Một số đề xuất chính sách chuyển
dịch đất đai và mức độ ủng hộ
Trên cơ sở đánh giá tác động của một
số vấn đề chính sách đất đai đối với sự phát
triển nông nghiệp bền vững, hiện đại, chúng
tôi đã có 6 đề xuất chính sách đối với việc
sửa đổi Luật đất đai 2013, và khảo sát mức
độ ủng hộ nói chung, với tư cách là các chỉ
dấu đo lường tính khả thi của các đề xuất đó
như sau:
Thứ nhất, nhằm khắc phục hạn chế, bất
cập nảy sinh khi thực hiện giao đất không thu
tiền, Luật Đất đai sửa đổi nên quy định duy
nhất một hình thức là cho thuê đất (land lease).
Với đề xuất chính sách này; theo đó, các hộ gia
đình, cá nhân, tổ chức kinh tế đã được giao đất
dù thu tiền hay không thu tiền đều phải chuyển
sang hình thức thuê đất. Có 56.5% người trả
lời đồng ý với đề nghị này, 28.1% không đồng
ý và 13.7% không có ý kiến14.
Thứ hai, về chính sách liên quan đến
hạn điền, với quy định cứng như hiện nay,
có một số quan điểm trái ngược. Bên cạnh
33.3% người trả lời nhận định rằng cần giữ
nguyên quy định về hạn điền, có 31.7% cho
rằng nên mở rộng hạn điền, và 28.8% cho
rằng nên bãi bỏ hạn điền, thay bằng chính
sách tài chính để điều tiết việc chuyển
nhượng15. Quan điểm cho rằng cần bãi bỏ
hạn điền cứng, thay bằng chính sách tài
chính để kiểm soát đầu cơ tích trữ bằng giá
tiền cho thuê đất sẽ linh hoạt, mềm dẻo hơn,
phù hợp hơn với kinh tế thị trường, nhưng
lại chưa nhận được nhiều sự ủng hộ từ số
người tham gia khảo sát.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách chuyển dịch đất đai theo hướng tích tụ, tập trung và tác động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÍNH SÁCH CHUYỂN DỊCH ĐẤT ĐAI
THEO HƯỚNG TÍCH TỤ, TẬP TRUNG VÀ TÁC ĐỘNG1
1 Bài viết sử dụng kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp bộ ĐTCB.2017-26 “Hoàn thiện pháp luật về tích tụ đất
nông nghiệp – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do TS. Bùi Hải Thiêm làm Chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Việc chuyển dịch đất đai theo hướng tăng quy mô diện tích đất
ở cấp độ người sử dụng đất có thể tăng hiệu quả sử dụng đất.
Dư địa để tiếp tục phát triển nông nghiệp đang gặp phải "điểm
nghẽn" là trần giới hạn về quy mô diện tích đất đai và phương
thức sản xuất. Hai hình thức là tích tụ đất đai và tập trung đất
đai, với tư cách là chính sách chuyển dịch đất đai giúp giải
quyết điểm nghẽn này, nhằm tận dụng lợi thế về quy mô, biến
đất đai thành yếu tố đầu vào của sản xuất hàng hoá lớn, ứng
dụng khoa học-công nghệ, xây dựng mối liên kết giữa hộ nông
dân và doanh nghiệp, phát triển dịch vụ, cắt giảm lực lượng lao
động trong nông nghiệp. Bài viết này phân tích các góc nhìn
hiện nay về hướng tích tụ và tập trung đất đai, và dựa trên kết
quả nghiên cứu gần đây, chỉ ra một số nội dung đề xuất chính
sách có khả năng nhận được mức độ ủng hộ như thế nào từ
công chúng.
Bùi Hải Thiêm*
Vũ Văn Huân**
* TS. Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
** Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Abstract
The land tranfer towards increasing land scale at the land user
level may increase the efficiency of the land use. The potentiality
for developments of agriculture is facing with a "bottleneck",
that is the threshold of the land area and the production method.
Two modalities, the land accumulation and land consolidation,
are considered as a land tranfer policy helping to remove the
mentioned bottleneck, to take advantages of large scale, to
turn the land as an input of commodity production, to apply
the science and technology, to establish a chain of farmers and
enterprises, to develop the agricultural services, to decrease the
labor force in agriculture sector. This article provides analysis
of current perspectives on modalities of land accumulation and
land consolidation, and based on the findings resulted from
recent studies, also give out policy recommendations that may
receive somewhat supports from the public.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Chuyển dịch đất đai; tích tụ ruộng
đất; tập trung ruộng đất; dồn điền, đổi thửa;
nông nghiệp bền vững.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 05/11/2019
Biên tập : 16/11/2019
Duyệt bài : 20/11/2019
Article Infomation:
Keywords: land tranfer; arable land
accumulation; arable land consolidation;
arable land merging- arable land exchange;
sustainabl agriculture.
Article History:
Received : 05 Nov. 2019
Edited : 16 Nov. 2019
Approved : 20 Nov. 2019
CHÑNH SAÁCH
45Số 22(398) T11/2019
1. Các quan niệm phổ biến hiện nay về
tích tụ và tập trung ruộng đất
Các nhà Mác-xít cho rằng "tích tụ đất
đai là quá trình tích tụ tư bản với đất đai là tư
liệu sản xuất chính để mở rộng sản xuất và
phát huy được lợi thế kinh tế theo quy mô".
Giải nghĩa hiện tượng tích tụ và tập trung
ruộng đất từ quan niệm Mác-xít, tác giả Vũ
Trọng Khải cho rằng, thực chất tích tụ và tập
trung ruộng đất là hình thái hiện vật của tích
tụ và tập trung tư bản2. Cả hai hình thức tích
tụ và tập trung ruộng đất đều là hình thức
chuyển dịch đất đai theo hướng tăng quy
mô diện tích ruộng đất được quyền sử dụng,
nhằm khai thác lợi thế kinh tế theo quy mô
(economy of scale) và áp dụng công nghệ
hiệu quả, tạo ra các trang trại kinh doanh
với quy mô lớn hơn. Sự khác biệt nằm ở đối
tượng "chủ" nắm quyền sử dụng đất. Đối
với tích tụ ruộng đất, quy mô ruộng đất của
người "chủ" nắm quyền sử dụng đất tăng
lên. Đối với tập trung ruộng đất, không có
sự thay đổi về quy mô ruộng đất của những
người "chủ" nắm quyền sử dụng đất. Tập
trung ruộng đất là sự mở rộng quy mô diện
tích ruộng đất do hợp nhất nhiều thửa đất lại,
"chủ sở hữu" không thay đổi.
Hình thức tích tụ ruộng đất biểu hiện
ở các mô hình giúp tăng diện tích ruộng đất
của các hộ gia đình hoặc tổ chức kinh tế nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ)
nông nghiệp từ các cá nhân, tổ chức kinh tế
hoặc qua các mô hình góp vốn bằng quyền
sử dụng đất có chuyển QSDĐ giữa nông dân
với doanh nghiệp, tức là làm thay đổi QSDĐ
2 Vũ Trọng Khải (2019), "Cần chuẩn hóa các khái niệm và thuật ngữ để thảo luận và hoàn thiện chính sách phát triển nông
nghiệp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nông thôn Việt, 17/7/2019,
can-chuan-hoa-cac-khai-niem-va-thuat-ngu-de-thao-luan-va-hoan-thien-chinh-sach-phat-trien-nong-nghiep-o-nuoc-
ta-hien-nay-bai-1-747618/.
3 Đỗ Kim Chung (2018), "Tích tụ và tập trung đất đai: Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc phát triển nông nghiệp hàng
hoá tại Việt Nam", Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam 2018, 16(4): 412-424.
nông nghiệp của cá nhân, tổ chức kinh tế.
Hình thức tập trung ruộng đất biểu hiện ở
các mô hình giúp tăng diện tích mảnh ruộng
hoặc tạo ra các quy trình canh tác đồng nhất
mà không làm thay đổi QSDĐ nông nghiệp
của cá nhân, tổ chức kinh tế.
Tác giả Đỗ Kim Chung cho rằng tích
tụ đất đai là "hành vi trong đó chủ thể sở hữu
và sử dụng ruộng đất dùng các biện pháp
khác nhau như mua, chuyển nhượng và các
biện pháp khác nhằm tăng được quy mô
ruộng đất mà mình sở hữu và sử dụng", còn
tập trung đất đai là "quá trình làm tăng quy
mô đất đai cho sản xuất kinh doanh hay mục
đích nào đó nhưng không thay đổi quyền sở
hữu hay quyền sử dụng của các chủ thể sở
hữu và sử dụng ruộng đất"3. Tập trung ruộng
đất được hiểu là “gom” nhiều mảnh đất hiện
có thành mảnh đất, khu đất, cánh đồng có
quy mô lớn, liền vùng, liền thửa, phục vụ
cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp dịch
vụ, bằng con đường thuê mướn hoặc liên kết
sản xuất, kinh doanh, góp vốn QSDĐ vào
doanh nghiệp...
Về cơ bản, hai quan niệm này không
khác nhau, nhưng khi vận dụng có sự khác
biệt và ảnh hưởng khác nhau đến các học giả
Việt Nam. Cả hai tác giả nêu trên đều đồng
ý cho rằng, cơ chế thị trường là phương thức
chủ yếu và quan trọng bậc nhất cho việc tích
tụ ruộng đất. Tuy nhiên đối với tập trung đất
đai, Vũ Trọng Khải quan niệm chủ yếu là
phương thức sáp nhập và mua lại (merger
and acquisition - M&A) trong khi Đỗ Kim
Chung cho rằng có 03 phương thức chủ yếu
CHÑNH SAÁCH
46 Số 22(398) T11/2019
là (1) thuê quyền sử dụng đất; (2) góp vốn
bằng quyền sử dụng đất; và (3) hợp tác, liên
kết sản xuất. Đỗ Kim Chung cho rằng, "dồn
điền, đổi thửa" là một hình thức tập trung
ruộng đất. Về điểm này, tồn tại các quan
niệm khác nhau trong giới học giả Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Đình Bồng và Nguyễn Thị
Thu Hồng cho rằng, tích tụ đất đai là sự mở
rộng quy mô diện tích đất đai do hợp nhất
nhiều thửa lại, theo cơ chế thị trường, thông
qua các hình thức giao dịch dân sự (chuyển
nghượng QSDĐ, thừa kế, cho tặng QSDĐ)4.
Cách hiểu này không đặt trọng tâm vào chủ
sở hữu mà là cách thức tăng quy mô diện
tích, tức là có phần đồng nghĩa với cách hiểu
về tập trung đất đai của các học giả khác.
Theo quan niệm của Vũ Trọng Khải,
việc “dồn điền, đổi thửa” không phải là một
hình thức tích tụ và tập trung ruộng đất, vì
nó không làm tăng qui mô ruộng đất của
một nông hộ - trang trại gia đình, mà chỉ làm
giảm số lượng thửa đất (số mảnh ruộng) của
họ. Chúng tôi cho rằng cách nhìn này hợp lý
hơn và lý giải tốt hơn các hiện tượng chuyển
dịch đất đai theo hướng tập trung tốt hơn.
Tác giả Hồ Xuân Hùng cũng nhìn nhận vấn
đề dồn điền, đổi thửa theo hướng này khi lưu
ý những vấn đề khiến cho người dân không
ủng hộ chủ trương này, vì dồn điền đổi thửa
chỉ lợi cho người nhiều ruộng, chứ không có
lợi cho người ít ruộng; người chỉ sản xuất
để bán có lợi, còn những lao động lấy công
làm lãi thì không có lợi; cách dồn điền đổi
thửa như hiện nay không làm tăng quy mô
đất đai, có thể nảy sinh vấn đề không công
bằng5. Hình thức hợp tác liên kết sản xuất
theo mô hình cánh đồng mẫu lớn được Đỗ
4 Nguyễn Đình Bồng-Nguyễn Thị Thu Hồng (2017), "Một số vấn đề về tích tụ, tập trung đất đai trong phát triển nông
nghiệp và nông thông hiện nay", Tạp chí Cộng sản, số 6-2017.
5 Hồ Xuân Hùng (2017), Một số giải pháp về tích tụ và tập trung đất đai, tại Hội thảo "Tích tụ ruộng đất: được và mất?"
do Tạp chí Nông thôn Việt tổ chức ngày 29/5/2017 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Kim Chung và nhiều học giả xếp vào loại
tập trung đất đai. Tuy nhiên, Vũ Trọng Khải
cho rằng đây chỉ là hình thức tập trung sản
xuất theo hướng chuyên môn hoá.
Sử dụng góc nhìn thị trường về
chuyển dịch đất đai, Đặng Hùng Võ chỉ ra
3 hình thức tích tụ, tập trung ruộng đất: một
là, dựa vào quy mô hộ gia đình dưới dạng
trang trại lớn; hai là, hợp tác xã của nhiều
hộ, trong đó có hợp tác xã nhóm hộ, hình
thành mô hình hợp tác xã kiểu mới; ba là,
doanh nghiệp và nông dân với nhiều hình
thức hợp tác (hình thức này vẫn gặp một số
vướng mắc, đặc biệt là mối quan hệ và độ tin
cậy giữa doanh nghiệp - nông dân còn lỏng
lẻo). Ông cho rằng doanh nghiệp cần xem
trọng trách nhiệm xã hội lớn hơn lợi ích kinh
tế và cần có sự trợ giúp nhất định đối với thị
trường quyền sử dụng đất nông nghiệp để
thị trường đất đai ở khu vực nông thôn trở
nên minh bạch, hấp dẫn. Hoạt động tích tụ
ruộng đất được thực hiện trên thị trường đất
đai. Để có đất đai đáp ứng yêu cầu sản xuất,
kinh doanh, nhà đầu tư có thể mua hay thuê
quyền sử dụng đất (QSDĐ) theo nguyên tắc
“thuận mua, vừa bán” hoặc thuê lại đất và
trả địa tô cho người cho thuê đất.
Một điểm đáng lưu ý là tích tụ ruộng
đất thông qua cơ chế thị trường đồng nghĩa
với việc một bộ phận nông dân sẽ mất
QSDĐ, đồng nghĩa với việc họ có nguy cơ
bị bần cùng hóa rất cao. Tác giả Chu Văn
Cấp cho rằng tích tụ ruộng đất dẫn đến phân
hóa trong nông thôn vì xu hướng đất tập
trung vào một số người dẫn đến sự mất cân
bằng về thu nhập, dẫn đến tâm lý tiêu cực, tự
ti trong một bộ phận người dân nông thôn,
CHÑNH SAÁCH
47Số 22(398) T11/2019
từ đó dẫn đến hậu quả về mặt xã hội, đặt ra
thách thức về chính trị-xã hội, giải quyết hài
hoà mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả
sử dụng đất6.
Tương đồng với quan điểm của Vũ
Trọng Khải, tác giả Nguyễn Đỗ Anh Tuấn
phân loại làm 03 hình thức tích tụ ruộng đất
là (1) nông dân tích tụ ruộng đất thông qua
nhận chuyển nhượng đất của nông dân khác;
(2) doanh nghiệp tích tụ ruộng đất thông qua
nhận vốn góp của nông dân bằng quyền sử
dụng đất nông nghiệp; (3) doanh nghiệp tích
tụ ruộng đất thông qua nhận chuyển nhượng
đất của nông dân7. Trong khi đó, tác giả Trần
Kim Chung và Đinh Ngọc Hà lại đưa ra 05
hình thức tích tụ đất đai trên thực tế diễn
ra: (i) Lập trang trại từ việc thuê đất công
với đất tư, nhận chuyển nhượng, mượn hoặc
được giao, được thừa kế, cho tặng để hình
thành trang trại có quy mô từ nhỏ đến lớn;
(ii) Dồn điền, đổi thửa để phát triển kinh tế
nông hộ, có dịch vụ của hợp tác xã nông
nghiệp; (iii) Hộ tự nguyện góp đất, vốn mua
máy lập tổ hợp tác sản xuất, Nhà nước hỗ trợ
vốn để mua máy, thực hiện cơ giới hóa nông
nghiệp nhằm tăng hiệu quả cho từng hộ theo
mức tích tụ đất và vốn của mỗi hộ; (iv) Hình
thức hộ nông dân góp vốn cổ phần bằng đất
để sản xuất - kinh doanh như những cổ đông
(ngành mía đường, cà phê, cao su); (v) Một
bộ phận nông dân tự chuyển nhượng ruộng
đất cho nhau khi không còn nhu cầu sản xuất
hay không có khả năng sản xuất nông nghiệp
hoặc sản xuất không hiệu quả.
6 Chu Văn Cấp (2017), "Những tác động của quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất và một số giải pháp", Tạp chí Cộng
sản, số 7-2017.
7 Nguyễn Đỗ Anh Tuấn (2017), "Tích tụ, tập trung ruộng đất nông nghiệp: các hình thức và giải pháp", Tạp chí Cộng sản,
số 8-2017.
8 Đề tài tổ chức cuộc điều tra xã hội tại 07 tỉnh thành phố trên phạm vi cả nước với đối tượng là công chức, viên chức,
hộ gia đình nông dân, doanh nghiệp với số phiếu điều tra sử dụng là 700.
9 Báo cáo kết quả điều tra, trang 8.
2. Tác động của một số vấn đề chính
sách đất đai đối với phát triển nông nghiệp
Nhân tố nào là trở ngại lớn nhất cho
các doanh nghiệp đầu tư vào phát triển
nông nghiệp? Theo kết quả điều tra của đề
tài nghiên cứu khoa học8, câu trả lời nhận
được nhiều nhất là thiếu vốn, lợi nhuận
thấp (44.3%); xếp thứ hai là môi trường
kinh doanh nông nghiệp chứa nhiều rủi
ro (18.4%); thứ 3, không có quyền sở hữu
tư nhân về đất đai cũng là một lý do được
nhiều người lựa chọn (16.9%); và cuối cùng,
7.3% người trả lời nghĩ rằng thiếu đất là trở
ngại lớn cho việc đầu tư vào phát triển nông
nghiệp9. Một vài lý do khác cũng được đưa
ra là chưa có ý tưởng rõ ràng cho việc phát
triển nông nghiệp một cách hiện đại và hiệu
quả, dẫn đến rủi ro thất bại cao, lực lượng
lao động còn ít...
Trong chính sách đất đai, giao đất, cho
thuê đất là nội dung rất quan trọng. Theo
quy định của Luật Đất đai 2013, đa phần các
trường hợp khi giao đất, cho thuê đất nông
nghiệp đối với cá nhân, hộ gia đình và các tổ
chức đều có thời hạn không quá 50 năm; cho
thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng
vào mục đích công ích của xã, phường, thị
trấn là không quá 5 năm (Điều 126). Nghiên
cứu tác động của quy định này đối với việc
đầu tư của các doanh nghiệp vào phát triển
nông nghiệp, 62.2% người trả lời cho rằng
việc quy định thời hạn giao đất, cho thuê đất
nông nghiệp không quá 50 năm khiến nhà
đầu tư không yên tâm và đầu tư lâu dài, dễ
nảy sinh tâm lý xã hội bất ổn khi sắp hết
CHÑNH SAÁCH
48 Số 22(398) T11/2019
thời hạn giao đất, cho thuê đất, ngược lại
24.2% không đồng tình với quan điểm này
và 12.6% không có ý kiến10. Như vậy, kết
quả điều tra gợi ý rằng quy định hiện nay về
thời gian giao đất, cho thuê đất nông nghiệp
có khả năng là nguyên nhân gây ra tính kém
hấp dẫn của môi trường kinh doanh trong
nông nghiệp.
Đối với hình thức giao đất, cho thuê
đất, thực tế diễn ra 04 hình thức chủ yếu là
giao đất không thu tiền, giao đất có thu tiền,
thuê đất trả tiền hàng năm và thuê đất trả
tiền một lần cho cả thời gian thuê. Theo quy
định tại Điều 54 Luật Đất đai 2013, hộ gia
đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối
được Nhà nước giao đất trong hạn điền thì
không thu tiền sử dụng đất. Nghiên cứu
tác động của quy định này cho thấy phần
lớn người trả lời (62%) cho rằng việc Nhà
nước giao đất trong hạn điền cho cá nhân,
hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp,
không thu tiền sử dụng đất như hiện nay là
không hiệu quả, gây lãng phí, không bình
đẳng trong sản xuất nông nghiệp, bên cạnh
23.3% không đồng ý và 12.4% không có ý
kiến11. Thực tế cho thấy nhiều hộ gia đình
khi không có nhu cầu sử dụng thì vẫn giữ
đất như một vật "bảo hiểm" hoặc chờ thu lợi
từ chính sách đền bù khi Nhà nước thu hồi,
nên bỏ hoang đất, không giao lại cho Nhà
nước, gây lãng phí đất đai và làm mất cơ hội
sử dụng đất của một số chủ thể khác như cá
nhân sinh sau thời điểm giao đất, các doanh
nghiệp muốn đầu tư vào nông nghiệp nhưng
thiếu quỹ đất.
Thị trường quyền sử dụng đất nông
nghiệp đóng vai trò quan trọng đối với việc
10 Báo cáo kết quả điểu tra, trang 9.
11 Báo cáo kết quả điểu tra, trang 10.
12 Báo cáo kết quả điểu tra, trang 11.
thực hiện chính sách chuyển dịch đất đai.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, yếu tố cản trở
việc tích tụ đất nông nghiệp để sản xuất quy
mô lớn được đa số người trả lời (66%) đồng
ý, là do mức độ hoạt động của thị trường
quyền sử dụng đất nông nghiệp còn chậm.
Tuy nhiên, 41.1% người trả lời cho rằng
việc cho phép tích tụ đất nông nghiệp vượt
hạn điền hiện nay để sản xuất quy mô lớn có
thể dẫn đến hệ quả lớn nhất là đầu cơ ruộng
đất thu lời bất chính sẽ trở nên khó kiểm
soát, làm gia tăng bất bình đẳng, trong khi
38.2% e ngại rằng điều này sẽ dẫn đến tình
trạng nông dân mất đất, thất nghiệp, gây nên
bất bình đẳng xã hội12. Ngoài ra, cũng có ý
kiến cho rằng chính quyền sẽ không đủ sức
xây dựng và kiểm soát nông trường sản xuất
tập trung, ngược lại, có người cho rằng nếu
có quy hoạch hợp lý, cơ chế kiểm soát tốt,
phù hợp, quản lý tốt, sử dụng đúng mục đích
thì có thể mang lại kết quả tích cực.
Đối với vấn đề hạn mức giao đất, nhận
quyền sử dụng đất nông nghiệp (hạn điền),
việc nhận diện đây có phải là nguyên nhân
then chốt, cản trở chủ yếu đối với sự phát
triển của nông nghiệp hay không là một câu
hỏi nghiên cứu quan trọng. Theo quy định
tại Điều 129 và 130 của Luật Đất đai 2013,
tổng đất trồng cây hàng năm (cả được giao
và nhận chuyển nhượng QSDĐ qua các hình
thức khác nhau) của mỗi hộ gia đình, cá
nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp chỉ dưới
22 ha đến dưới 33 ha. Đứng trên quan điểm
phát triển nền nông nghiệp hiện đại quy mô
lớn, nhiều người cho rằng quy định hạn điền
như hiện nay là cản trở tích tụ ruộng đất phát
triển nông nghiệp quy mô lớn, là không phù
hợp vì số hộ làm nông nghiệp càng càng có
CHÑNH SAÁCH
49Số 22(398) T11/2019
xu hướng giảm. Trên thực tế ở vùng Đồng
bằng sông Cửu Long có nhiều hộ đã phát
triển với quy mô rất lớn vượt mức hạn điền.
Nghiên cứu về quyền của các chủ
thể đối với đất đai cho thấy có tồn tại sự
khác biệt. Cụ thể là cá nhân, hộ gia đình
có nhiều quyền hơn so với tổ chức kinh tế,
người nước ngoài và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn đối với đất
trồng lúa, doanh nghiệp, hộ gia đình và cá
nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp
thì không được nhận chuyển nhượng, nhận
tặng quyền sử dụng đất trồng lúa mà chỉ cá
nhân, hộ gia đình nông nghiệp mới có quyền
này. Đánh giá tác động của các quy định này
cho thấy nhiều người đứng từ góc độ mong
muốn tạo sự bình đẳng về quyền giữa các
chủ thể. Đa số người trả lời (60.4%) đồng ý
rằng việc các tổ chức kinh tế không có nhiều
quyền liên quan đến chuyển nhượng quyền
sử dụng đất như các nhân, hộ gia đình là một
sự bất bình đẳng, chưa khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, ngược lại,
cũng có 23.5% người trả lời phản đối quan
điểm này và 13.8% không có ý kiến13.
Nhìn chung, kết quả nghiên cứu gợi ý
rằng Luật đất đai hiện nay còn tồn tại nhiều
vấn đề liên quan đến việc quy định hạn mức
nhận chuyển quyền sử dụng đất, quy định
thời hạn giao đất, cho thuê đất, gây trở ngại
cho việc tích tụ đất nông nghiệp để sản xuất
quy mô lớn và khó khăn cho việc đầu tư của
các doanh nghiệp, những điều này chính là
nguyên nhân cản trở nông nghiệp phát triển
bền vững, hiện đại.
3. Một số đề xuất chính sách chuyển
dịch đất đai và mức độ ủng hộ
13 Báo cáo kết quả điểu tra, trang 12.
14 Báo cáo kết quả điểu tra, trang 13.
15 Báo cáo kết quả điểu tra, trang 13.
Trên cơ sở đánh giá tác động của một
số vấn đề chính sách đất đai đối với sự phát
triển nông nghiệp bền vững, hiện đại, chúng
tôi đã có 6 đề xuất chính sách đối với việc
sửa đổi Luật đất đai 2013, và khảo sát mức
độ ủng hộ nói chung, với tư cách là các chỉ
dấu đo lường tính khả thi của các đề xuất đó
như sau:
Thứ nhất, nhằm khắc phục hạn chế, bất
cập nảy sinh khi thực hiện giao đất không thu
tiền, Luật Đất đai sửa đổi nên quy định duy
nhất một hình thức là cho thuê đất (land lease).
Với đề xuất chính sách này; theo đó, các hộ gia
đình, cá nhân, tổ chức kinh tế đã được giao đất
dù thu tiền hay không thu tiền đều phải chuyển
sang hình thức thuê đất. Có 56.5% người trả
lời đồng ý với đề nghị này, 28.1% không đồng
ý và 13.7% không có ý kiến14.
Thứ hai, về chính sách liên quan đến
hạn điền, với quy định cứng như hiện nay,
có một số quan điểm trái ngược. Bên cạnh
33.3% người trả lời nhận định rằng cần giữ
nguyên quy định về hạn điền, có 31.7% cho
rằng nên mở rộng hạn điền, và 28.8% cho
rằng nên bãi bỏ hạn điền, thay bằng chính
sách tài chính để điều tiết việc chuyển
nhượng15. Quan điểm cho rằng cần bãi bỏ
hạn điền cứng, thay bằng chính sách tài
chính để kiểm soát đầu cơ tích trữ bằng giá
tiền cho thuê đất sẽ linh hoạt, mềm dẻo hơn,
phù hợp hơn với kinh tế thị trường, nhưng
lại chưa nhận được nhiều sự ủng hộ từ số
người tham gia khảo sát.
Những lợi điểm của việc áp dụng chính
sách hạn điền "mềm" như người sản xuất có
lợi vì tích tụ được ruộng đất cho sản xuất lớn,
Nhà nước có lợi vì thu được thêm tiền thuê
CHÑNH SAÁCH
50 Số 22(398) T11/2019
đất, từ đó sử dụng cho việc xây dựng hạ tầng
phục vụ sản xuất nông nghiệp, nâng cao hiệu
quả sản xuất, ngăn ngừa tình trạng suy thoái
tài nguyên đất do khai thác quá mức. Nhiều
người tham gia nghiên cứu đồng ý là Nhà
nước nên thí điểm bãi bỏ hạn điền hoặc mở
rộng hạn điền cho tích tụ đất nông nghiệp tại
một số địa phương để đánh giá tác động trước
khi sửa đổi Luật đất đai (82.4% trong tổng
số 522 người trả lời câu hỏi này), số người
không đồng ý hoặc không có ý kiến chiếm
không đáng kể (5.7% và 10.9%).
Thứ ba, đề xuất chính sách bãi bỏ quy
định cứng về thời hạn giao đất, cho thuê đất
nông nghiệp như hiện nay. Có 49.9% người
tham gia vào nghiên cứu đồng ý nên bãi bỏ
quy định này, nhưng cũng có 36.7% cho
rằng không nên bãi bỏ, và 12.1% không có ý
kiến16. Với kết quả như vậy, có thể nói mức
độ ủng hộ đối với đề xuất chính sách này là
chưa rõ ràng.
Thứ tư, trước việc các tổ chức kinh tế,
không có nhiều quyền liên quan đến chuyển
nhượng quyền sử dụng đất như cá nhân, hộ
gia đình sản xuất nông nghiệp, chúng tôi
đã đề xuất chính sách tạo sự bình đẳng về
quyền cho các chủ thể sử dụng đất nhằm
thu hút nhiều hơn các chủ thể khác tham
gia vào sử dụng đất có hiệu quả, thúc đẩy
sự phát triển nông nghiệp và kinh tế-xã hội
nói chung. Có 62.7% người trả lời nhất trí
rằng Nhà nước cần xóa bỏ sự phân biệt về
quyền cho các chủ thể sử dụng đất này, qua
đó tạo sự bình đẳng, thúc đẩy sự phát triển
của nông nghiệp. Tuy nhiên, vẫn có 26.2%
người trả lời không đồng tình với đề xuất
này, và 9.8% không có ý kiến17.
16 Báo cáo kết quả điểu tra, trang 14.
17 Báo cáo kết quả điểu tra, trang 14.
18 Báo cáo kết quả điểu tra, trang 15.
19 Báo cáo kết quả điểu tra, trang 16.
Thứ năm, đề xuất chính sách điều
chỉnh quyền đối với các chủ thể sử dụng đất,
nhất là một số quyền riêng của tổ chức, hộ
gia đình và cá nhân sử dụng đất như quyền
chuyển đổi và quyền chuyển nhượng. Có
55.9% ủng hộ đề xuất chính sách thay thế
quyền chuyển đổi và quyền chuyển nhượng
bằng một quyền duy nhất là quyền mua bán;
điều này được mong đợi là sẽ tạo thuận lợi
hơn cho tích tụ đất nông nghiệp. Ngược lại,
27.5% không có cùng quan điểm, và 14.3%
không có ý kiến18.
Thứ sáu, đề xuất chính sách nhằm
thúc đẩy sự phát triển của thị trường quyền
sử dụng đất thông qua các biện pháp đẩy
mạnh việc đăng ký và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, đó là đơn giản hơn các
thủ tục hành chính, hướng tới minh bạch
hơn trong hoạt động này, giúp người dân dễ
tiếp cận, tra cứu những thông tin liên quan
đến đất nông nghiệp bằng việc Nhà nước
công bố rộng rãi thông tin từng thửa đất trên
mạng Internet. Đề xuất chính sách này được
71.4% người tham gia khảo sát đồng tình,
chỉ có 17.9% không đồng ý và 9.4% không
có ý kiến19.
Tóm lại, trước những vấn đề vẫn còn
tồn tại trong chính sách đất đai hiện nay,
việc sửa đổi Luật Đất đai lần này cần tạo
thêm thuận lợi cho việc chuyển dịch đất đai
phục vụ mục tiêu phát triển nông nghiệp bền
vững, hiện đại. Một số đề xuất chính sách
nhằm tạo sự thay đổi theo hướng này, bước
đầu nhận được sự ủng hộ với chỉ dấu ngày
càng tăng lên của công chúng, và là những
căn cứ quan trọng để các nhà làm luật, làm
chính sách cân nhắc, quyết định
CHÑNH SAÁCH
51Số 22(398) T11/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh_sach_chuyen_dich_dat_dai_theo_huong_tich_tu_tap_trung.pdf