KẾT LUẬN NGHIÊN CỨU
Với những kết quả nghiên cứu được thảo luận và dự
báo như trên, các kết luận sau đây được đưa ra. Những
kết luận này sẽ là cơ sở khoa học quan trọng để các
nghiên cứu tiếp theo thảo luận hoặc các nhà nhà quản
lý đề xuất chính sách và xây dựng giải pháp phát triển
ngành chế biến gỗ của Việt Nam trong thời gian tới:
Một là, về tổng thể, việc mở cửa thị trường thương
mại với các quốc gia thông qua một FTA sẽ giúp tăng
trưởng xuất khẩu đồ gỗ đáng kể. Qua đó, có thể dự
báo việc tham gia CPTPP – một FTA của thế kỷ XX,
vẫn sẽ có tác động nhất định đến kim ngạch xuất khẩu
ngành đồ gỗ của Việt Nam mặc dù không có nước Mỹ
tham gia.
Hai là, thuế nhập khẩu hàng đồ gỗ của các nước trong
CPTPP giảm sẽ có tác động thúc đẩy hàng đồ gỗ của
Việt Nam xuất khẩu sang các quốc gia này. Cả hai
kịch bản có nước Mỹ hay không có nước Mỹ tham gia
vào CPTPP thì khi thuế nhập khẩu đồ gỗ giảm, kim
ngạch xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam vào các nước này vẫn
tăng lên. Dĩ nhiên, xuất khẩu đồ gỗ sẽ tăng ít hơn khi
không có Mỹ. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn cần có những
giải pháp then chốt để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu
đồ gỗ. Bởi lẽ kết quả dự báo kim ngạch xuất khẩu đồ
gỗ Việt Nam vào các nước CPTPP còn lại vẫn có thể
tăng trưởng với mức thuế giảm xuống khi CPTPP có
hiệu lực thậm chí khi nước Mỹ không tham gia.
Ba là, về phía năng lực cung ứng nguyên liệu nội địa,
kết quả nghiên cứu đã chỉ ra tăng nguồn cung sản xuất
nguyên liệu gỗ trong nước sẽ thúc đẩy được xuất khẩu
đồ gỗ đáng kể vào các thị trường CPTPP. Đây cũng
là vấn đề then chốt cần khắc phục để giải quyết cái
vòng luẩn quẩn trong sản xuất đồ gỗ Việt Nam là công
nghiệp hỗ trợ và nguồn nguyên liệu chưa chủ động
nên chủ yếu gia công theo mẫu mã khách hàng cung
cấp, do gia công nên không thúc đẩy công nghiệp hỗ
trợ và vùng nguyên liệu phát triển, từ đó giá trị xuất
khẩu không cao. Do đó, điều này tiếp tục khẳng định
phát triển vùng nguyên liệu gỗ là một trong những
điểm lưu ý hàng đầu cho ngành đồ gỗ Việt Nam nếu
muốn tiếp tục tăng trưởng xuất khẩu, đặc biệt là vào
các thị trường CPTPP khi hiệp định này có hiệu lực.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 306 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố tác động đến xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam vào các nước trong khối CPTPP, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):696-704
Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu
Trường Đại học Kinh tế - Luật,
ĐHQG-HCM, Việt Nam
Liên hệ
Nguyễn Văn Nên, Trường Đại học Kinh tế -
Luật, ĐHQG-HCM, Việt Nam
Email: nennv@uel.edu.vn
Lịch sử
Ngày nhận: 09/05/2019
Ngày chấp nhận: 19/07/2019
Ngày đăng: 27/6/2020
DOI : 10.32508/stdjelm.v4i2.617
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Các yếu tố tác động đến xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam vào các
nước trong khối CPTPP
Nguyễn Văn Nên*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xem xét khả năng tác động của các yếu tố đến kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của
Việt Nam đến các nước tham gia vào Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) thông qua sử dụng mô hình lực hấp dẫn trong thương mại quốc tế làm nền tảng, kết hợp
các nghiên cứu thực nghiệm trước đây đã sử dụng mô hình này cùng với điều kiện thực tiễn tại
Việt Nam. Bên cạnh đó, bài báo cònmở rộng nghiên cứu thông qua việc kiểm định giả thuyết Hoa
Kỳ tham gia vào hiệp định CPTPP thì sẽ tác động đến kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam
như thế nào. Nghiên cứu sử dụng ước lượng hiệu ứng ngẫu nhiên (Random Effects Model - REM)
thông qua dữ liệu bảng về dữ liệu của các biến số trong mô hình của các quốc gia tham gia hiệp
định CPTPP trong giai đoạn 1996-2015. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nguồn cung nguyên liệu,
thuế nhập khẩu đồ gỗ từ các đối tác trong CPTPP, sự mở cửa kinh tế và thương mại của Việt Nam
lần lượt là những yếu tố tác động mạnhmẽ nhất đến xuất khẩu các sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam
vào thị trường CPTPP. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cho dù Hoa Kỳ có hay không tham
gia vào CPTPP thì đồ gỗ Việt Nam vẫn hưởng được những lợi ích nhất định từ hiệp định này nếu
như có những chuẩn bị cần thiết để đáp ứng yêu cầu của hiệp định.
Từ khoá: yếu tố tác động, đồ gỗ, CPTPP, mô hình lực hấp dẫn, thương mại quốc tế
ĐẶT VẤNĐỀ
Trong gần 10 năm gần đây, với chiến lược phát triển
được địnhhướng rõ ràng, ngành chế biến gỗViệtNam
đã có sự phát triển vượt bậc, kim ngạch xuất khẩu
các sản phẩm gỗ và đồ gỗ luôn nằm trong tốp các
nhóm hàng hóa xuất khẩu chủ lực của đất nước. Năm
2018, tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ
của Việt Nam đạt khoảng 9,3 tỷ USD. Trong đó, kim
ngạch xuất khẩu đồ gỗa đạt 6,8 tỷ USD, chiếm 73,9%
tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của toàn
ngành. Theo dữ liệu của ITC, Xuất khẩu đồ gỗ Việt
Nam luôn đứng đầu khu vực Asean và duy trì vị trí
thứ 7 thế giới trong 4 năm trở lại đây1. Với thành tựu
tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu liên tục trong thời
gian qua, ngành gỗ đã góp phần đáng kể trong quá
trình nâng cao vị thế thương mại của Việt Nam trên
bản đồ thương mại quốc tế.
Gia nhập Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái
aĐồ gỗ xuất khẩu trong nghiên cứu được xác định là nhóm sản
phẩm gỗ xuất khẩu thuộc mã HS94 (chiếm khoảng 73% kim ngạch
xuất khẩu lâm sản và đồ gỗ, năm 2017) gồm: đồ nội thất văn phòng và
đồ nội thất gia đình (HS9403) chiếm khoảng 70%; ghế ngồi (HS9401)
chiếm khỏang 24%; đồ nội thất cho bệnh viện (HS9402), các loại đèn
ngủ (HS9405), nhà lắp ghép (HS9406) chiếm khoảng 6% tổng kim
ngạch xuất khẩu đồ gỗ HS94. Các sản khác như gỗ thô, dâm gỗ, các
sản phẩm nguyên liệu gỗ (chiếm khoảng 27% kim ngạch xuất khẩu
lâm sản và đồ gỗ, năm 2017) không thuộc đối tượng nghiên cứu của
nghiên cứu này.
Bình Dương (TPP) trước đây và hiện nay là Hiệp
định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP) là cơ hội lớn cho thương mại Việt
Nam, trong đó các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ sẽ
có điều kiện thúc đẩy xuất khẩu nhờ các hàng rào thuế
quan rất nặng nề như hiện nay được gỡ bỏ. Theo nội
dung đàm phán trong CPTPP, nguyên liệu đầu vào
của ngành sản xuất đồ gỗ phải có xuất xứ từ các nước
thuộc CPTPP và đạt yêu cầu chứng nhận về nguồn
gốc gỗ hợp pháp mới được hưởng những ưu đãi từ
hiệp định. Tuy nhiên, phần lớn nguyên liệu gỗ cho
sản xuất đồ gỗ xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay hoặc không thuộc các nước trong khối
CPTPP hoặc đến từ những khu vực có rủi ro pháp lý
cao. Bên cạnh đó, trước sự biến động nướcHoaKỳ rút
khỏi hiệp định TPP thì lại có nhiều luồng ý kiến cho
rằng ngành đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam sẽ không
được hưởng lợi gì vì không có thị trường Mỹ, trong
khi phải cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc. Nhiều
nghiên cứu về chuỗi giá trị ngành hàng đồ gỗ Nghiên
cứu của Jori Uusitalo2 và World bank3 đã cho thấy
nguồn cung nguyên liệu gỗ, chính sách điều hành vĩ
mô của nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng
trong quá trình thúc đẩy sản xuất và tạo ra giá trị cho
ngành chế biến và xuất khẩu các sản phẩm gỗ. Theo
United Nation4 và VCCI 5, sự gia tăng những yêu cầu
Trích dẫn bài báo này: Nên N V. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam vào các
nước trong khối CPTPP . Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 4(2):696-704.
696
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):696-704
về chứng minh nguồn gốc gỗ nguyên liệu hợp pháp
và chính sách đóng cửa rừng tự nhiên cũng đã gia
tăng sức ép và ảnh hưởng lên công nghiệp chế biến
gỗ của nhiều nước. Những nghiên cứu cụ thể của Vũ
Thị Minh Ngọc và Hoàng Thị Ngọc Dung về ngành
chế biến gỗ của Việt Nam cũng đã chỉ ra rằng để phát
triển xuất khẩu ngành đồ gỗ, Việt Nam cần tập trung
vào chiến lược trồng rừng để cung cấp nguồn nguyên
liệu gỗ6. Các nghiên cứu khác của Vũ Thu Hương
& cộng sự7 và Trần Văn Hùng8 cũng đã dự báo sự
phụ thuộc nguồn nguyên liệu, chính sách điều hành
của nhà nước sẽ là những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động chế biến và xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam trong
thời gian tới. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây chỉ
tiếp cận đánh giá các yếu tố tác động đến đồ gỗ xuất
khẩu thông qua các phương pháp thống kê và phân
tích định tính. Đặc biệt từ sau khi Mỹ rút khỏi TPP
và các quốc gia còn lại lập nên CPTPP thì các nghiên
cứu dự báo đến các dòng chảy thương mại dưới tác
động của CPTPP bị bỏ ngõ. Do đó, nghiên cứu này
với phương pháp nghiên cứu định lượng từ nguồn dữ
liệu thứ cấp tin cậy sẽ ước lượng sự tác động của các
yếu tố đến ngành chế biến gỗ xuất khẩuViệt Nam trên
nền tảngmô hình lực hấp dẫn trong thươngmại quốc
tế với những điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh tại
Việt Nam. Điểm mới của nghiên cứu này là xem xét
liệu Hoa Kỳ rút khỏi TPP sẽ ảnh hưởng thế nào đến
xuất khẩu ngành gỗ của Việt Nam so với trường hợp
có Hoa Kỳ tham gia như trước đây thông qua so sánh
kết quả lượng hóa từ mô hình nghiên cứu. Kết quả
của nghiên cứu sẽ là gợi ý quan trọng cho nhà nước
trong quá trình xây dựng chính sách và doanh nghiệp
trong việc chuẩn bị các điều kiện để sẵn sàng cho sự
cạnh tranh của ngành đồ gỗ xuất khẩu ngay khi hiệp
định CPTPP có hiệu lực.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết vàmô hình nghiên cứu
Mô hình lực hấp dẫn trong thương mại được sử dụng
lần đầu tiên bởi Jan Tinbergen vào năm 1962 và được
áp dụng rộng rãi trong các nghiên cứu thực nghiệm
để đo lường mức độ tác động của các yếu tố lên dòng
chảy thươngmại giữa các quốc gia. Mô hình lý thuyết
cơ bản giữa hai nền kinh tế A và B được biểu diễn theo
công thức sau:
ln(EXABt ) = K + b1ln(GDPAt ) + b2ln(GDPBt ) +
b3ln(DISAB) + e
Trong đó:
Ln: Logarit tự nhiên (logarit cơ số e)
EXABt là kim ngạch trao đổi thương mại giữa quốc
gia A và B tại năm t
GDPAt và GDPBt quy mô kinh tế của hai quốc gia A
và B tại năm t
DISAB là khoảng cách giữa hai quốc gia
b1, b2, b3: Hệ số hồi quy riêng của từng nhân tố có
trong mô hình
e : Sai số ngẫu nhiên
Với mô hình nghiên cứu tổng quát trên, nhiều nghiên
cứu thực nghiệm đã kiểm định và bổ sung vào mô
hình những biến số khác phù hợp với điều kiện
thực tế từng quốc gia. Các yếu tố khác được khám
phá ra có thể được kể đến là GDP theo đầu người
được thể hiện trong nghiên cứu của DTI of South
Africa 9, Khiyav và cộng sự 10, Nguyễn Anh Thu11.
Nghiên cứu của Kristjánsdóttir12, A.Elshehawy và
cộng sự 13, Nguyễn Việt Tiến14 đã bổ sung thêm yếu
tố sự tham gia vào các tổ chức thương mại sẽ giúp
các quốc gia có điều kiện mở rộng xuất khẩu của
mình hơn. Bên cạnh đó, yếu tố dân số nước xuất
khẩu cũng được đề xuất bởi Kristjánsdóttir 12, Đào
Ngọc Tiến15 và CIEM16 và đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào nước xuất khẩu cũng được bổ sung như sự
thể hiện của khả năng sản xuất của các quốc gia 17
Trong khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan
được đề xuất bởi Genç & Law và Kang như là những
yếu tố cản trở xuất khẩu18,19 thì nghiên cứu của
Camacho20, Antonio &Troy21, Suresh & Neeraj22,
Zhang &Wang23 cho rằng yếu tố quốc gia nhập khẩu
có ngôn ngữ sử dụng chung với nước xuất khẩu lại
có tác động thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn. Diện tích
đất rừng sản xuất thể hiện khả năng cung ứng nguồn
nguyên liệu gỗ cho sản xuất chế biến gỗ. Các nghiên
cứu của Ekrem và Saban đã sử dụng yếu tố diện tích
đất sản xuất có ảnh hưởng nhất định đến kim ngạch
xuất khẩu24. Nghiên cứu của G.Dlamini & cộng sự
cho thấy mức độ mở cửa của nền kinh tế được thể
hiện bằng nhiều biến số như chỉ số mở của nền kinh
tế, về sự tham gia của các quốc gia vào các tổ chức,
diễn đàn thương mại trên thế giới đã giúp các quốc
gia gia tăng xuất khẩu mạnh mẽ hơn25. Ngoài ra,
theo Harun & cộng sự 26 và Achmad & Rita 27, chính
sách hỗ trợ, điều hành của chính phủ được thể hiện
thông qua các chính sách cho phát triển ngành hàng
như các gói cho vay ưu đãi lãi suất có tác động làm
gia tăng xuất khẩu ngành gỗ
Dựa trên cơ sở lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm
nêu trên và điều kiện thực tiễn tại Việt Nam, các
yếu tố dự báo sẽ tác động lên xuất khẩu đồ gỗ sang
các nước CPTPP theo mô hình lực hấp dẫn trong
thương mại bao gồm: (1) GDP của Việt Nam; (2)
Lực lượng lao động của Việt Nam; (3) Đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam; (4) Nguyên liệu trong
nước; (5) GDP của các nước CPTPP nhập khẩu đồ
gỗ Việt Nam; (6) Dân số của nước CPTPP nhập khẩu
697
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):696-704
đồ gỗ Việt Nam; (7) Khoảng cách giữa Việt Nam và
các quốc gia CPTPP; (8) Hàng rào thuế quan của các
nước áp lên hàng đồ gỗ Việt Nam; (9) Lãi suất cho
vay của Việt Nam; (10) Mức độ mở cửa của nền kinh
tế của Việt Nam.
Với các yếu tố được xác định cụ thể như trên, mô
hình các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ của
Việt Nam sang các nước CPTPP dựa trên nền tảng
mô hình lực hấp dẫn trong thương mại quốc tế được
xây dựng như sau:
ln(EXVJt ) = K + b1ln(GDPVt ) + b2ln(NLDvt)
+ b3ln(FDIvt) + b4ln(NLvt) + b5ln(GDPJt )+
b6ln(DSJt ) + b7ln(KCVJ) + b8ln(LSUATVt) +
b9ln(THUENKJVt ) + b10WTOt + b11FTAt + e
Giải thích cụ thể các biến và nguồn lấy dữ liệu tại
Bảng 1.
Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
Phương pháp ước lượng: Nghiên cứu sử dụng chương
trình Stata để thự hiện các ước lượng và kiểm định
mô hình. Trong quá trình phân tích, sử dụng phương
phápOLS để ước lượng chomô hình nghiên cứu. Tuy
nhiên, do các quan sát ở đây có sự thay đổi theo cả thời
gian và không gian (dữ liệu bảng - panel data) cho nên
các mô hình hiệu ứng cố định (Fixed Effects Model -
FEM) và hiệu ứng ngẫu nhiên (RandomEffectsModel
- REM) cũng được đề xuất sử dụng để phân tích. Sau
khi có kết quả, sẽ tiến hành lần lượt các kiểmđịnh phù
hợp để lựa chọn phương pháp ước lượng phù hợp cho
nghiên cứu.
Phương pháp tiếp cận: ước lượng sự tác động của các
biến số trong mô hình đến xuất khẩu đồ gỗ của Việt
Nam sang 10 nước còn lại đang tham gia CPTPP và
11 nước TPP ban đầu (bao gồm cả nước Mỹ) để làm
cơ sở để đánh giá 2 kịch bản dự báo cho xuất khẩu đồ
gỗ của Việt Nam khi có Mỹ tham gia và không tham
gia.
Dữ liệu nghiên cứu: nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng,
với không gian là 10 nước CPTPP và nước Mỹ (kịch
bản có nước Mỹ tham gia) và thời gian là 20 năm từ
năm 1996 – 2015. Có tổng cộng 11*20=220 quan sát
được thu thập để đưa vào thực hiện ước lượng.
KẾT QUẢNGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
Lựa chọnmô hình tối ưu
Tiến hành ước lượng hồi quy mô hình bằng phương
pháp bình phương nhỏ nhất OLS và hiệu ứng cố định
FEMđể xem xét tính tối ưu giữaOLS và FEM. Kết quả
hồi quy OLS cho kết quả R bình phương hiệu chỉnh
lên đến 92,11%. Nghi ngờ có đa cộng tuyến trong mô
hình. Kiểm tra thừa số tăng phương sai của các biến
độc lập cho thấy các biến lnGDPv, lnNLDv, lnFDIv,
lnNLv, WTO có hệ số VIF lớn hơn 10.
Tiến hành lần lượt loại bỏ các biến lnGDPv, lnNLDv,
lnFDIv, lnNLv,WTO ra khỏimô hình để hạn chế hiện
tượng đa cộng tuyến. Phương pháp thực hiện là lần
lượt loại bỏ từng biến có hệ số VIF quá lớn rồi chạy
lại OLS và kiểm tra hệ số VIF, thực hiện đến khi hệ số
VIF của tất cả các biến bé hơn 10. Kết quả cho thấy
khi bỏ đến hết 3 biến lnGDPv, lnNLDv, lnFDIv thì hệ
số của các biến còn lại đều bé hơn 10 (không cần loại
lnNLv, WTO).
Với các biến còn lại củamô hình, tiến hành ước lượng
theo phương pháp hiệu ứng cố định FEM. Kết quả
kiểm định F test với tất cả u_i=0 có Prob = 0,0000
<0,05 cho phép kết luận có sự tương quan giữa yếu tố
cố định theo thời gian với phần dư, điều này có nghĩa
là ước lượng theo FEM sẽ tối ưu hơn so với OLS.
Tiếp theo, tiến hành ước lượngmô hình bằng phương
pháp hiệu ứng ngẫu nhiên REMđể xem xét tính tối ưu
giữa REM và OLS. Kiểm định hiệu ứng ngẫu nhiên
sau khi chạy theo REM cho thấy Var(u) = 0 với Prob
= 0,0000 <0,05. Điều này có nghĩa là chấp nhận sự tồn
tại ngẫu nhiên trong mô hình hay có sự tương quan
với phần dư. Trong trường hợpnày thì ước lượng theo
REM sẽ tối ưu hơn OLS.
Cuối cùng, tiến hành kiểm định Hausman để xem
xét tính tối ưu giữa hai phương pháp REM và FEM.
Kết quả kiểm định Hausman cho thấy giá trị Prob =
0,14307 > 0,05, tức là chấp nhận giả thuyết không có
sự tương quan với phần dư và tồn tại các ngẫu nhiên.
Điều này có nghĩa là ước lượng theo REM sẽ tối ưu
hơn FEM. Do đó, REM sẽ được chọn để ước lượng sự
tác động của các yếu tố lên xuất khẩu đồ gỗ của Việt
Nam sang các nước CPTPP.
Kết quả ước lượng và kiểm địnhmô hình
Kịch bản có nướcMỹ thamgia vào CPTPP
Theo kết quả kiểm định lựa chọn mô hình, thì REM
sẽ được lựa chọn, kết quả ước lượng theo REM lần 1
với dữ liệu 220 quan sát trong thời gian 10 năm với 11
nước CPTPP (bao gồm cả nước Mỹ). Trong kết quả
đó, biến lnLSUATv, WTO không có ý nghĩa thống kê
với mức ý nghĩa 5%.
Tiến hành loại bỏ biến lnLSUATv ra khỏi mô hình
trước vì có hệ số P-value cao hơn và chạy REM lần
2.
Kết quả ước lượng tại Bảng 2 cho thấy các biến lnNLv,
lnGDPj, lnDSj, lnKCv, lnTHUENKjv, FTA đều có ý
nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%, biến WTO đã có
ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩ 10%. Hệ số R bình
phương = 0,6853 cho thấy các biến trong mô hình
giải thích được 68,53% sự thay đổi của kimngạch xuất
698
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):696-704
Bảng 1: Giải thích các biến và nguồn lấy dữ liệu
Biến quan sát Giải thích Đo lường Kỳ vọng
dấu
Nguồn dữ liệu
EXVJt Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang
ước J trong năm t
USD ITC
GDPVt GDP của Việt Nam trong năm t USD + UN com trade
NLĐvt Số lao động có việc làm của Việt Nam trong
năm t
Người + TCTK
FDIvt Đầu tư FDI vào Việt Nam trong năm t USD + TCTK
NLvt Nguồn nguyên liệu cho sản xuất đồ gỗ Việt
Nam trong năm t
m3 + AGROINFO
GDPJt GDP của các nước nhập khẩu đồ gỗ của Việt
Nam
USD + WB
DSJt Dân số của các nước nhập khẩu đồ gỗ Việt
Nam
Người + WB
KCVJ Khoảng cách từViệtNamđến các nước nhập
khẩu gỗ của Việt Nam
Km - Googlemap
LSUATVt Lãi suất trung bình của Việt Nam năm t % - IMF
THUENKJVt Mức thuế nhập khẩu đồ gỗ của các quốc gia
nhập khẩu đồ gỗ của Việt Nam
% - WB
WTOt Thể hiện cả Việt Nam và nước đối tác cùng
gia nhập WTO vào năm t
Biến dummy + WTO
FTAt Thể hiện Việt Nam và các đối tác cùng là
thành viên của một FTA vào năm t
Biến dummy + VCCI
Bảng 2: Kết quả hồi quy theo REM lần 2
Biến phụ
thuộc
Hệ số hồi quy Độ lệch chuẩn Mức ý nghĩa
- Prob
Khoảng tin cậy
LnNLv 1,462247 0,2421057 0,000 0,7925558 1,670762
LnGDPj 0,8612053 0,1652484 0,000 0,5382524 1,324102
LnDSj 0,6062782 0,19256 0,004 0,2538574 1,215045
LnKCv -0,7003274 0,193526 0,007 -0,9856580 -0,3102504
lnTHUENKjv -0,9562471 0,125876 0,000 -1,125840 -0,6952425
WTO 0,3924207 0,2352862 0,087 0,9145285 0,091924
FTA 1,214602 0,2154582 0,000 1,572453 0,8212354
_cons 27,11373 2,758245 0,000 31,12504 21,12543
Kết quả kiểm địnhWald test
chi2 (11) 297,36
Prob>chi2 0,000
F(1,10) 9,853
Prob>F 0,0237
Nguồn: Truy xuất kết quả từ Stata
699
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):696-704
khẩu đồ gỗ, hệ số Prob = 0.000 cho thấymô hình hoàn
toàn phù hợp.
Tiến hành kiểm định Wald với mô hình trên, kết quả
kiểm định ở Bảng 2 cho thấy hệ số Prob>chi2 = 0,00 <
0,05, tức là mô hình xảy ra hiện tượng phương sai sai
số thay đổi. Kiểm định hiện tượng tự tương quan với
kết quả ở Bảng 2 cũng cho thấy hệ số Prob>F =0,0237
< 0,05 nên chấp nhận có hiện tượng tự tương quan
trong mô hình.
Tiến hành khắc phục hiện tượng phương sai sai số
thay đổi và hiện tượng tự tương quan trong mô hình
bằng cách ước lượng điều chỉnh sai số.
Kết quả ước lượng (Robust) tại Bảng 3 cho thấy các
biến lnNLv, lnGDPj, lnDSj, lnKCv, lnTHUENKjv,
FTA đều có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%, biến
WTO có ý nghĩa ở mức ý nghĩ 10%. Kết quả cũng
đã khắc phục hiện tượng phương sai sai số thay đổi
và hiện tượng tự tương quan trong mô hình. Hệ số
R bình phương = 0,6712 cho thấy các biến trong mô
hình giải thích được 67,12% sự thay đổi của kimngạch
xuất khẩu đồ gỗ, hệ số Prob = 0,000 cho thấy mô hình
hoàn toàn phù hợp.
Kịch bản không có nước Mỹ tham gia vào
CPTPP
Sau khi thực hiện các kiểm định và khắc phục các
khuyết tật của mô hình, tiến hành ước lượngmô hình
mà không có sự tham gia của nước Mỹ.
Kết quả ước lượng tại Bảng 4 cho thấy khi không
có nước Mỹ tham gia vào CPTPP, các biến lnNLv,
lnGDPj, lnDSj, lnKCv, lnTHUENKjv, FTA,WTO đều
có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%, hệ số R
bình phương giảm còn = 0,6509. Tuy nhiên, kết quả
này cho thấy các biến trong mô hình giải thích được
65,09% sự thay đổi của kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ, hệ
số Prob = 0,000 cho thấymô hình hoàn toàn phù hợp.
So sánh hai kịch bản và dự báo sự tác động
của CPTPP
So sánh kết quả ước lượng hai mô hình có nước Mỹ
và không có nướcMỹ tham gia vào CPTPP tại Bảng 5
cho thấy tình hình đồ gỗ Việt Nam không đến nỗi ảm
đạm khi không có nước Mỹ tham gia vào hiệp định
CPTPP.
Môhình hồi quy không có sự tham gia của nướcMỹ
vào TPP có dạng như sau:
LnEXv=1,55 lnNLv + 0,79 lnGDPj + 0,71 lnDSj – 0,71
lnKCv – 0,88 lnTHUENKjv + 0,46 WTO + 1,28 FTA
+ 28,14
Mô hình hồi quy có nước Mỹ tham gia vào TPP có
dạng như sau:
LnEXv=1,46 lnNLv + 0,86 lnGDPj + 0,61 lnDSj – 0,70
lnKCv – 0,96 lnTHUENKjv + 0,39 WTO + 1,21 FTA
+ 27,11
Sự chênh lệch giữa các hệ số hồi quy của các biến số
trong cả hai mô hình trên được giải thích như sau:
Thứ nhất, biến lnNLv – nguồn nguyên liệu gỗ cho sản
xuất đồ gỗ xuất khẩu. Hệ số hồi quy của biến này đối
với mô hình không có nướcMỹ là 1,55 có nghĩa là khi
nguồn nguyên liệu gỗ nội địa được cung ứng tăng lên
1% thì kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ vào các thị trường
CPTPP tăng 1,55%. Tuy nhiên, khi có nước Mỹ tham
gia vào CPTPP thì xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam chỉ tăng
1,46% khi nguyên gỗ trong nước trong nước tăng 1%.
Điều này có thể được lý giải là hàng đồ gỗ gia công
của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ nhiều hơn các quốc
gia còn lại trong CPTPP, hàng gia công lại không cần
nhiều nguồn nguyên liệu trong nước vì các đối tác
thuê gia công đã cung ứng hoặc chỉ định nguồn cung
nguyên liệu. Trong khi hàng đồ gỗ sản xuất và xuất
khẩu theo thiết kế và thương hiệu của Việt Nam vào
các thị trường còn lại, sử dụng nguyên liệu trong nước
nhiều hơn. Do đó, nguyên liệu gỗ trong nước tăng
lên sẽ có ý nghĩa thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu vào
các thị trường ngoài Mỹ nhiều hơn. Kết quả này cho
phép dự báo rằng cho dù nước Mỹ không tham gia
vào CPTPP thì hàng đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam vẫn
có thể tăng trưởng xuất khẩu vào các thị trường còn
lại của CPTPP nếu như Việt Nam có chiến lược phát
triển công nghiệp phụ trợ và nguồn cung nguyên liệu
phù hợp để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu theo những
thương hiệu riêng của mình.
Thứ hai, biến lnTHUENKjv - thuế nhập khẩu của các
nước đối với hàng đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam. Hệ số
hồi quy của biến này đối với kịch bản không có nước
Mỹ tham gia bằng 0,88 nghĩa là khi thuế nhập khẩu đồ
gỗ của các nước CPTPP tăng 1% thì xuất khẩu đồ gỗ
Việt Nam giảm 0,88%. Trong khi đó nếu có Mỹ tham
gia, thuế nhập khẩu đồ gỗ của các nước tăng 1% thì
xuất đồ gỗ giảm đến 0,96%. Rõ ràng khi có Mỹ tham
gia vàoCPTPP, sự tác động của thuế quan sẽmạnhmẽ
hơn. Điều này có nghĩa là, xuất khẩu đồ gỗ của Việt
Nam sẽ tăng vào các thị trường CPTPP có Mỹ tham
gia nhiều hơn so với không có Mỹ tham gia khi thuế
quan được giảm theo thỏa thuận CPTPP. Tuy nhiên,
ở cả hai mô hình, rõ ràng biến thuế nhập khẩu đều có
ý nghĩa giải thích. Kết quả trên cho phép dự báo như
sau:
(1) Khi Mỹ không tham gia vào CPTPP, nếu thuế
nhập khẩu hàng đồ gỗ Việt Nam vàoMỹ không giảm,
Việt Nam sẽ không thể gia tăng mạnh mẽ xuất khẩu
đồ gỗ vào Mỹ dựa trên yếu tố giảm thuế. Tuy nhiên
xuất khẩu đồ gỗ vào thị trường Mỹ vẫn có thể tăng
trưởng bình thường dựa vào các yếu tố khác (dân số
nước Mỹ tăng, GDP nước Mỹ tăng, nguyên liệu vải
trong nước tăng).
700
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):696-704
Bảng 3: Kết quảmô hình khắc phục tự tương quan và phương sai thay đổi (có nướcMỹ)
Biến phụ thuộc Hệ số hồi quy Độ lệch chuẩn Mức ý nghĩa -
Prob
Khoảng tin cậy
LnNLv 1,462247 0,3912504 0,008 0,543254 2,194527
LnGDPj 0,8612053 0,2974420 0,042 0,2685423 1,514257
LnDSj 0,6062782 0,3425832 0,036 0,07125543 1,375425
LnKCv -0,7003274 0,28542 0,024 -1,315422 -0,089534
lnTHUENKjv -0,9562471 0,242514 0,000 -1,385426 -0,514254
WTO 0,3924207 0,2352189 0,092 0,8954236 0,0814254
FTA 1,214602 0,4653284 0,028 2,224572 0,2245242
_cons 27,11373 3,78524 0,000 34,25463 19,24542
Nguồn: Truy xuất kết quả từ Stata
Bảng 4: Kết quảmô hình khắc phục tự tương quan và phương sai thay đổi (không có nướcMỹ)
Biến phụ thuộc Hệ số hồi quy Độ lệch chuẩn Mức ý nghĩa -
Prob
Khoảng tin cậy
LnNLv 1,548542 0,4754281 0,007 0,5525424 2,396524
LnGDPj 0,7923542 0,3754285 0,042 0,0652103 1,565248
LnDSj 0,7124856 0,4012546 0,039 0,0581254 1,6245
LnKCv -0,709854 0,28542 0,028 -1,28542 -0,119542
lnTHUENKjv -0,878524 0,2352015 0,000 -1,41250 -0,525482
WTO 0,4585421 0,2568425 0,062 0,9624201 0,047524
FTA 1,281242 0,502125 0,013 2,315241 0,225482
_cons 28,14235 3,754258 0,000 33,85428 18,84524
Nguồn: Truy xuất kết quả từ Stata
Bảng 5: So sánh kết quả khi Mỹ tham gia hoặc không tham gia vào TPP
Biến phụ thuộc Hệ số hồi quy (có nước Mỹ) Hệ số hồi quy (không có nước Mỹ)
LnNLv 1,462247 1,548542
LnGDPj 0,8612053 0,7923542
LnDSj 0,6062782 0,7124856
LnKCv -0,7003274 -0,7098541
lnTHUENKjv -0,9562471 -1,878524
WTO 0,3924207 0,4585421
FTA 1,214602 1,281242
_cons 27,11373 28,14235
R bình phương = 0,6712 R bình phương = 0,6509
Nguồn: Truy xuất kết quả từ Stata
701
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):696-704
(2) Khi Mỹ không tham gia vào CPTPP, hàng xuất
khẩu đồ gỗ vào các nước còn lại vẫn có sự tăng trưởng
khi thuế nhập khẩu được giảm. Điều này có nghĩa là
khi thuế nhập khẩu giảm vẫn có tác dụng thúc đẩy
xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam vào các thị trường
CPTPP còn lại mặc dù không có nước Mỹ tham gia.
Thứ ba, biếnWTO và FTA thể hiện sựmở cửa thương
mại của Việt Nam. Kết quả ước lượng không có nước
Mỹ tham gia vào CPTPP cho thấy hệ số hồi quy của
biến FTA bằng 1,28, biến WTO bằng 0,46, điều này
có nghĩa là khi Việt Nam và các quốc gia CPTPP cùng
là thành viên của WTO hoặc cùng là thành viên của
một FTA khác thì kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt
Nam sẽ cao hơn. Rõ ràng tác động của FTA lớn hơn
tác động củaWTO do các cam kết trong FTA có mức
độ mở cửa thương mại cao hơn (1,28>0,46). Từ đó
có thể nhận định các cam kết mở cửa mạnh mẽ hơn
sẽ thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn. Tuy đa số các nước
trong khối CPTPP hiện nay (không cóMỹ) đã có FTA
vớiViệtNamnhưngmứcđộ camkết củaCPTPPdành
cho đồ gỗViệt Nam cao hơn các cam kết FTA hiện tại.
Bên cạnh đó, cũng còn vài thành viên trong CPTPP
nhưCanada,Mexico, Peru chưa có FTAvớiViệtNam.
Do đó, kết quả ước lượng cùng với những phân tích
trên cho phép dự báo rằng mặc dù Mỹ không tham
gia vào CPTPP nhưng CPTPP (có tác động như một
FTA) vẫn có khả năng thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ của
Việt Nam vào các thị trường còn lại vì mức độmở cửa
của nó cao hơn.
Thứ tư, các biến DSj, GDPj có đều có ý nghĩa thống
kê trong cả hai mô hình và phù hợp với các giả thuyết
nghiên cứu. Điều này có nghĩa là cho dù nước Mỹ có
tham gia hay không tham gia vào CPTPP thì sự gia
tăng tiêu dùng từ nước Mỹ do dân số tăng và GDP
nước Mỹ tăng vẫn tác động đến xuất khẩu đồ gỗ của
Việt Nam theo xu hướng như trước đây, hoàn toàn
không có tác động tiêu cực.
KẾT LUẬNNGHIÊN CỨU
Với những kết quả nghiên cứu được thảo luận và dự
báonhư trên, các kết luận sauđây được đưa ra. Những
kết luận này sẽ là cơ sở khoa học quan trọng để các
nghiên cứu tiếp theo thảo luận hoặc các nhà nhà quản
lý đề xuất chính sách và xây dựng giải pháp phát triển
ngành chế biến gỗ của Việt Nam trong thời gian tới:
Một là, về tổng thể, việc mở cửa thị trường thương
mại với các quốc gia thông qua một FTA sẽ giúp tăng
trưởng xuất khẩu đồ gỗ đáng kể. Qua đó, có thể dự
báo việc tham gia CPTPP – một FTA của thế kỷ XX,
vẫn sẽ có tác động nhất định đến kim ngạch xuất khẩu
ngành đồ gỗ của Việt Nammặc dù không có nướcMỹ
tham gia.
Hai là, thuế nhập khẩu hàng đồ gỗ của các nước trong
CPTPP giảm sẽ có tác động thúc đẩy hàng đồ gỗ của
Việt Nam xuất khẩu sang các quốc gia này. Cả hai
kịch bản có nướcMỹ hay không có nướcMỹ tham gia
vào CPTPP thì khi thuế nhập khẩu đồ gỗ giảm, kim
ngạch xuất khẩu đồ gỗViệtNamvào các nước này vẫn
tăng lên. Dĩ nhiên, xuất khẩu đồ gỗ sẽ tăng ít hơn khi
không cóMỹ. Mặc dù vậy, ViệtNamvẫn cần có những
giải pháp then chốt để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu
đồ gỗ. Bởi lẽ kết quả dự báo kim ngạch xuất khẩu đồ
gỗ Việt Nam vào các nước CPTPP còn lại vẫn có thể
tăng trưởng với mức thuế giảm xuống khi CPTPP có
hiệu lực thậm chí khi nước Mỹ không tham gia.
Ba là, về phía năng lực cung ứng nguyên liệu nội địa,
kết quả nghiên cứu đã chỉ ra tăng nguồn cung sản xuất
nguyên liệu gỗ trong nước sẽ thúc đẩy được xuất khẩu
đồ gỗ đáng kể vào các thị trường CPTPP. Đây cũng
là vấn đề then chốt cần khắc phục để giải quyết cái
vòng luẩn quẩn trong sản xuất đồ gỗViệt Nam là công
nghiệp hỗ trợ và nguồn nguyên liệu chưa chủ động
nên chủ yếu gia công theo mẫu mã khách hàng cung
cấp, do gia công nên không thúc đẩy công nghiệp hỗ
trợ và vùng nguyên liệu phát triển, từ đó giá trị xuất
khẩu không cao. Do đó, điều này tiếp tục khẳng định
phát triển vùng nguyên liệu gỗ là một trong những
điểm lưu ý hàng đầu cho ngành đồ gỗ Việt Nam nếu
muốn tiếp tục tăng trưởng xuất khẩu, đặc biệt là vào
các thị trường CPTPP khi hiệp định này có hiệu lực.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
CPTPP: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyênThái Bình Dương
TPP:Hiệp định Đối tác xuyênThái Bình Dương
FTA: Hiệp định mậu dịch tự do
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
VCCI: PhòngThương mại và Công nghiệp Việt Nam
TUYÊN BỐ XUNGĐỘT
Tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột
lợi ích nào trong công bố bài báo
ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ
Toàn bộ nội dung bài viết chỉ do tác giả thực hiện
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. ITC. Dữ liệu Trade map từ Trung tâm thương mại thế giới.
2019;Available from: https://www.trademap.org/Index.aspx?
lang=fr.
2. Jori U. Value creation in wood supply chains (wood value).
WoodWisdom-Net Research Programme 2006-11 - Final Re-
port. 2006;.
3. World Bank Group. Comparative Value Chain and Economic
Analysis of Furniture/Wood Processing Sector (Chairs) in
Ethiopia, Tanzania, Zambia, China and Vietnam. 2011;.
4. United Nation. Forest Products Annual Market Review 2012-
2013. Geneva Timber and Forest Study Paper. 2013;p. 33.
702
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):696-704
5. VCCI. Báo cáo nghiên cứu ngành chế biến gỗ. Hà Nội: Dự án
Hỗ trợ Hiệp hội thực hiện nghiên cứu chiến lược phát triển
ngành. 2014;.
6. Ngọc VTM, Dung HTN. Thực trạng và một số giải pháp phát
triển thị trường lâm sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tạp chí khoa học và công nghệ lâm nghiệp. 2014;4:151–160.
7. Hương VT, et al. Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, Cơ
hội và thách thức đối với công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam.
Tạp chí khoa học và công nghệ lâm nghiệp. 2014;3:136–144.
8. Hùng TV. Thực trạng và giải pháp phát triển ngành công
nghiệp chế biến gỗ vùng Đông Nam Bộ. Tạp chí phát triển
và hội nhập. 2015;22:66–72.
9. DTI of SouthAfrica. AGravityModel for theDetermination and
Analysis of Trade Potential for South Africa. Research of the
deparment of trade and indusstry South Africa. 2003;.
10. Khiyavi K, et al. Investigation of Factors Affecting the Interna-
tional Trade of Agricultural Products in Developing Countries.
Life Science Journal. 2013;10:409–414.
11. Thu NA. Assessing the Impact of Vietnam’s Integration under
AFTA and VJEPA on Vietnam’s Trade Flows, Gravity Model Ap-
proach. Yokohama Journal of Sciences. 2012;17:137–149.
12. Kristjánsdóttir H. A Gravity Model for Exports from Iceland.
A Reseach of Centre for Applied Microeconometrics (CAM) at
the University of Copenhagen. 2005;.
13. Elshehawy AM, et al. The Factors Affecting Egypt’s Exports:
Evidence from the Gravity Model Analysis. Open Journal of
Social Scienc. 2014;2:138–148. Available from: https://doi.org/
10.4236/jss.2014.211020.
14. Tiến NV. Vietnam’s exports to TPP countries gravity model,
trade determinants and trade potentials. The paper for The
ninth Vietnam Economists Annual Meeting VEAM. 2016;.
15. TiếnDN. Ảnhhưởng của các nhân tố tới luông xuất nhập khẩu
hàng hóa giữa Việt Nam và các nước TPP. Tạp chí Kinh tế và
Dự báo. 2013;5:23–27.
16. CIEM. Phụ thuộc kinh tế giữa Việt Nam - Trung Quốc. Báo cáo
nghiên cứu của Viện NQCLKTTW. 2016;.
17. Hiếu TT, Thủy PTT. Ứng dụng mô hình lực hấp dẫn trong
thương mại quốc tế. Tạp chí quản lý kinh tế. 2010;31:12–21.
18. Genç M, Law D. A Gravity Model of Barriers to Trade in New
Zealand. New Zealand Treasury Working Paper. 2014;.
19. Kang S. Is Korea Exploiting Its Trade Potentials in Africa? :Grav-
ity Equation Analysis and Policy Implications. Korea and the
World Economy. 2014;15(1):97–128.
20. Camacho P. Portugal’s Integration in World Trade: A Gravity
Model. A research of DIAMINA’CET ISCTE-IUL. 2013;Available
from: https://doi.org/10.7749/dinamiacet-iul.rp.2013.01.
21. Antoni A, Troy L. A gravity model approach to analyzing the
trade performance of Caricom member states. Econometrics
and International Development. 2014;14(2):21–36.
22. Suresh G, Neeraj A. Determinants of India’s Manufactured Ex-
ports to South and North: A Gravity Model Analysis. Interna-
tional Journal of Economics and Financial. 2014;4(1):144–151.
23. Zhang Y, Wang S. Trade Potential of China’s Export to ASEAN:
TheGravityModel UsingNewEconomicMass Proxies. Journal
of SystemsScienceand Information. 2015;3(5):411–420. Avail-
able from: https://doi.org/10.1515/JSSI-2015-0411.
24. Ekrem E, Saban N. Gravity Model of Turkish Agricultural Ex-
ports to the European Union. International Trade and Finance
Association Working Papers. 2014;7:21–37.
25. Dlamini GS, et al. Determinants of Swaziland’s Sugar Export: A
Gravity Model Approach. International Journal of Economics
and Finance. 2016;8(10):71–81. Available from: https://doi.
org/10.5539/ijef.v8n10p71.
26. Harun Z, et al. Trendof Timber Products Export inMalaysia. In-
donesia: International Conference onBusiness -Management
& Corporate Social Responsibility (ICBMCSR’14). 2014;.
27. Achmad S, Rita N. The Analysis of Affecting Factors to
the Export of Rattan Furniture Indonesia in the International
Market. International Journal of Science and Research.
2015;5(10):1514–1519.
703
Science & Technology Development Journal – Economics - Law andManagement, 4(2):696-704
Open Access Full Text Article Research Article
University of Economics and Law,
VNU-HCM, Vietnam
Correspondence
Nguyen Van Nen, University of
Economics and Law, VNU-HCM,
Vietnam
Email: nennv@uel.edu.vn
History
Received: 09/05/2019
Accepted: 19/07/2019
Published: 27/6/2020
DOI : 10.32508/stdjelm.v4i2.617
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Factors affecting Vietnam’s wooden furniture export into CPTPP
countries
Nguyen Van Nen*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
This article focuses on examining the impact of factors affecting Vietnam's wood products export
to member countries of the Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partner-
ship (CPTPP). The gravity model is employed with reference to previous empirical studies and the
practical conditions of Vietnam. In addition, we also consider the influence of the US's accession to
the CPTPP on the export turnover of Vietnam's wooden furniture. The Random Effects Model (REM)
is used to analyze the panel data of CPTPP countries in the period 1996-2015. The results show that
the supply of wood materials, furniture import duties of CPTPP partners, Vietnam's economic and
trade expansion have the strongest impact on the wood product export of Vietnam into the CPTPP
market. Besides, Vietnam's wooden furniture industry still enjoys the benefits from the Agreement
whether the US becomes a member of CPTPP or not, as long as Vietnam has proper preparations
to meet the requirements of the Agreement.
Key words: impact factor, furniture, CPTPP, gravity model, international trade
Cite this article : NenNV.Factors affectingVietnam’swooden furnitureexport intoCPTPPcountries.
Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 4(2):696-704.
704
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_yeu_to_tac_dong_den_xuat_khau_do_go_cua_viet_nam_vao_cac.pdf