Đặc điểm điện cơ ký của loạn trương lực cơ tay khi viết: Khảo sát trên 22 trường hợp
Các trường hợp bị loạn trương lực từ 3 cơ trở
lên đều nặng, chức năng viết bị ảnh hưởng trầm
trọng. Các triệu chứng đau và đơ cứng cũng
xuất hiện ở các trường hợp này (85%).
Tóm lại, điện cơ kim khi khảo sát các cơ loạn
trương lực khi viết đánh giá được khách quan
hơn mức độ nặng, tính chất lan tỏa hay khu trú
của các cơ bị rối loạn vận động. Ngoài ra, điện cơ
ký còn xác định được mức độ vận động của các
cơ đối vận mà trên lâm sàng người thầy thuốc
rất khó phát hiện. Trong các cơ đối vận ở bệnh
nhân bị LTLCTV, chúng tôi ghi nhận có 9 cơ có
dạng rung cơ (18,75%), 14 cơ (29,16%) có biểu
hiện giao thoa bằng dạng pha bất thường không
đều và đồng bộ với cơ chủ vận, 2 cơ (4,10%)
cũng biểu hiện pha bất thường không đều
nhưng luân phiên với cơ chủ vận. Điều này có
thể giải thích 1 phần được hiện tượng loạn
trương lực cơ khi làm động tác là do sự mất ức
chế của cơ đối vận. Ý nghĩa sinh lý bệnh của hiện
tượng rối loạn vận động này góp phần vào việc
giải thích được sự kiểm soát vận động ở động
vật cấp cao (1,4). Còn 20 cơ đối vận còn lại
(41,66%) không ghi nhận các đợt kịch phát mà
chỉ là các dạng điện thế hoạt động co cơ bình
thường, thời gian < 100 ms nhưng đồng bộ với
cơ chủ vận. Nhóm 20 cơ này đều tập trung vào
các bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng nhẹ đến
trung bình, chức năng viết có bị ảnh hưởng
nhưng hậu quả khuyết tật chỉ ở mức trung bình.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 197 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm điện cơ ký của loạn trương lực cơ tay khi viết: Khảo sát trên 22 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶC ĐIỂM ĐIỆN CƠ KÝ CỦA LOẠN TRƯƠNG LỰC CƠ TAY KHI VIẾT:
KHẢO SÁT TRÊN 22 TRƯỜNG HỢP
Nguyễn Thị Hoài Châu*, Nguyễn Thi Hùng**, Trần Thị Liên Minh*
TÓM TẮT
Mục tiêu. Xác định nhóm cơ bị loạn trương lực khi viết để hướng dẫn điều trị chính xác.
Đối tượng và phương pháp. 22 bệnh nhân bị loạn trương lực cơ tay khi viết được đo điện cơ ký bằng
máy Medtronic 2 kênh tại Phòng Điện cơ Bệnh viện 115 TP HCM.
Kết quả. So sánh với người bình thường tất cả những bệnh nhân này đều có bất thường trên điện cơ ký
khi viết: co đồng thời cơ chủ vận và cơ đối vận; với những hình ảnh của loạn trương lực cơ tay khi viết: tăng
trương lực kéo dài, có những pha bất thường, rung cơ, rung giật cơ.
Kết luận. Qua điện cơ ký có thể xác định nhóm cơ chính bị loạn truơng lực khi viết, góp phần giải thích
cơ chế điều khiển vận động tinh tế của bàn tay.
ABSTRACT
WRITER’S CRAMP : ELECTROMYOGRAPHIC ANALYSIS OF 22 CASES.
Nguyen Thi Hoai Chau, Nguyen Thi Hung, Tran Thi Lien Minh*
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 370 - 374
Subjectives and method: We studied 22 patients with Writer’s cramp. EMG was recorded while
patients performed the task of writing.
Results: All these patients had abnormalities on EMG patterns in comparison with normal persons on
writing. EMG features showed muscle spasms with co-contraction of agonist and antagonist muscles and
characteristic patterns of hand dystonia: tonic, irregular-phasic, tremulous, myoclonic patterns. The results
showed that EMG could localize more accurately hyperactive muscles for botulinum toxin injection.
Conclusion: The abnormalities of EMG suggested Writer’s cramp is an occupational focal dystonia
characterized by excessive muscle activities caused by defective multi-level fine motor control of the nervous
system.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Loạn trương lực cơ tay khi viết (LTLCTV) là
một bệnh lý rối loạn vận động hiếm gặp, nhưng
ảnh hưởng trầm trọng vào chức năng viết của
người bệnh. Tỉ lệ bệnh toàn bộ ở các nước Âu
Mỹ là từ 7 đến 10 / 100.000 dân(3) Dù chưa có một
nghiên cứu dịch tễ học nào ở Đông Nam Á
nhưng tỉ lệ này được phỏng định là cao hơn các
nước Âu Mỹ. Việc xác định chính xác các cơ bị
LTLCTV bằng điện cơ ký giúp cho người thầy
thuốc có thể tiêm Botulinum Toxin (BTX) vào
đúng vị trí của cơ hơn là chẩn đoán bằng lâm
sàng đơn thuần(2,6). Nghiên cứu được khảo sát
trên 22 trường hợp bị LTLCTV trong thời gian từ
2004 đến 2008.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CƯU
Các bệnh nhân từ 15-50 tuổi được chẩn đoán
lâm sàng là LTLCTV được đưa vào nhóm
nghiên cứu. Bệnh nhân được chẩn đoán là
LTLCTV khi tiền sử có viết khó trong một thời
gian mà trước đó động tác viết hoàn toàn bình
thường. Tình trạng viết khó biểu hiện bằng loạn
trương lực ở các cơ cẳng tay và bàn tay khi viết
kèm với các triệu chứng đau và run làm chức
* Đại học Y Dược TP.HCM, ** Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
năng viết bị giảm từ nhẹ đến nặng.
Các bệnh nhân được đánh giá mức độ trầm
trọng bằng thang điểm LTLCTV gồm có 5 độ.
Nghiên cứu loại trừ các bệnh nhân có tiền căn
chấn thương sọ não, bại não, bệnh thần kinh
ngoại biên và tiền sử bệnh tâm thần.
Các bệnh nhân này được sử dụng một mẫu
thống nhất về LTLCTV và được khảo sát thêm
về đặc điểm dân số học lâm sàng, thời gian bị
bệnh và các thuốc đã sử dụng. Máy điện cơ ký
2 kênh của Medtronic được dùng để ghi nhận
hoạt động của các cơ tay bị loạn trương lực
trong khi bệnh nhân đang viết sau khi thăm
khám lâm sàng từng trường hợp cụ thể. Kĩ
thuật điện cơ kim được sử dụng để xác định
các cơ này vì chúng tôi không có được điện
cực móc bằng thép để nghiên cứu. Bệnh nhân
được viết cùng một nội dung câu chữ và việc
khảo sát điện cơ ký được thực hiện lần lượt ở
các cơ đồng vận và đối vận. 22 trường hợp này
được làm điện cơ kim tại phòng điện cơ ký
bệnh viện nhân dân 115.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm tư thế bất thường ở cẳng tay và
bàn tay khi viết của 22 trường hợp.
Động tác tì quá mức vào cây viết và tăng trương lực
Gập cổ tay quá mức
Duỗi cổ tay quá mức
Gập quá mức ngón cái và ngón trỏ
Nâng khuỷu tay lên cao hơn bình thường
Ngửa cổ tay quá mức
Có xu hướng trượt cây viết khỏi bàn tay
Ngón cái dang hay duỗi quá mức
Sấp cổ tay và cẳng tay
Duỗi ngón trỏ
Bảng 2: Chẩn đoán lâm sàng và điện cơ ký các cơ
LTLCTV.
STT Chẩn đoán các cơ loạn trương lực cơ tay chủ
vận
1 Duỗi ngón cái ngắn, duỗi ngón cái dài
2 Gập ngón cái dài, gập chung các ngón nông, gập
chung các ngón sâu
3 Duỗi cổ tay quay
4 Duỗi cổ tay trụ, duỗi chung các ngón
5 Gập ngón cái dài, duỗi chung các ngón và duỗi cổ
tay trụ
STT Chẩn đoán các cơ loạn trương lực cơ tay chủ
vận
6 Duỗi cổ tay trụ, duỗi chung các ngón
7 Duỗi cổ tay quay, duỗi ngón trỏ
8 Gập ngón cái dài, gập chung các ngón nông, gập
chung các ngón sâu
9 Gập ngón cái dài, gập chung các ngón nông, gập
chung các ngón sâu
10 Gập ngón cái dài, gập chung các ngón sâu
11 Gập cổ tay quay, gập chung các ngón nông
12 Duỗi ngón trỏ
13 Duỗi cổ tay trụ, duỗi chung các ngón
14 Gập ngón cái dài, gập chung các ngón nông, gập
chung các ngón sâu
15 Gập chung các ngón nông, gập chung các ngón
sâu
16 Duỗi cổ tay quay, duỗi chung các ngón
17 Gập ngón cái dài, gập cổ tay quay
18 Gập ngón cái dài, gập cổ tay quay, gập cổ tay trụ
19 Gập ngón cái dài, gập ngón cái ngắn, áp ngón cái
20 Duỗi cổ tay quay, duỗi cổ tay trụ
21 Duỗi cổ tay trụ, duỗi chung các ngón
22 Duỗi cổ tay trụ
BÀN LUẬN
Nghiên cứu trên 22 trường hợp LTLCTV
cho thấy bệnh khởi phát từ lúc trẻ tuổi đến
trung niên (20-45). Có một trường hợp 15 tuổi
và bị kèm với loạn trương lực cơ cổ. 70%
trường hợp có tiền sử viết rất nhiều, hơn 8 giờ
/ ngày trong một thời gian dài (1-3 năm) trước
khi xuất hiện LTLCTV. 80% trường hợp có
loạn trương lực cơ ngay khi bắt đầu viết và
tình trạng nặng dần trong khi 20% trường hợp
loạn trương lực xuất hiện sau khi viết khoảng
30 giây đến 1 phút. Tất cả các trường hợp đều
thuận tay phải, nam chiếm tỉ lệ cao hơn nữ
(72,72%), nghề nghiệp sử dụng bút viết chiếm
ưu thế (sinh viên, kế toán, giáo viên và công
nhân viên). Thời gian bị LTLCTV (từ lúc khởi
bệnh đến lúc khám bệnh) ngắn nhất là 7 tháng
và lâu nhất là 5 năm. Các bệnh nhân này đều
đã dùng các phương pháp điều trị khác nhau
như thuốc (Levodopa, Baclofen, Clonazepam,
Trihexyphenidyl), điều trị đông y (châm cứu),
vật lý trị liệu. Có 2 bệnh nhân trong gia đình
có người bị run và bệnh Parkinson.
Bảng 3: Hiện tượng tăng trương lực (tonic pattern)
Bảng 4: Hiện tượng pha xuất hiện bất thường (không đều)
Bảng 5: Hiện tượng rung cơ
Các đặc điểm lâm sàng ghi nhận là đau khi
viết (60%), run (25%), loạn trương lực cơ
(100%) đều xảy ra khi viết. Hiện tượng soi
gương cũng ghi nhận được ở 58% trường hợp.
Đây là hiện tượng khá phổ biến ở bệnh nhân
LTLCTV: khi bảo bệnh nhân viết bằng tay phải
và để tay trái bệnh nhân ở vị trí trung tính sẽ
thấy các vận động bất thường ở các ngón hay
cổ tay bên trái giống như trình trạng bất
thường ở bên phải khi viết. Hơn 80% các bệnh
nhân đều cho rằng khi dùng bàn tay trái để
chạm hay kềm giữ tay phải thì động tác
LTLCTV ở tay phải sẽ giảm đi. Đây là hiện
tượng khởi động qua xúc giác (sensory trick)
cũng thường thấy ở các bệnh nhân loạn trương
lực cơ cổ khi họ muốn giảm bớt hiện tượng
xoay đầu(4,5).
Nghiên cứu đặc điểm các thay đổi hoạt động
điện của các cơ loạn trương lực (48 cơ) trong 22
trường hợp, chúng tôi ghi nhận có 4 dạng hoạt
động điện bất thường.
Dạng hoạt động điện kiểu tăng trương lực:
có hiện tượng giao thoa bắt nguồn từ các cơ bị
tăng hoạt bất thường với biên độ cao và mật độ
ít thay đổi, kéo dài đến vài giây.
Dạng pha bất thường không đều (irregular-
phasic pattern): đây là những đợt co thắt kịch
phát đồng bộ hay luân phiên của các cơ chủ vận
và đối vận với biên độ, nhịp và thời khoảng thay
đổi (300 ms đến vài giây).
Dạng rung cơ (tremulous pattern): với nhiều
đợt kịch phát thời gian khoảng 50-300 ms.
Dạng rung giật cơ (myoclonus): với các đợt
kịch phát xảy ra không đều đặn, có thời khoảng
ngắn hơn 300 ms trên nền hoạt động kiểu tăng
trương lực.
Dạng tăng trương lực ghi nhận trong 5/48 cơ
bị loạn trương lực cơ (10,4%), dạng pha bất
thường không đều ghi nhận ở 30/48 cơ (62,5%),
dạng rung cơ trong 10/48 (20,8%), dạng rung giật
cơ trong 1/48 (2%). Dạng tăng trương lực là hình
ảnh của các cơ bị LTLCTV nặng nhất, các bệnh
nhân này đã bị bệnh rất lâu (3-5 năm) bị ảnh
hưởng vào chức năng viết rất nặng, có 2 trường
hợp bị ảnh hưởng vào chức năng khác như cầm
đũa hoặc ly uống nước.
Hiệu ứng rung cơ có tỉ lệ là 20,8% và cho
thấy các cơ này bị rối loạn vân động ở mức độ
nhẹ khi viết. Dạng pha bất thường không đều
chiếm tỉ lệ cao nhất (62,5%). Sự co thắt bất
thường của các cơ đồng vận và đối vận gây ra
các thay đổi điện thế rất đặc hiệu, thời gian kéo
dài nhưng không đều, biên độ thường lớn hơn 1
mV và cũng thay đổi trong suốt thời gian viết.
So sánh với 3 trường hợp người bình thường
khi làm động tác viết và được khảo sát điện cơ
kim ở các cơ gập và duỗi cổ tay quay, gập và
duỗi cổ tay trụ, gập và duỗi ngón cái, gập và
duỗi chung các ngón thì điện thế loạn trương lực
có biên độ cao hơn nhiều và không đều (≥ 1 mV)
cùng với sự xuất hiện các dạng khác như tăng
trương lực, rung cơ hay rung giật cơ. Còn các cơ
của người bình thường khi viết chỉ có các dạng
hoạt động điện biểu hiện sự co cơ bình thường
với pha co cơ ngắn( < 100 ms) ở cơ chủ vận và cơ
đối vận và luôn có sự luân phiên co cơ ở hai
nhóm cơ này.
Các trường hợp bị loạn trương lực từ 3 cơ trở
lên đều nặng, chức năng viết bị ảnh hưởng trầm
trọng. Các triệu chứng đau và đơ cứng cũng
xuất hiện ở các trường hợp này (85%).
Tóm lại, điện cơ kim khi khảo sát các cơ loạn
trương lực khi viết đánh giá được khách quan
hơn mức độ nặng, tính chất lan tỏa hay khu trú
của các cơ bị rối loạn vận động. Ngoài ra, điện cơ
ký còn xác định được mức độ vận động của các
cơ đối vận mà trên lâm sàng người thầy thuốc
rất khó phát hiện. Trong các cơ đối vận ở bệnh
nhân bị LTLCTV, chúng tôi ghi nhận có 9 cơ có
dạng rung cơ (18,75%), 14 cơ (29,16%) có biểu
hiện giao thoa bằng dạng pha bất thường không
đều và đồng bộ với cơ chủ vận, 2 cơ (4,10%)
cũng biểu hiện pha bất thường không đều
nhưng luân phiên với cơ chủ vận. Điều này có
thể giải thích 1 phần được hiện tượng loạn
trương lực cơ khi làm động tác là do sự mất ức
chế của cơ đối vận. Ý nghĩa sinh lý bệnh của hiện
tượng rối loạn vận động này góp phần vào việc
giải thích được sự kiểm soát vận động ở động
vật cấp cao (1,4). Còn 20 cơ đối vận còn lại
(41,66%) không ghi nhận các đợt kịch phát mà
chỉ là các dạng điện thế hoạt động co cơ bình
thường, thời gian < 100 ms nhưng đồng bộ với
cơ chủ vận. Nhóm 20 cơ này đều tập trung vào
các bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng nhẹ đến
trung bình, chức năng viết có bị ảnh hưởng
nhưng hậu quả khuyết tật chỉ ở mức trung bình.
KẾT LUẬN
LTLCTV là một loại rối loạn vận động mới
được nghiên cứu ở các nước Âu Mỹ từ hơn 15
năm nay. Ở Việt Nam, chưa có công trình nào
nghiên cứu về rối loạn vận động này. Nghiên
cứu của chúng tôi trên 22 trường hợp đã rút ra
được một số đặc điểm lâm sàng và hình ảnh
điện cơ ký đặc hiệu của các LTLCTV. Các kết
quả này có thể giúp giải thích một phần về sinh
lý về sự điều hòa vận động của người. Các kết
quả này cũng giúp cho người thầy thuốc đánh
giá chính xác hơn mức độ nặng nhẹ, diễn biến
lâm sàng và tiêm chính xác hơn BTX vào các cơ
loạn trương lực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hughes M & Mclellan DL. Increased Co-Activation of The
Upper Limb Muscles in Writer’s Cramp. J Neurol
Neurosury Psychiatry 1985; 48: 782-7.
2. Lees AJ and Coll. Treatment of writer’s dystonia. Lancet
1989; 2: 1525.
3. More P. and Coll. Handbook of Botulinum Toxin therapy.
2005.
4. Rothwell JC and Coll. Pathophysiology of dystonias. In
motor control mechanisms in Health and Disease (ed.
Desmedt JE) 1983: pp. 851-63. New York: Raven Press.
5. Sheehy MP & Marsden CD. Writer’s Cramp - A Focal
Dystonia. Brain 1982; 105:461-80.
6. Therapeutics and Technology Subcommittee of the
American Academy of Medecine. Assessment: The
Clinical Usefulness of Botulinum Toxin type A In Treating
Neurologic Disorders. Neurology 1990; 40: 1332-6.
7. Tsui JK and Coll. Botulinum Toxin in writer’s cramps. Ann
Neurol 1987; 22: 147. Abstract.
8. Williams A. Consensus Statement for the Management of
Focal Dystonias. Br J Hosp Med 1993; 50(11): 655-9.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_dien_co_ky_cua_loan_truong_luc_co_tay_khi_viet_khao.pdf