B: Vùng hút mỡ từ thượng vị đến sát
vùng sẽ cắt da mỡ thừa thành bụng
Vùng C: Vùng không cần hút mỡ vì sẽ cắt da
mỡ hoàn toàn ở đây.
Vùng D: Vùng trên vệ cũng nên hút để làm
vạt da bụng dưới bằng phẳng như vạt da bụng
trên.
Sơ đồ cung cấp máu thành bụng trước (bên P)
Giải phẫu mạch máu ở thành bụng.
DSEA (ĐM thượng vị trên sâu)
SSEA (đm thượng vị dưới)
DCIA (đm mũ chậu sâu)
SCIA (đm mũ chậu nông)
SIEA (đm thượng vị dưới nông)
SEPA (đm thẹn ngoài nông): nhánh xiên
cung (vùng III), đm lưng và hạ sườn, liên sườn
Huger mô tả 3 vùng cung cấp máu(11,13):
Vùng I: nuôi dưỡng thành bụng trước bằng
cung ĐM thượng vị sâu cho các nhánh dọc, trải
rộng từ mũi ức đến vùng chậu và khu trú từ mặt
bên bao cơ thẳng bụng bên này sang bên kia.
Vùng II: từ GCTT P-T, xuống dưới nếp bẹn
và chậu cung cấp máu bởi nhánh nông của ĐM
mủ chậu và ĐM thẹn ngòai.
Vài nhánh của ĐM mủ chậu sâu của vùng
III ngay trên GCTT đi xuống dưới vào vùng II.
Vùng III: nuôi mặt trước bên của thành
bụng, ngay trên GCTT, cạnh bao cơ thẳng bụng,
Cung cấp bởi ĐM liên sườn và ĐM lưng,
ĐM hạ sườn,
Do các MM này đi xuống dưới, vào trong
lớp mỡ nông của thành bụng nên các MM này sẽ
bao phủ lên các MM vùng I để c/c máu cho da
vùng trong giữa.
Tuần hoàn vùng bụng dưới được c/c bởi
hệ thống ĐM thượng vị nông, thẹn ngoài nông,
và mũ chậu nông (vùng III)
Các hệ thống mạch này liên kết phong
phú cho các nhánh nối đối bên.
CBDMTVB là các hệ thống cung cấp máu
vùng I và II.
Vạt da bụng chỉ phụ thuộc vào hệ tuần hoàn
vùng III, mạch máu vùng III là nguồn mạch máu
c/c duy nhất.
nhánh bên đm mũ chậu sâu
đm mũ chậu sâu
đm mũ chậu nông
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 186
Nếu mạch máu vùng III bị tổn thương, như
sẹo dưới sườn dài (cắt túi mật), MM c/c cho
phần mô bên trong dưới bị đứt, có thể gây họai
tử da vùng bụng dưới.
Còn đường mổ giữa thẳng bụng: nguy hại
tuần hoàn vạt da bụng.
Cấu trúc vững chắc của thành bụng
(Hartrampf), gồm:
2 cấu trúc ngang (bao trước cơ thẳng
bụng và cân ngang).
và 2 cấu trúc dọc.
BÀN LUẬN
Việc cắt bỏ da mỡ thừa thành bụng lần đầu
tiên nhằm điều chỉnh khối thoát vị ở thành
bụng. Sau này đã phát triển nhiều kỹ thuật trong
cắt da mỡ thừa thành bụng nhưng 3 phương
pháp thường được sử dụng, đó là: cắt theo
đường dọc giữa, cắt theo đường ngang, kết hợp
cắt theo đường giữa và ngang(2,7). Trong những
năm 1960 đến 1980 đa số đều chọn đường cắt
ngang thấp cho hầu hết bệnh nhân có yêu cầu
làm phẫu thuật tạo hình thành bụng. Việc hút
mỡ hỗ trợ cắt da mỡ thừa thành bụng vào
những năm 1980 đã hình thành thêm một chọn
lựa mới làm cải thiện các đường cong của cơ thể,
đặc biệt là vùng bụng(10,13).
Ở bệnh nhân có da thành bụng săn chắc, đẹp
chỉ biến dạng khu trú phình to mức độ vừa
vùng bụng dưới, hút mỡ đơn thuần cho kết quả
thỏa đáng. Đối với bệnh nhân nhóm 2, 3, 4 và 5
hút mỡ bụng đơn thuần không thể điều chỉnh
đầy đủ thành bụng dưới, chỉ có phẫu thuật tạo
hình thành bụng hoàn toàn mới là giải pháp
chọn lựa, kỹ thuật này có thể kết hợp kèm theo
các phẫu thuật khác. Nhóm bệnh nhân này sau
CÂN SCARPA
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 187
khi hút mỡ cần kết hợp cắt da mỡ thành bụng
dưới đường mổ nhỏ, hoặc có thể cắt da mỡ
thành bụng cải tiến, bóc tách đến mức rốn và tạo
hình miệng rốn mới ở vạt bụng trên để khâu
được cân cơ thành bụng bị nhão hóa.
Còn đối với bệnh nhân nhão da thành bụng
nặng kèm nhão cân cơ thành bụng trên và dưới
rốn, cắt da mỡ thừa thành bụng rộng và đầy đủ
là cần thiết. Cần khâu cân cơ thành bụng từ mũi
ức đến trên vệ, tạo miệng rốn mới trên vạt da
mỡ bụng trên tương ứng với cuống rốn đã cắt
tách rời khỏi vị trí cũ.
Nghiên cứu này chúng tôi thực hiện nhằm
để đánh giá lại nhu cầu và lợi ích của việc phối
hợp cắt da mỡ thừa vùng bụng có hoặc không
có kèm hút mỡ cho các bệnh nhân có nhu cầu cắt
da mỡ thừa vùng bụng có quá nhiều mỡ thừa và
tình trạng da không săn chắc cũng như có tạo
hình miệng rốn hoặc giữ nguyên miệng rốn.
Sau khi xem xét kết quả nghiên cứu 102
bệnh nhân cho 5 nhóm, chúng tôi nhận thấy có
khả năng hút cắt và tái tạo thành bụng trong
cùng một thì, có thể hút mỡ bụng đơn thuần
hoặc có thể cắt da mỡ thừa có dời rốn hoặc
không dời rốn. Tất cả các phương pháp đưa ra
cần bàn bạc và tư vấn kỹ cho bệnh nhân nhằm
mang lại một lợi ích thiết thực cho bệnh nhân
cũng như là an toàn cho họ.
Phân tích qua thăm khám và tư vấn thông
qua phân chia 5 nhóm phương pháp điều trị sẽ
mang lại một số lợi ích sau đây: vết mổ đường
ngang nhỏ hơn, rạch vẽ ban đầu ra sao là phẫu
thuật như vậy, khi nâng vạt da mỡ bụng
không làm chảy máu nhiều, loại trừ tai chó
bằng hút mỡ, không cần phải rạch rộng thêm
vết mổ ở hai bên hông, loại trừ sự không đồng
nhất về độ dày giữa vạt da mỡ bụng trên và
dưới, vùng thượng vị nhìn phẳng đẹp hơn, có
thể hút mỡ thêm các vùng lân cận như hông và
đùi tạo eo bụng thon hơn kết hợp khân cân cơ
chéo vùng bụng.
Trước đây có nhiều tác giả cho rằng khi hút
mỡ vùng thượng vị là không an toàn, nhưng
trong nghiên cứu của chúng tôi không nhận
thấy tổn thương mạch máu của vạt, nhưng có 8
ca hoại tử viền mép da ngay trung tâm mép vạt
không đáng kể (có khả năng là do hút phải lớp
mỡ nông, xuyên vượt qua lớp cân Scarpa) hoặc
bóc tách lấn chạm vào bờ sườn 2 bên.
Bóc tách vạt da bụng trên rốn đến mũi ức là
cần thiết để khâu cột cân cơ thẳng bụng bị nhão
hoặc để khâu không căng với vạt da thành bụng
dưới. Điều quan trọng để an toàn cho vạt da
bụng là đừng bóc tách hai bên đến tới bờ xương
sườn để bảo vệ các nhánh xiên tạo nên một
mạng mạch cung xiên nuôi vạt bụng trên cuống
rốn và không cắt bỏ lớp mỡ thừa ở vạt da bụng
trên quá lớp cân cơ Scarpa(9,11). Kiểm soát được
điều này sẽ bảo tồn mạch máu cho vạt da bụng
rất tốt và bảo đảm an toàn cho phẫu thuật cắt bỏ
da mỡ thừa vùng bụng rộng rãi.
Cung cấp máu thành bụng dựa vào vùng I-III
(Huger), các MM tưới máu cho vạt sau khi cắt bỏ
da mỡ thừa vùng bụng. Cung mạch từ nếp dưới vú
đến nếp bẹn là vùng thường hút hút mỡ kết hợp khi
cắt da mỡ thừa.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 188
KẾT LUẬN
Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ cắt da mỡ
thừa vùng bụng có kèm hút mỡ hoặc có tạo
hình miệng rốn mới là một phẫu thuật thật sự
an toàn và có ích cho bệnh nhân có nhu cầu.
Người Việt chúng ta sợ để lại sẹo, vì thế nên tư
vấn thật kỹ để chọn một giải pháp mổ tối ưu
cho cả bệnh nhân và thầy thuốc, quyết định
đường mổ dài đến đâu, dấu kín trong quần
tắm ra sao. Nắm vững giải phẫu mạch máu
cung cấp cho vạt da sau khi cắt bỏ da mỡ thừa
vùng dưới rốn và phân chia vùng bụng trong
mổ tạo hình bụng là chìa khóa thành công cho
mọi bác sĩ tạo hình thẩm mỹ vùng bụng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Pitanguy L (1977). Dermolipetomy of the abdominal wall,
thighs buttocks and upper extremity. In- converse. JM.
Reconstructive Plastic Surgery.2 ed. W B. Saunders; 1977. v. 7,
p. 3800-23.
2. Mohan Rangaswamy (2008). Lipoabdominoplasty: A
versatile and safe technique for abdominal contouring. Indian
J Plast Surg Supplement 2008 Vol 41
3. Van Uchelen JH, Werker PM, Kon M (2001). Complications of
abdominoplasty in 86 patients. Plast Reconstr Surg
2001;107:1869-73.
4. Chaouat M, Levan P, Lalanne B, Buisson T, Nicolau P,
Mimoun M (2000). Abdominal dermolipectomies: Early
postoperative complications and long-term unfavorable
results. Plast Reconstr Surg 2000;106:1614-23.
5. Floros C, Davis PK (1991). Complications and long-term
results following abdominoplasty: A retrospective study. Br J
Plast Surg 1991;44:190-4.
6. Zecha PJ, Misotten FE (1999). Pseudocyst formation after
abdominoplasty--extravasations of Morel-Lavallee. Br J Plast
Surg 1999;52:500-2.
7. Farah AB, Nahas FX, Ferreira LM, Mendes Jde A, Juliano Y
(2004). Sensibility of the abdomen after abdominoplasty. Plast
Reconstr Surg 2004;114:577-82.
8. Elbaz JS, Flageul G, Olivier-Masveyraud F (1999). Classical
abdominoplasty (Article in French). Ann Chir Plast Esthet
1999;44:443-61.
9. Vastine VL, Morgan RF, Williams GS, Gampper TJ, Drake
DB, Knox LK, et al (1999). Wound Complications of
abdominoplasty in obese patients. Ann Plast Surg 1999;42:34-
9.
10. Illouz YG (1992). A new safe and aesthetic approach to
suction abdominoplasty. Aesthet Plast Surg 1992;16:237-45.
11. Ousterhout DK (1990). Combined suction-assisted lipectomy,
surgical lipectomy and surgical abdominoplasty. Ann Plast
Surg 1990;24:126-33.
12. Matarasso A (1995). Abdominolipoplasty: A system of classiÞ
cation and treatment for combined abdominoplasty and
suction-assisted lipectomy. Plast Reconstr Surg 1995;95:829-
36.
13. Saldanha OR, De Souza Pinto EB, Mattos WN Jr, Pazetti CE,
Lopes Bello EM, Rojas Y, et al (2003). Lipoabdominoplasty
with selective and safe undermining. Aesthet Plast Surg
2003;27:322-7.
14. Le Louarn C, Pascal JF (2000). High superior tension
abdominoplasty. Aesthet Plast Surg 2000;24:375-81.
15. Shestak KC (1999). Marriage abdominoplasty expands the
mini-abdominoplasty concept. Plast Reconstr Surg
1999;103:1020-35.
Kiểu hình Y kép và M kép trong TH miệng
rốn mới
Đường
mổ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- buoc_dau_nhan_dinh_qua_102_truong_hop_phau_thuat_tao_hinh_th.pdf