Xử trí cấp cứu
Thuốc đầu tay và quan trọng nhất trong điều trị
phản vệ trẻ em vẫn là adrenaline (không có chống chỉ
định tuyệt đối).
Kiểm soát đường thở: phải đặt nội khí quản ngay
nếu như bệnh nhân có phù thanh môn, nếu chậm trễ có
thể đến giai đoạn tắc nghẽn hoàn toàn đường thở, lúc
đó đặt nội khí quản sẽ rất khó ngay cả với người thầy
thuốc có nhiều kinh nghiệm; lúc đó mở khí quản cấp
cứu có thể cần thiết.
Các biện pháp tiếp theo
- Adrenaline 1 mg/ml: tiêm bắp 0,01 mg/kg cân
nặng (tối đa 0,5mg) vào mặt trước bên của đùi là tốt
nhất. có thể nhắc lại 5-15 phút nếu cần; nếu dấu hiệu
tưới máu cho tổ chức nghèo nàn, triệu chứng không
đáp ứng thì chuẩn bị Adrenalin truyền tĩnh mạch.
- Đặt bệnh nhân nằm ngửa tựa lưng phía sau,
nâng cao chân.
- Oxy: thở mặt nạ 6-8 lít/phút (hoặc đạt Oxy
100%).
- Truyền nhanh Natriclorua 0,9%, 20ml/kg, đánh
giá lại sau truyền nhanh và có thể nhắc lại 20 ml/kg,
nếu vẫn còn tụt huyết áp (lưu ý truyền nhiều dịch có
thể dịch bị thoát ra ngoài lòng mạch, theo dõi số lượng
nước tiểu).
- Albuterol: nếu co thắt phế quản kháng với
adrenaline, 0,15mg/kg (tối đa 2,5 mg) khí dung với 3 ml
nước muối sinh lý, có thể nhắc lại nếu cần.
- Kháng Histamin H1: diphenhydramine 1mg/kg
(tối đa 40 mg) tiêm tĩnh mạch (chỉ giúp giải quyết ngứa
và mày đay cấp).
- Kháng Histamin H2: ranitidin 1mg/kg (tối đa 50
mg) TM.
- Glucocorticoid: xem xét cho methylprednisolone
1 mg /kg (tối đa 125 mg) TM.
Theo dõi liên tục: huyết áp, SpO2 liên tục, số
lượng nước tiểu.
Trường hợp triệu chứng sốc dai dẳng: truyền
Adrenaline mặc dù đã được tiêm bắp adrenalin, truyền
dịch đủ, phải truyền liên tục adrenalin 0,1-1 µg/kg/phút
bằng bơm tiêm điện, thay đổi liều theo đáp ứng.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cập nhật tiếp cận nhanh và xử lý sớm sốc phản vệ do thuốc cản quang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012 425
DIỄN ĐÀN
MeDICAL fOrUM
SUMMARY
Anaphylaxis to radiocontrast substance present with pruritus, urticaria, angioedema, laryngospasm,
bronchospasm, hypotension, and/or loss of consciousness. Most are mild, but a small number are life-threatening.
These reactions typically develop within five minutes to one hour after administration. Higher osmolality substances
cause more anaphylaxis compared to lower osmolality agents or iso-osmolal agents. Most hospital now administer
nonionic lower osmolality agents routinely for its intravascular procedures.
The diagnosis of anaphylaxis is based upon the recognition of characteristic signs and symptoms. Laboratory
testing is not required.
Management: The infusion of radiocontrast substance should be stopped immediately as soon as a
hypersensitivity reaction is recognized. Subsequent treatment depends upon the severity of the reaction. The
treatment of anaphylaxis includes adrenalin as soon as possible by intramuscular injection then intravenously if
the symptoms are resistant, intravenous fluids, oxygen, diphenhydramin (antihistamin H1) and corticosteroid
intravenously, intubation may be required. Particularly, patients with cardiac arrest should be managed according to
advanced cardiac life support guidelines.
CẬP NHẬT TIẾP CẬN NHANH VÀ XỬ LÝ
SỚM SỐC PHẢN VỆ DO THUỐC CẢN
QUANG
Bùi Văn Lệnh*, Lê Tuấn Linh*, Hoàng Bùi Hải*
* Bệnh viện Đại học Y Trường ĐHY Hà Nội.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phản vệ được định nghĩa là một phản ứng dị ứng
nghiêm trọng mà xuất hiện và có thể dẫn đến tử vong
một cách nhanh chóng [2, 3]. Phản vệ có thể xuất hiện
sau vài phút (thường là trong vòng những giờ phút đầu
tiên sau khi tiêm (tiếp xúc với dị nguyên) [1]. Thuốc cản
quang được xem như là một trong những dị nguyên
gây phản vệ nghiêm trọng nhất trong bệnh viện.
Hàng năm, toàn thế giới có hơn 70 triệu thăm dò
chẩn đoán hình ảnh có sử dụng thuốc cản quang, riêng
ở Mỹ có ít nhất 10 triệu người [4]. Các thăm dò chẩn
đoán hình ảnh bao gồm chụp ống tủy, chụp mạch (động
- tĩnh mạch, chụp UIV, chụp đường mật ngược dòng -
ERCP, chụp khớp gối, chụp CLVT). Sốc phản vệ xảy
ra chủ yếu khi dùng thuốc cản quang dạng tiêm đường
tĩnh mạch. Phát hiện sớm và xử trí kịp thời sốc phản vệ
liên quan đến thuốc cản quang theo phác đồ là yêu cầu
bắt buộc với các nhân viên y tế nói chung, đặc biệt là
bác sĩ, kĩ thuật viên tại khoa chẩn đoán hình ảnh.
Adrenaline là thuốc cấp cứu cơ bản trong sốc phản
vệ do bất cứ dị nguyên nào. Không có chống chỉ định
tuyệt đối giành cho Adrenalin, song thuốc này vẫn chưa
được sử dụng đúng cách và triệt để trong cấp cứu sốc
phản vệ. Một số nghiên cứu cho thấy 70% bệnh nhân
sốc phản vệ có các triệu chứng rầm rộ cần ít nhất hai
lần tiêm adrenaline [1].
II. MỘT SỐ THUỐC CẢN QUANG THƯỜNG DÙNG
[8, 9,10]
Các thuốc có chứa iod (Produits de contraste
iodé - PCI) rất thường dùng hiện nay. Cấu trúc cơ bản
của PCI là một phức hợp hữu cơ bao gồm một nhân
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012426
DiỄn ĐÀn
benzen có gắn nguyên tử Iod ở các vị trí 2,4,6. Chính
Iod là nguyên tố quyết định tính chất cản quang của cấu
trúc (hình 1).
Người ta chia ra 4 loại thuốc cản quang chính, tiêm
đường mạch máu bao gồm thuốc đơn phân tử ion hóa,
đơn phân tử không ion hóa, trùng hợp ion hóa và các
thuốc trùng hợp không ion hóa. Các thuốc còn được
phân chia dựa vào số lượng nhóm carboxyles nhóm
hydroxyles và mức độ thẩm thấu của chúng. Sự tăng
chỉ số hiệu dụng của loại trùng hợp ion hóa so với loại
đơn phân tử ion hóa không căn cứ vào sự giảm các dấu
hiệu nhiễm độc khi tiêm tĩnh mạch. Chính các hạt nhân
Cacbon ở vị trí 3 và 5 mang các gốc đặc trưng. Các
hạt nhân Cacbon ở vị trí 1 mang các gốc carboxyl hoặc
các gốc amide. Các chuỗi gốc carboxyl chính là muối
kiềm, meglumine hoặc monoéthanolamine. Các muối
kiềm tạo nên một dung dịch lỏng trong khi các muối
meglumine tạo dung dịch nhớt hơn. Các chuỗi khác
bên cạnh tạo tính ái nước của thuốc, có ảnh hưởng đến
sự thanh thải của thuốc. Các thuốc cản quang không
ion hóa mà có số hạt nhân iod và các nhóm hydroxyl
cao sẽ gây tăng tính ái nước.
Hình 1. Cấu trúc cơ bản của thuốc cản quang (nguyên
tử lượng I= 53)
Các thuốc cản quang (PCI) có kích thước phân tử
nhỏ trọng lượng vào khoảng 600-1650 thẩm thấu tốt
qua nội mạc thành mạch mà không gây tắc các mao
mạch. Thuốc không màu, tan trong nước và ổn định
trong điều kiện bảo quản bình thường (tránh ánh sáng
và nhiệt độ quá cao). Thuốc cản quang tan tron g nước
chứa iod có 3 đặc trưng sinh - hóa cần lưu ý:
Hàm lượng iod quyết định mức độ cản quang -
của thuốc.
Độ thẩm thấu liên quan đến mức độ trao đổi -
thể dịch mạnh hay yếu giữa lòng mạch và ngoài lòng
mạch.
Độ nhớt ảnh hưởng đến sự thanh thải của -
thuốc.
Độ thẩm thấu chính là số phần tử thẩm thấu hoạt
động tác động lên các thành bán thấm đơn vi tính là
mosm/kg H2O. So sánh độ thẩm thấu của 2 thuốc dựa
trên cơ sở cùng hàm lượng iod chứa trong dung dịch
thuốc (độ thẩm thấu của máu khoảng 300 mOsm/kg).
Các thuốc có độ thẩm thấu thấp vào khoảng 600- 900
mOsm/kg và các thuốc có độ thẩm thấu cao từ 1500
- 2200 mOsm/kg. Độ thẩm thấu là đặc tính cơ bản
của thuốc cản quang vì tính ưu trương của dung dịch
tạo nên sự tăng thẩm thấu và gây nên phần lớn tác
dụng không mong muốn như mất nước tế bào, cảm
giác nóng, đau dọc theo mạch được tiêm, tổn thương
nội mạc, lợi tiểu thẩm thấu quá mức... Tăng thẩm thấu
quá mức gây mất nước khoang kẽ và tế bào dồn vào
huyết tương. Ngưỡng đau do độ thẩm thấu tăng cao
vào khoảng 600 mOsm/kg H2O. Những thuốc không
ion hóa có độ thẩm thấu gần với huyết tương nên ít gây
dấu hiệu này.
Tính ái nước của thuốc do các gốc (đã nói trên)
gắn vào nhân benzen quyết định nhưng không gây ra
sự thoát tế bào qua màng.
Độ nhớt chính là sự chống lại những thay đổi
vị trí gắn kết của các phân tử với nhau đơn vị đo là
milliPascals.seconde (mPa.s) hoặc centipoises (cP).
Các thuốc có độ nhớt cao làm giảm tốc độ khi tiêm và
có thể có tác động trực tiếp lên nội mạch. Ở 37°C máu
có độ nhớt 3,6 - 5,4 centipoises.
Độ đậm đặc Iod chính là số lượng Iod (mg)/ml
thuốc. Các nhà dược học cho rằng các thuốc có 350
-370 mg/ml thường dùng để chụp UIV,các thuốc 240
- 300 nên dùng trong chụp CLVT, còn các thuốc 120 -
250 nên dùng để chụp các hốc, lỗ rò, nang...
Chỉ số hiệu dụng (Index d’ efficacité) thuốc cản
quang chính là tỉ lệ số hạt nhân Iod có trong phân tử (A)
và P (số phần tử- ion và không ion) có trong dung dịch
thuốc. Chỉ số này dùng để so sánh giữa các thuốc với
nhau I = A/P.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012 427
DiỄn ĐÀn
1. Các thuốc đơn phân tử ion hóa
Các thuốc này có tỉ lệ các nguyên tử iode và các
phần tử trong dung dịch là 3/2 nên mức nhiễm độc
thẩm thấu rất cao. Với tỉ lệ số các nhóm carboxyles và
số nguyên tử iode là 1/3 nên cũng gây nên sự nhiễm
độc hóa chất rất cao và dung nạp thuốc kém (hình 2).
Trên chuột tiêm 5-10g dung dịch thuốc/kg cân nặng có
tỉ lệ chết là 50% (DL50).
Hình 2. Công thức hóa học của thuốc đơn phân tử ion
hóa (M= Na+, Meglumine)
2. Các thuốc đơn phân tử không ion hóa (hình 3)
Các thuốc loại này có độ nhiễm độc thẩm thấu
tương tự loại trùng hợp ion hóa do tỉ lệ giữa số nguyên
tử iode và số phần tử trong dung dịch là 3. Tuy nhiên
mức độ nhiễm độc hóa chất của nó ít hơn do không có
nhóm carboxyles và có từ 3 đến 5 nhóm hydroxyles. Sự
dung nạp thuốc tốt hơn loại trùng hợp ion hóa. LD50 ở
chuột là 15- 20 g/kg cân nặng.
Hình 3a. Công thức hóa học của thuốc đơn phân tử
không ion hóa
Hình 3b. Công thức hóa học của Iopromide (Ultravist )
3. Các thuốc trùng hợp ion hóa (hình 4)
Các thuốc này có tỉ lệ giữa các nguyên tử iod và
các phần tử trong dung dịch là 3 nên có độ nhiễm độc
thẩm thấu thấp hơn loại đơn phân tử ion hóa. Loại này
có tỉ lệ giữa số nhóm carboxyles và số nguyên tử iode
là 1/6 nên độ nhiễm độc hóa chất cũng ít hơn loại đơn
phân ion hóa. Sự dung nạp thuốc cũng tốt hơn. Trên
chuột DL50 là 10 –15 g/kg cân nặng.
Hình 4. Công thức hóa học của thuốc trùng hợp ion
hóa
4. Các thuốc trùng hợp không ion hóa (hình 5)
Các thuốc loại này có độ nhiễm độc thẩm thấu ít do
tỉ lệ giữa số nguyên tử và số phần tử trong dung dịch
là 6. Nhiễm độc hóa chất cũng ít do không có nhóm
carboxyles mà chỉ có 9-12 nhóm hydroxyles. Dung
dịch thuốc hầu như là đẳng trương và dung nạp thuốc
rất tốt. Trên chuột DL50 là 20-25 g/kg cân nặng. Các
thuốc cản quang không ion hóa có số nguyên tử iode và
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012428
DiỄn ĐÀn
nhóm hydroxyles cao thì có độ dung nạp thuốc tốt hơn.
Hình như nhóm hydroxyles với bề mặt có chứa những
phần tử ưa nước, giữ nước làm giảm phản ứng với các
phân tử proteine huyết tương và có tác dụng làm giảm
tỉ lệ tác dụng phụ, làm giảm mức độ trầm trọng của tác
dụng không mong muốn. Theo các tác giả Mỹ, các tác
dụng không mong muốn của thuốc không ion hóa chỉ
bằng 1/3 thuốc ion hóa. Theo các tác giả Nhật, các tai
biến nặng do thuốc ion hóa cao gấp 6 lần thuốc không
ion hóa.
Hình 5. Công thức hóa học của thuốc trùng hợp không
ion hóa
Bảng phân loại một số thuốc cản quang thường dùng hiện nay
Thuốc có độ
thẩm thấu cao
Thuốc có độ
thẩm thấu thấp
Độ thẩm thấu Độ nhớt ở 37 độ C
Ion hóa Ion hóa Không ion
Telebrix 35 2100 7.7
Radioselectan 76% 2100 8.5
Hexabrix 200 370 2.2
Hexabrix 320 600 7.5
Iomeron 300 521 4.5
Iopamiron 300 616 4.7
Ivepaque 300 640 6.5
Omnipaque 300 690 6.1
Optiray 300
630
5
Ultravist 300 607 4.6
Visipaque 270 290 5.8
Visipaque 320 290 11.4
Xêntix 300 695 6
III. SINH LÝ THẢI TrỪ THUỐC CẢN QUANG [10,11]
Sự thải trừ thuốc cản quang qua thận (99%) là cơ
sở của thăm dò bộ máy tiết niệu bằng UIV. Trong trường
hợp thận suy thuốc sẽ thải trừ qua đường mật khoảng
20%. Thời gian bán loại trừ huyết tương vào khoảng
60 - 120 phút tùy loại thuốc. Bình thường có tới 70%
liều thuốc dùng được thấy trong nước tiểu khoảng 6h
sau tiêm. Khi tiêm một lượng thuốc cản quang vào tĩnh
mạch thuốc nhanh chóng hòa đồng nhất trong huyết
tương, theo hệ thống tuần hoàn vào các buồng tim và
được phân phối đồng thời tới các cơ quan trong cơ thể.
Thuốc tới thận trong khoảng 15 đến 30 giây tùy thuộc
vào tốc độ tuần hoàn. Thuốc không vượt qua hàng rào
máu não, không bị đồng hóa, không xâm nhập tế bào.
Bình thường mỗi một chu trình tuần hoàn có 1/10 lượng
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012 429
DiỄn ĐÀn
Hình 6. Phim UIV, chụp mạch thận trái và CLVT trước và sau tiêm thuốc cản quang
thuốc tiêm tới thận và quá trình lọc, thải trừ bắt đầu.
9/10 lượng thuốc còn lại sẽ tới cơ quan khác (có giá trị
trong thăm dò CLVT). Cứ tiếp tục như vậy một chu trình
mới lại diễn ra dần dần thuốc được thải trừ hết. Thời
gian thải trừ phụ thuộc lượng thuốc tiêm, chức năng
của thận. Tại thận quá trình thải trừ bắt đầu bằng quá
trình lọc ở cầu thận, thuốc qua thành các mao mạch đi
vào trong bao Bowmann tới ống thận. Tại ống thận diễn
ra 2 quá trình trái ngược nhau:
Quá trình tái hấp thu của ống thận là quá trình
chính và quan trọng, thuốc được cô đặc do nước bị
tái hấp thu. Quá trình tái hấp thu cũng phụ thuộc vào
lượng nước trong cơ thể nên có thể hiểu được tại sao
nên nhịn ăn uống vài giờ trước khi làm UIV. Cũng nên
biết rằng với thuốc cản quang chỉ cần mức độ cô đặc
một vài độ đã đủ để nhận biết được sự cản quang của
đường niệu. Bài niệu thẩm thấu là quá trình ngược
lại với quá trình trên. Do thuốc có tính ưu trương nên
nước thẩm thấu qua thành ống thận vào ống thận làm
loãng nồng độ thuốc. Quá trình này tăng lên phụ thuộc
vào lượng thuốc tiêm. Người ta thấy rằng không nên
vượt quá 2ml/kg (loại 70% iod) trọng lượng cơ thể. Từ
ngưỡng này trở lên sự cản quang hệ tiết niệu không
rõ hơn đáng kể. Với thuốc cản quang có độ thẩm thấu
thấp hiện tượng này không đáng kể do đó nó có hai lợi
ích chính là mức độ cản quang đường niệu cao hơn
và hiện hình đường niệu phía dưới chậm hơn (lượng
thuốc ít, ít bị pha loãng).
Để đánh giá chức năng bài tiết của thận nên căn
cứ vào sự xuất hiện cản quang ở các đài nhỏ của thận.
Hiện tượng này bình thường diễn ra trong vòng từ phút
thứ 2-3 tính từ lúc tiêm. Các đài nhỏ phải ngấm thuốc
diễn ra đồng thời ở cả hai thận. Đây là dấu hiệu rất quan
trọng để đánh giá so sánh chức năng hai thận. Tiếp theo
sự xuất hiện ngấm thuốc của đường bài xuất (đài lớn, bể
thận, niệu quản, bàng quang) do thuốc cản quang thay
thế dần nước tiểu đơn thuần. Mức độ cản quang rõ nhất
diễn ra vào phút thứ 10-15. Do nhu động của đài bể thận
và niệu quản (3-5 lần/phút) nên ta chỉ thấy từng đoạn
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012430
DiỄn ĐÀn
niệu quản ngấm thuốc (nên chụp nhiều phim để xem
toàn bộ niệu quản). Sau phút thứ 5 bàng quang bắt đầu
ngấm thuốc. Bàng quang sau đi tiểu phải hoàn toàn rỗng
nếu có nước tiểu tồn dư chứng tỏ có cản trở...
IV. PHẢN VỆ THUỐC CẢN QUANG
Phản ứng quá mẫn với thuốc cản quang thường
không liên quan đến liều và tốc độ tiêm thuốc, có thể
xuất hiện ngay cả khi chỉ tiếp xúc với một lượng nhỏ dị
nguyên là thuốc cản quang. Kiểu phản ứng có thể được
chia làm nhiều thể khác nhau [5]. Quá mẫn tức thì và quá
mẫn muộn. Trong khuôn khổ bài này chúng ta bàn luận
chủ yếu về quá mẫn tức thì. Triệu chứng của quá mẫn
tức thì với thuốc cản quang xuất hiện trong vòng giờ đầu
gồm nóng bừng mặt, ngứa, mày đay cấp, phát ban, phù
mạch, co thắt phế quản, thở rít, phù thanh quản, rút lõm
lồng ngực, tụt huyết áp, sốc, mất ý thức [6, 8].
V. PHÁT HIỆN NHANH PHẢN VỆ THUỐC CẢN QUANG
Năm 2006, hội thảo về định nghĩa và xử trí phản vệ
Hoa Kỳ, báo cáo lần thứ hai đã đưa ra tiêu chuẩn chẩn
đoán phản vệ [3], chúng tôi xin tóm lại như sau: ngay
sau khi tiếp xúc với dị nguyên (thuốc cản quang) từ vài
phút đến vài giờ, xuất hiện ít nhất hai trong số các dấu
hiệu sau đây:
1. Các dấu hiệu da niêm mạc (phát ban toàn thân,
ngứa khắp người, sưng nề môi - lưỡi - lưỡi gà).
2. Dấu hiệu hô hấp (khó thở, co thắt phế quản,
rút lõm lống ngực, giảm lưu lượng đỉnh, giảm oxy hóa
máu).
3. Tụt huyết áp hoặc có các dấu hiệu của tụt huyết
áp (giảm trương lực cơ, ngất, tiểu tiện, đại tiện không
tự chủ).
4. Liên tục có biểu hiện dạ dày ruột (đau quặn
bụng, nôn).
Trong đó triệu chứng ở da có thể không có hoặc
không nhận biết được ở gần 20% các trường hợp. Nếu
không có dấu hiệu da niêm mạc thì ít nhất phải có 1
trong hai dấu hiệu 2 hoặc 3. Ở dấu hiệu 3, tụt huyết áp
là huyết áp tối đa < 90 mmHg hoặc HA tối đa sụt so với
huyết áp cơ bản > 30% (với trẻ em phải theo phân loại
chi tiết (sau từ 1 tháng đến 1 năm: < 70 mmHg, từ 1-10
tuổi 70 mmHg + 2 x tuổi. Từ 11 tuổi trở lên giống người
lớn <90 mmHg) được gọi là tụt huyết áp.
VI. CÁC XÉT NGHIỆM CÓ THỂ LÀM
Xét nghiệm không được làm thường quy trong chẩn
đoán phản vệ thuốc cản quang. Trong một số trường
hợp khó (liên quan đến pháp lí), cần phân biệt phản
vệ nặng với một biến cố tim mạch. Các xét nghiệm tìm
chỉ ra sự thay đổi bệnh lí của các tế bào mast và bạch
cầu ưa kiềm. Các xét nghiệm có thể làm [7] ngay sau
bị phản vệ: lấy máu hoặc nước tiểu ngay sau khi phản
vệ xảy ra càng sớm càng tốt có thể thấy tăng tryptase
hoặc histamine đây là các hóa chất trung gian được
giải phóng từ các nang của tế bào mast và ái kiềm, sự
xuất hiện của chúng trong huyết thanh chứng tỏ có hoạt
động mạnh phá vỡ các nang.
Tryptase (là một proteinase) có nửa đời sống 90
phút và có thể còn phát hiện được nhiều giờ sau phản
vệ, nhưng thời điểm tăng cao nhất là giữa 30 phút đến
3 giờ sau biểu hiện triệu chứng.
Histamine được chuyển hóa nhanh hơn và chỉ
xuất hiện thoảng qua trong máu. Tuy nhiên histamine
hoặc sản phẩm giáng hóa của nó n-methylhistamine
có thể được định lượng trong nước tiểu trong một thời
gian kéo dài hơn, cần thu gom nước tiểu 24 giờ, lấy
càng sớm càng tốt sau khi bị phản vệ. Về thực hành
lâm sàng, với bệnh nhân phản vệ với thuốc cản quang,
thực tế không được làm các thăm dò trên vì các xét
nghiệm này có tăng cũng không thể hiểu hơn về cơ chế
sinh lý bệnh gây nên phản vệ, cũng như có thể cho biết
liệu khi bệnh nhân tiếp xúc trở lại với thuốc cản quang
thì có bị phản vệ nữa hay không.
Test da được thực hiện bởi bác sĩ chuyên khoa
dị ứng, lý tưởng là trong khoảng thời gian từ 2-6 tháng
sau khi bị phản vệ. Kết quả test da có thể giúp định
hướng chọn thuốc cản quang cho lần chụp tiếp theo.
VII. XỬ TrÍ BAN ĐẦU PHẢN VỆ VỚI THUỐC CẢN
QUANG [7]
Các thao tác cần làm ngay
Ngừng ngay tiêm, truyền thuốc cản quang. 1.
Gọi người hỗ trợ.2.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012 431
DiỄn ĐÀn
Dùng thuốc adrenalin tiêm bắp.3.
Đặt bệnh nhân nằm ngửa đầu thấp, nếu khó thở 4.
hoặc có nôn thì đặt bệnh nhân ở tư thế Fowler gác cao
chân.
Thở oxy và đặt đường truyền tĩnh mạch. 5.
Phác đồ xử trí cấp cứu phản vệ giành cho
người lớn
Điều trị quan trọng nhất và đầu tiên của phản vệ
là adrenaline, không có chống chỉ định tuyệt đối nào
trong bệnh cảnh phản vệ. Nếu bệnh nhân bị xác định
là ngừng tuần hoàn với biểu hiện mất ý thức đột ngột,
mất mạch cảnh và ngừng thở. Cần tiến hành cấp cứu
ngừng tuần hoàn ABC ngay lập tức. Về phần này xin
không trình bày ở đây.
Kiểm soát đường thở: phải đặt nội khí quản ngay
nếu như bệnh nhân có phù thanh môn, nếu chậm trễ có
thể đến giai đoạn tắc nghẽn hoàn toàn đường thở, lúc
đó đặt nội khí quản sẽ rất khó ngay cả với người thầy
thuốc có nhiều kinh nghiệm, mở khí quản cấp cứu có
thể là cần thiết.
Các biện pháp tiếp theo (làm nhanh chóng và
đồng thời)
Adrenaline 1 mg/ml: tiêm bắp 0,3-0,5 mg vào mặt -
trước bên của đùi là tốt nhất, có thể nhắc lại 5-15 phút
nếu cần, nếu triệu chứng không cải thiện thì chuẩn bị
Adrenaline truyền tĩnh mạch.
Đặt bệnh nhân nằm ngửa tựa lưng phía sau, -
nâng cao chân.
Thở oxy bằng mặt nạ 6-8 lít/phút (hoặc đạt Oxy -
100%).
Truyền nhanh Natriclorua 0,9% từ 1-2 lít truyền -
nhanh, có thể nhắc lại nếu vẫn còn tụt huyết áp (lưu ý
truyền nhiều dịch có thể dịch bị thoát ra ngoài lòng mạch).
Xem xét các thuốc khác
Albuterol: 2,5 - 5 mg khí dung với 3 ml nước -
muối sinh lý, có thể nhắc lại (nếu co thắt kháng với
adrenaline).
Kháng Histamin H1: diphenhydramine 25-50 mg -
tiêm tĩnh mạch (chỉ giúp giải quyết ngứa và máy đay
cấp).
Kháng Histamin H2: ranitidine 50 mg x 1 ống -
TM.
Glucocorticoid: xem xét cho methylprednisolone -
125 mg.
Theo dõi liên tục: huyết áp và SpO2 liên tục.
Trường hợp triệu chứng sốc dai dẳng: truyền
Adrenaline mặc dù đã được tiêm bắp adrenalin, truyền
dịch đủ, phải truyền liên tục adrenalin 2-10 µg/phút
bằng bơm tiêm điện, thay đổi liều theo huyết áp động
mạch, nhịp tim, chức năng tim và oxy máu (các thuốc
khác như vasopressors hoặc glucagon hiện chưa phổ
biến ở thị trường Việt Nam).
VIII. PHÁC ĐỒ CẤP CỨU PHẢN VỆ CHO TrẺ eM
Triệu chứng phản vệ thường gặp nhất ở trẻ em
là dấu hiệu da niêm mạc (đột ngột xuất hiện mày đay
toàn thân, phù mạch, ban, ngứa). Tuy nhiên vẫn có 10
đến 20% trẻ phản vệ không có dấu hiệu da. Dấu hiệu
nguy hiểm: triệu chứng xuất hiện nhanh chóng, suy hô
hấp (khò khè, rút lõm lồng ngực, rít, khó thở, tăng công
hô hấp, ho liên tục, tím tái), dấu hiệu giảm tưới máu tổ
chức, loạn nhịp tim, tụt huyết áp, truỵ mạch
Xử trí cấp cứu
Thuốc đầu tay và quan trọng nhất trong điều trị
phản vệ trẻ em vẫn là adrenaline (không có chống chỉ
định tuyệt đối).
Kiểm soát đường thở: phải đặt nội khí quản ngay
nếu như bệnh nhân có phù thanh môn, nếu chậm trễ có
thể đến giai đoạn tắc nghẽn hoàn toàn đường thở, lúc
đó đặt nội khí quản sẽ rất khó ngay cả với người thầy
thuốc có nhiều kinh nghiệm; lúc đó mở khí quản cấp
cứu có thể cần thiết.
Các biện pháp tiếp theo
Adrenaline 1 mg/ml: tiêm bắp 0,01 mg/kg cân -
nặng (tối đa 0,5mg) vào mặt trước bên của đùi là tốt
nhất. có thể nhắc lại 5-15 phút nếu cần; nếu dấu hiệu
tưới máu cho tổ chức nghèo nàn, triệu chứng không
đáp ứng thì chuẩn bị Adrenalin truyền tĩnh mạch.
Đặt bệnh nhân nằm ngửa tựa lưng phía sau, -
nâng cao chân.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012432
DiỄn ĐÀn
Oxy: thở mặt nạ 6-8 lít/phút (hoặc đạt Oxy -
100%).
Truyền nhanh Natriclorua 0,9%, 20ml/kg, đánh -
giá lại sau truyền nhanh và có thể nhắc lại 20 ml/kg,
nếu vẫn còn tụt huyết áp (lưu ý truyền nhiều dịch có
thể dịch bị thoát ra ngoài lòng mạch, theo dõi số lượng
nước tiểu).
Albuterol: nếu co thắt phế quản kháng với -
adrenaline, 0,15mg/kg (tối đa 2,5 mg) khí dung với 3 ml
nước muối sinh lý, có thể nhắc lại nếu cần.
Kháng Histamin H1: diphenhydramine 1mg/kg -
(tối đa 40 mg) tiêm tĩnh mạch (chỉ giúp giải quyết ngứa
và mày đay cấp).
Kháng Histamin H2: ranitidin 1mg/kg (tối đa 50 -
mg) TM.
Glucocorticoid: xem xét cho methylprednisolone -
1 mg /kg (tối đa 125 mg) TM.
Theo dõi liên tục: huyết áp, SpO2 liên tục, số
lượng nước tiểu.
Trường hợp triệu chứng sốc dai dẳng: truyền
Adrenaline mặc dù đã được tiêm bắp adrenalin, truyền
dịch đủ, phải truyền liên tục adrenalin 0,1-1 µg/kg/phút
bằng bơm tiêm điện, thay đổi liều theo đáp ứng.
IX. KẾT LUẬN
Phản vệ là một biến chứng nặng nề trong thực
hành lâm sàng, xuất hiện khi bệnh nhân được tiếp xúc
với một dị nguyên, trong đó với thuốc cản quang được
xem là dị nguyên hay gặp nhất. Hậu quả để lại có thể
đe dọa tính mạng bệnh nhân. Phát hiện sớm phản vệ
với các dấu hiệu ngoài da, thay đổi hô hấp và thay đổi
về huyết động (huyết áp và tưới máu tổ chức) là cần
thiết và có tính chất quyết định trước khi tiến hành cấp
cứu phản vệ. Adrenaline được xem là thuốc đầu tay và
là thuốc quan trọng nhất trong cấp cứu phản vệ, thuốc
không có chống chỉ định tuyệt đối trong hoàn cảnh phản
vệ, hơn nữa việc dùng sớm giúp bệnh nhân phản vệ
tránh chuyển sang giai đoạn sốc rối loạn chuyển hóa,
khó hồi phục. Hộp chống sốc với đầy đủ các thuốc và
dụng cụ thiết yếu cần được trang bị cho các khoa chẩn
đoán hình ảnh, cũng như nhân viên thực hành tại khoa
cũng cần được trang bị và cập nhật kiến thức thường
xuyên để chẩn đoán và xử trí kịp thời các trường hợp
phản vệ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Timothy J.Bedient and Marin H. Kollef (2012), 1.
Anaphylactic Shock, The Wasington Manual of Critical
Care, p23-26.
Oswalt ML, Kemp SF. Anaphylaxis: office 2.
management and prevention. Immunol Allergy Clin
North Am 2007; 27:177.
Sampson HA, Muñoz-Furlong A, Campbll 3.
RL, et al. Second symposium on the definition and
management of anaphylaxis: summary report--Second
National Institute of Allergy and Infectious Disease/
Food Allergy and Anaphylaxis Network symposium. J
Allergy Clin Immunol 2006; 117:391.
Christiansen C. X-ray contrast media--an 4.
overview. Toxicology 2005; 209:185.
Brockow K, Christiansen C, Kanny G, et al. 5.
Management of hypersensitivity reactions to iodinated
contrast media. Allergy 2005; 60:150.
Katayama H, Yamaguchi K, Kozuka T, et al. 6.
Adverse reactions to ionic and nonionic contrast media.
A report from the Japanese Committee on the Safety of
Contrast Media. Radiology 1990; 175:621.
F Estelle R Simons, Carlos A Camargo, Bruce S 7.
Bochner, Anaphylaxis: Rapid recognition and treatment.
Uptodate last updated: May 14, 2012.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cap_nhat_tiep_can_nhanh_va_xu_ly_som_soc_phan_ve_do_thuoc_ca.pdf